Nuclear_Weapons.jpg

Bài viết của Thomas Schelling về sự ép buộc và cạnh tranh chấp nhận rủi ro vẫn mang giá trị thực tiễn đối với việc phân tích những thách thức cùng với sự quản lý leo thang. Chiến lược của Mỹ về quản lý leo thang dưới cái bóng hạt nhân là buộc kẻ thù ngừng chiến trong khi thể hiện sự kiềm chế đối với những mục tiêu và việc sử dụng vũ lực của Mỹ - nói cách khác, là từ chối trừng phạt – để khiến đối thủ có sự kiềm chế tương tự. Cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm về các vấn đề chiến lược toàn cầu Madelyn Creedon đã giải thích mối quan hệ giữa sự kiềm chế lẫn nhau, răn đe và sự quản lý leo thang: “Cần có yếu tố kiềm chế trong những phản ứng của chúng ta (trước các cuộc tấn công), điều này đồng thời kèm theo răn đe. Sự kiềm chế của chúng ta thể hiện một cam kết sẽ hành động lớn hơn nếu gặp phản ứng”.

Bài viết này áp dụng khuôn khổ đó đối với chiến lược quân sự của Mỹ ở Đông Bắc Á. Phần đầu tóm tắt những phát triển trong chiến lược của Triều Tiên và Trung Quốc, cũng như những ảnh hưởng đối với chiến lược quốc phòng của Mỹ. Phần thứ hai miêu tả khái niệm của Schelling về cuộc cạnh tranh chấp nhận rủi ro và lập luận rằng đó là một khuôn khổ đáng giá để phát triển chiến lược quản lý sự leo thang. Phần thứ ba áp dụng khuôn khổ này đối với với bán đảo Triều Tiên. Hai phần cuối áp dụng khuôn khổ này vào một cuộc xung đột thông thường Mỹ-Trung: phần thứ tư tìm hiểu những nguy cơ leo thang cả có chủ ý lẫn không chủ ý trong một cuộc xung đột như vậy, và phần thứ năm thảo luận một số biện pháp ngăn chặn sự xung đột không chủ ý.

Những nỗ lực của liên minh Mỹ-Hàn phối hợp trong chiến lược vững chắc nhằm quản lý leo thang đối với các cuộc đối đầu với Triều Tiên đã có tiến bộ. Trước mắt, những thách thức đang diễn ra bao gồm việc nhận diện những tiến triển trong một cuộc đối đầu, đòi hỏi phải thay đổi các mục tiêu từ quản lý leo thang cho đến hạn chế thiệt hại hay thay đổi chế độ, và xác định vai trò của các lực lượng tấn công thông thường của Hàn Quốc và làm thế nào những năng lực này phù hợp với sự hiểu biết về sự leo thang của liên minh này.

Quản lý leo thang một cách hiệu quả trong một cuộc xung đột thông thường với Trung Quốc sẽ đòi hỏi những hiểu biết tương tự về sự leo thang giữa các quan chức của Mỹ và Trung Quốc, khả năng tránh vượt qua những giới hạn và truyền đạt cho nhau những giới hạn nào mà hai bên mong đợi, và những tính toán kỹ lưỡng về những hậu quả của sự leo thang. Bởi vì ngay cả những cuộc xung đột ở mức độ thấp hơn cũng sẽ gây ra những nguy cơ lớn xảy ra sự leo thang không chủ ý, bài này tìm hiểu những biện pháp của Mỹ củng cố sự kiềm chế lẫn nhau ngay từ giai đoạn đầu của cuộc đối đầu, nhưng những biện pháp này sẽ nhanh chóng trở nên bất khả thi nếu Trung Quốc không hợp tác.

Phân tích trong bài viết này bao gồm 2 quá trình đơn giản hóa có chủ đích. Thảo luận về bán đảo Triều Tiên tập trung riêng vào những nỗ lực Mỹ-Hàn quản lý sự leo thang trong các cuộc khủng hoảng và không đề cập đến vai trò của Trung Quốc hay Nhật Bản. Về phần Mỹ-Trung, cuộc thảo luận này tìm hiểu sự leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc, nhưng đối với một phân tích toàn diện hơn cần phải bao gồm những ý định và hành động của các nước khác liên quan như Nhật Bản hay Đài Loan đối với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng Mỹ-Trung. Hi vọng rằng việc thu hẹp danh sách các bên có liên quan sẽ làm sáng các vấn đề cơ bản, các câu hỏi và các khuyến nghị mà các nghiên cứu toàn diện hơn có thể xem xét thêm.

Các khả năng quân sự đang gia tăng ở Đông Bắc Á

Cả Trung Quốc lẫn Triều Tiên đều đang thay đổi quan điểm chiến lược quân sự của họ. Cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm về chính sách hạt nhân và phòng thủ tên lửa Bradley Roberts xác định những thách thức này thông qua hai khái niệm: đó là sự không liên tục và nghịch lý mối quan hệ ổn định-bất ổn. Các đồng minh của Mỹ quan ngại rằng khả năng Trung Quốc và trong tương lai là Triều Tiên tấn công vào đất Mỹ bằng các tên lửa trang bị hạt nhân, điều này có thể khiến họ rút ra khỏi khỏi những cam kết an ninh của Mỹ. Và Triều Tiên hay Trung Quốc có thể tin chắc rằng các khả năng quân sự của họ tạo ra các mối quan hệ răn đe ổn định với Mỹ, do đó họ thách thức các đồng minh của Mỹ: Triều Tiên có thể tìm cách ép buộc và thậm chí tăng thêm các cuộc tấn công thông thường nhằm vào Hàn Quốc và Nhật Bản. Trung Quốc có thể theo chủ nghĩa bành trướng từng bước một, dần dần khẳng định quyền kiểm soát lãnh thổ tranh chấp. Hiện đang diễn ra một cuộc thảo luận về những ảnh hưởng của những xu này đối với chiến lược quốc phòng của Mỹ.

Trung Quốc có một kho vũ khí hạt nhân và chương trình tên lửa đạn đạo tối tân và đang nỗ lực duy trì năng lực tấn công trả đũa chắc chắn chống lại Mỹ. Vì những lý do đó, một số nghiên cứu đã kết luận rằng khả năng gây tổn thương lẫn nhau về hạt nhân đối với Trung Quốc là một thực tế đối với Mỹ. Trung Quốc cũng đang triển khai nhiều hệ thống phi hạt nhân, bao gồm các tên lửa đạn đạo thông thường để tấn công các căn cứ và các tàu sân bay, các vũ khí chống không để phá hủy các vệ tinh, các khả năng mạng để làm tê liệt các hệ thống phụ thuộc vào mạng, các tàu ngầm tấn công, các hệ thống phòng không, và máy bay chiến đấu. Nhiều nhà phân tích lập luận rằng những năng lực này hỗ trợ cho chiến lược chống tiếp cận/ngăn chặn xâm nhập khu vực (A2/AD) đánh bại các lực lượng thông thường của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương và ngăn cản các lực lượng tiếp viện của Mỹ vào khu vực này, một phần bằng việc phá vỡ các hệ thống chỉ huy và kiểm soát (C2) và tình báo, giám sát và do thám (ISR).

Khái niệm tiếp cận tác chiến chung và khái niệm tác chiến trên không-trên biển (ASB) có liên quan nhằm mục đích đảm bảo tính hiệu quả của các lực lượng thông thường của Mỹ khi Trung Quốc và các nước khác triển khai các năng lực A2/AD. Những khái niệm này hình dung ra các cuộc tấn công chống lại các mục tiêu chiến lược trên lãnh thổ của kẻ thù ngay từ đầu trong một cuộc xung đột. Các cuộc tấn công chống lại C2 và ISR, các vũ khí phòng thủ như tên lửa đạn đạo và cơ sở hạ tầng quân sự, nếu thành công, sẽ khiến cho đối thủ “bị mù, bị câm, bị điếc” trên chiến trường của cuộc xung đột và có ít khả năng hơn thực hiện các chiến dịch quân sự hiệu quả. Việc này sẽ cho phép Mỹ và các đồng minh duy trì ưu thế leo thang trong một cuộc xung đột thông thường. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích lập luận rằng khái niệm này đánh giá thấp tư thế hạt nhân của Trung Quốc sẽ kiềm chế các hành động của Mỹ nhiều như thế nào trong một cuộc chiến tranh thông thường. Họ đặt câu hỏi liệu một tổng thống sẽ có lúc nào ra lệnh thực hiện các cuộc tấn công thông thường quy mô lớn nhằm vào Trung Quốc đại lục hay không.

Sự cân bằng quân sự với Triều Tiên cũng đang tiến triển. Đất nước này tiếp tục thúc đẩy khả năng tác chiến để phóng các đầu đạn hạt nhân bằng các tên lửa đạn đạo. Nước này đã hoàn thành vụ nổ hạt nhân thứ ba vào tháng 2/2013, và cộng đồng tình báo Mỹ đánh giá rằng nước này cuối cùng sẽ có khả năng thu nhỏ các đầu đạn hạt nhân và đưa chúng vào các tên lửa đạn đạo. Cuộc phóng vệ tinh thành công vào tháng 12/2012 minh chứng cho sự tiến bộ trên con đường hướng tới phát triển các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa, trong khi các tên lửa hiện nay của Triều Tiên có thể vươn tới các mục tiêu ở Nhật Bản. Triều Tiên cũng sở hữu đủ đạn tầm ngắn để phá hủy Seoul bằng các cuộc tấn công chớp nhoáng, mà cho phép nước này đe dọa leo thang một cuộc chiến thông thường đầy thảm họa để gây sức ép và răn đe.

Các nhà phân tích cảnh báo rằng kho vũ khí mới xuất hiện của Triều Tiên đòi hỏi Mỹ phải điều chỉnh các kế hoạch của mình cho thích hợp với các cuộc xung đột trên bán đảo Triều Tiên. Các quan chức Triều Tiên sẽ diễn giải các cuộc tấn công bằng vũ khí thông thường trên quy mô lớn nhằm vào các mục tiêu chính trị, C2, ISR, và các mục tiêu hệ thống các vũ khí được xem như là khởi mào chiến dịch nhằm phá hủy chế độ, điều này thúc đẩy họ thực hiện một nỗ lực liều lĩnh nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh thông qua các cuộc tấn công vũ khí hạt nhân có giới hạn nhằm vào các nước láng giềng và/hoặc các lực lượng của Mỹ trong khu vực. Diễn biến này sẽ buộc các quan chức Mỹ phải đưa ra hai lựa chọn quan trọng: hoặc tiếp tục chiến đấu bằng các vũ khí thông thường trong khi mạo hiểm tiếp tục các cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân, hoặc vô hiệu hóa khả năng quân sự hay hủy diệt chế độ và phần lớn nước này bằng vũ khí hạt nhân, khiến hàng trăm nghìn người dân thiệt mạng.

Chủ đề xuyên suốt những bài phê bình này là nhằm thực hiện một đòn đo ván sớm có thể lấy đi động lực của kẻ thù để kiềm chế sử dụng vũ khí hạt nhân, và các nhà hoạch định chính sách Mỹ có thể không cho phép những chiến dịch như vậy diễn ra ngay từ khi bắt đầu một cuộc đối đầu. Quan điểm không đồng nhất này có thể làm xói mòn sự răn đe của Mỹ. Những mối đe dọa răn đe được đặt trong các chiến lược triển sẽ đáng tin cậy hơn vì Mỹ có thể sử dụng chúng. Nhưng để có thể là chiến lược tin cậy, các kế hoạch thực hiện phải nhìn nhận rằng những quan ngại về sự leo thang sẽ thấm nhuần trong các quyết định của Mỹ qua các giai đoạn của một cuộc đối đầu quân sự với Triều Tiên và Trung Quốc. Như Paul Bracken lập luận một cách thuyết phục, việc quản lý những nguy cơ sử dụng vũ khí hạt nhân phải là một cơ sở vững chắc trong chiến lược quân sự của Mỹ ở Đông Bắc Á.

Những khái niệm về việc quản lý leo thang

Thực tế này không có nghĩa là Mỹ nên từ bỏ các chiến dịch tấn công chống lại các nước gây hấn. Sự răn đe mở rộng và hiệu quả đòi hỏi Mỹ và các đồng minh của nước này phải phát triển những lựa chọn quân sự hiệu quả cho một loạt biến cố. Nếu không, Triều Tiên hay Trung Quốc có thể nhìn nhận đó là cơ hội để cưỡng ép các nước láng giềng trong khi các đồng minh của Mỹ có thể sẽ lo sợ trước trỗi dậy về cân bằng quân sự của Trung Quốc và/hoặc Triều Tiên, khiến họ rời xa những cam kết an ninh của Mỹ. Do những hậu quả mang tính hủy hiệt của chiến tranh vũ khí hạt nhân có giới hạn, các mục tiêu chiến lược của Mỹ và các đồng minh có thể không đạt được việc hủy diệt hoàn toàn các lực lượng quân sự của kẻ thù hay thực hiện được việc thay đổi chế độ, ít nhất ngay từ khoảng thời gian đầu các cuộc xung đột. Thay vào đó, Mỹ sẽ tìm cách buộc đối thủ phải ngừng chiến đấu và phục hồi nguyên trạng đồng thời ngăn không để cho xung đột leo thang. Việc đạt được các mục tiêu này đòi hỏi phải có cả sự leo thang có chủ ý lẫn việc thiết lập các giới hạn chung đối với việc sử dụng vũ lực. Một chiến lược vững chắc để quản lý leo thang sẽ dựa vào hai khái niệm có liên quan: một cuộc cạnh tranh chấp nhận rủi ro và ngăn chặn leo thang.

Các mục tiêu của việc triển khai lực lượng trong cuộc cạnh tranh chấp nhận rủi ro gồm hai mặt đó là: chứng tỏ quyết tâm và tạo ra một tình huống nguy cơ cao mà buộc các nhà lãnh đạo đối thủ phải ngừng chiến đấu. Quy mô và các mục tiêu của các chiến dịch quân sự được tính toán để cho đối thủ thấy rằng cuộc xung đột này đang leo thang vượt ra ngoài tầm kiểm soát, nhưng chưa đến mức lựa chọn chiến tranh hạt nhân, thay vào đó đàm phán một lối thoát hòa bình. Thomas Schelling đã miêu tả khái niệm này là mối đe dọa gây ra các tình huống may rủi; những hành động quân sự là hết sức nguy hiểm bởi vì những hậu quả của chúng là không thể dự đoán và kiểm soát. Tuy nhiên, những lựa chọn được sắp xếp theo những mục tiêu này có thể phù hợp với những mục tiêu quân sự hẹp hơn, như việc đánh đuổi lực lượng đã thực hiện chiếm thực thể đảo diễn ra gần đây. Sự trừng phạt và những chiến dịch được cân nhắc một cách thận trọng nhằm loại bỏ những mục tiêu của kẻ thù, điều này có thể tác động đến nhận thức của họ về cả cái giá của việc leo thang lẫn việc tiếp tục hành động họ đang làm. Theo quan điểm này, những mối đe dọa răn đe không phải luôn luôn thành công hay thất bại theo nghĩa tuyệt đối. Tuy nhiên, đối với những sự đe dọa mà ngay từ đầu không ngăn cản được kẻ thù thì việc liên tục gia tăng tạo ra răn đe sau cùng cũng sẽ tác động tới họ.

Làm thế nào một cuộc tấn công có thể áp đặt những cái giá lớn và tạo ra những rủi ro của cả hai bên trong khi vẫn truyền đạt được với đối phương về những giới của việc sử dụng vũ lực? Câu trả lời nằm ở mối liên hệ giữa kiềm chế và răn đe lẫn nhau. Mỗi một mối đe dọa răn đe đều chứa đựng cam kết kiềm chế: hãy đừng tấn công chúng tôi và chúng tôi sẽ không tấn công các anh. Việc quản lý sự leo thang đòi hỏi các binh lính không được sử dụng một số vũ khí nhất định và tránh tấn công vào những kiểu mục tiêu nào đó kể cả sau những thất bại ban đầu đối với nỗ lực nhằm ngăn chặn cuộc xung đột. Chẳng hạn, chúng tôi sẽ không tấn công các vũ khí hạt nhân của các anh chừng nào mà các anh không sử dụng chúng. Để đạt được những kết quả này, Mỹ cần truyền tải rõ rằng các mục tiêu giới hạn của nước này là tùy thuộc vào sự sẵn sàng từ bỏ sử dụng vũ khí hạt nhân của đối phương. Việc truyền thông điệp này đến các nhà lãnh đạo đối phương qua các kênh công khai hay không công khai sẽ là cần thiết nhưng không đủ; những hành động của Mỹ phải phù hợp với thông điệp này bằng cách tự kiềm chế không sử dụng các vũ khí gây hủy diệt hơn, hạn chế quy mô của cuộc tấn công, hay tránh những kiểu mục tiêu nhất định, như C2, các trung tâm lãnh đạo chính trị và các lực lượng hạt nhân. Thay vào đó, việc phớt lờ một cách có chủ tâm hay tình cờ những sự kiềm chế này có thể đẩy nhanh leo thang hạt nhân. Việc chuyển khái niệm này thành thực tiễn đòi hỏi một nỗ lực lâu dài để hiểu được những nhận thức, giá trị và các mục tiêu chiến lược của đối thủ.

Việc Mỹ sẽ cần chứng tỏ kiềm chế này trước đối thủ của mình khi diễn ra tình trạng bất trắc, hỗn loạn và sự nghi ngờ chiến tranh đặt ra cho họ những thách thức lớn. Việc nhận thức sai, hiểu sai, những rắc rối, thông tin tình báo sai và thông tin không chính xác có thể làm sai lệch những nỗ lực quản lý leo thang. Quan trọng hơn, Mỹ và đối thủ của nước này có thể sẽ hiểu những sự kiện theo cách nhìn khác nhau lý do là leo thang là mang tính chủ quan. Một nghiên cứu của RAND năm 2008 định nghĩa leo thang là “sự gia tăng cường độ hay quy mô của cuộc xung đột đi vượt quá giới hạn được thực hiện bởi một hay nhiều bên”. Hai nước có thể quan sát cùng một hành động nhưng hiểu nó theo nghĩa khác nhau. Một nước có thể vô ý vượt qua giới hạn của đối phương. Các nhà lãnh đạo có thể không biết được cái giới hạn tồn tại cho đến khi bước qua, hay họ có thể không biết được họ sẽ phản ứng ra sao trước một sự khiêu khích cho đến khi nó xảy ra. Để giải quyết các thách thức này, Mỹ sẽ phải cân bằng giữa việc giải quyết và kiềm chế trong khi phối hợp hành động với các đồng minh, những nước có các mục tiêu, mối quan ngại, giới hạn và khả năng của riêng họ.

Phần còn lại của bài này tìm hiểu những thách thức này trong các trường hợp liên minh Mỹ-Hàn và các mối quan hệ Mỹ-Trung.

Quản lý leo thang trên bán đảo Triều Tiên

Quản lý leo thang trong các cuộc xung đột với Triều Tiên đã là một ưu tiên đối với liên minh Mỹ-Hàn. Sau Đánh giá hạt nhân năm 2010, liên minh này đã bắt đầu tiến hành gặp gỡ thường xuyên để phát triển và xác định các khái niệm chiến lược chung về những kịch bản liên quan đến nguy cơ xảy ra leo thang hạt nhân. Nói theo cách của một quan chức Hàn Quốc, mục tiêu một cuộc tập trận trên sa bàn tại một trong những cuộc gặp gỡ này đang cải thiện “sự hiểu biết chung về những phản ứng trước các cuộc khủng hoảng hạt nhân”. Về mặt tác chiến, liên minh này nhất trí một kế hoạch chống khiêu khích đối với các cuộc tấn công thông thường quy mô nhỏ và một chiến lược răn đe có mục tiêu đối với các mối đe dọa hạt nhân của Triều Tiên. Liên minh này cũng đang phát triển một chiến lược chống tên lửa và đã thông qua những kế hoạch mới cho phép Hàn Quốc triển khai các tên lửa đạn đạo thông thường tầm xa hơn.

Tuy nhiên, những câu hỏi và thách thức vẫn còn đó. Kế hoạch chống khiêu khích là một phần trong những nỗ lực của liên minh để củng cố răn đe đối với kiểu tấn công thông thường tuy ở quy mô nhỏ nhưng gây tàn phá dữ dỗi mà Hàn Quốc đã phải gánh chịu vào năm 2010: vụ chìm tàu Cheonan của Hàn Quốc và vụ nã pháo vào đảo Yeonpyeong. Mục tiêu cơ bản của chống khiêu khích là buộc Triều Tiên phải ngừng những gì nước này đang làm và ngăn chặn các cuộc tấn công sau đó mà không gây ra một cuộc xung đột lớn hơn. Những bài viết chưa được kiểm chứng đưa tin rằng kế hoạch kêu gọi các lực lượng của Hàn Quốc tiến hành một sự đáp trả cân xứng ngay lập tức chống lại nước gây chiến và những mục tiêu có khả năng gây đối đầu khác, như các lực lượng hậu cần làm nhiệm vụ hỗ trợ cho hành động khiêu khích trước đó. 

Việc giới hạn sự phản ứng quân sự tại các mục tiêu liên tham gia trong các cuộc tấn công là một cách tiếp cận lôgích để ngăn chặn sự leo thang. Nhưng không có gì đảm bảo được rằng người Triều Tiên sẽ hiểu phản ứng này theo nghĩa này. Các lực lượng của Hàn Quốc có thể kết luận rằng có nhiều đơn vị hỗ trợ liên quan đến cuộc tấn công và vì thế nó trở thành cuộc chiến theo kiểu ăn miếng trả miếng, dẫn đến những chiến dịch trả đũa quy mô lớn mà Triều Tiên có thể xem là không cân xứng. Một khả năng khác là các quan chức Triều Tiên cho phép thực hiện một hành động khiêu khích bí mật để củng cố địa vị của họ chống lại các thách thức từ bên trong chế độ. Do đó, liên minh Mỹ - Hàn có thể thấy được hậu quả của việc không trả đũa hành động chống khiêu khích còn nguy hiểm hơn cả sự leo thang. Dĩ nhiên, liên minh này phải cân nhắc nguy cơ rằng những nỗ lực để quản lý sự leo thang có thể không chống lại được nguy cơ tấn tiếp diễn các công và Triều Tiên trở nên khiêu khích hơn nếu Hàn Quốc từ bỏ những phản ứng chớp nhoáng bằng quân sự. Những cơ chế mang tính tham vấn của kế hoạch chống khiêu khích được xây dựng là để xử lý những tình huống cụ thể mà khi phản ứng đáp trả trở nên quá nguy hiểm.

Việc hợp nhất kế hoạch chống khiêu khích với chiến lược quản lý leo thang rộng hơn của liên minh này, hoàn thành các khái niệm chung, những sự hiểu biết về sự leo thang và những lựa chọn của liên minh, là một thách thức đang hiện nay. Đâu là ranh giới giữa các mục tiêu và sự lựa chọn được cân nhắc dựa trên kế hoạch chống khiêu khích và những lựa chọn nào nằm trong kế hoạch quan sự trên quy mô lớn hơn nhằm hủy diệt các tên lửa thông thường và hạt nhân của Triều Tiên? Và một vấn đề rất quan trọng đó là, các quan chức Mỹ và Hàn Quốc sẽ  tham vấn với nhau ra sao  đối với những vấn đề này trong lúc xảy ra khủng hoảng?

Cuối cùng, nhận thức của Mỹ và Hàn Quốc về những cái giới hạn, rủi ro và những nguy cơ sẽ khác nhau phụ thuộc vào nhiều nhân tố tình hình cụ thể khác nhau. Nhưng các quan chức Mỹ và Hàn Quốc sẽ cần phối hợp với nhau và thực hiện hay từ bỏ những lựa chọn triển khai trong những kịch bản phức tạp mà có thể leo thang nhanh chóng, đặc biệt nếu Triều Tiên có các tên lửa hạt nhân tác chiến và những nỗ lực thúc giục họ sử dụng nhằm gây sức ép. Cần phải nhớ rằng trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, một số ít chính phủ và các cơ quan thông tin đã kiểm soát việc công bố thông tin. Ngày nay, Triều Tiên có thể lợi dụng truyền thông xã hội để đe đọa và gửi thông điệp. Những nỗi sợ hãi của công chúng về sự leo thang hạt nhân có thể nhân lên nhiều thông qua hình thức đưa tin trên truyền hình và truyền tin trên các trang cá nhân; việc truyền bá thông tin, hình ảnh một cách nhanh chóng, cho dù có chính xác hay không, thì cũng có thể xoay chuyển dư luận trong nước hoặc chống lại sự can dự của Mỹ hoặc ủng hộ cho một sự phản ứng mạnh mẽ hơn những gì mà tổng thống muốn.

Chẳng hạn, vào mùa Xuân năm 2013, Triều Tiên đã đăng bức ảnh Kim Jong-un ở một trung tâm chỉ huy với những tấm bản đồ lớn vẽ đường bay của các tên lửa đến Mỹ. Nhà nước đã khuyên các nhà ngoại giao sơ tán và đã chuyển các tên lửa đạn đạo đến bờ biển và đưa chúng vào các máy phóng. Những nỗ lực của Triều Tiên trong tương lai trong việc gửi đi thông điệp có thể cho thấy những điều này và bao gồm nhiều hành động nguy hiểm hơn. Ví dụ, Triều Tiên có thể phát nổ vũ khí hạt nhân ở trên biển và đưa những hình ảnh về vụ nổ lên trang Youtube, hay nước này có thể đưa các đầu đạn hạt nhân vào tên lửa và triển khai chúng ở trạng thái sẵn sàng phóng. Liên minh này sẽ phản ứng như thế nào trước các cuộc tấn công thông thường, các mối đe dọa quy mô nhỏ hay những đòi hỏi xảy ra ngay sau những cuộc khiêu khích bằng vũ khí hạt nhân này?

Một chiến lược quản lý leo thang của liên minh sẽ ngày càng trở nên quan trọng khi các lực lượng tấn công thông thường của Hàn Quốc phát triển. Hiện nay, chính sách của Hàn Quốc là phát triển năng lực thực hiện các đòn tấn công thông thường đánh phủ đầu các lực lượng hạt nhân của Triều Tiên. Kế hoạch này được miêu tả là “dây chuyền diệt tên lửa”, khái niệm này bao gồm các đầu tư vào ISR, hệ thống phòng thủ tên lửa, các tên lửa đạn đạo thông thường tầm xa hơn, và việc có được các tên lửa hành trình phóng trên không có khả năng thâm nhập các mục tiêu được củng cố chắc chắn và sâu dưới đất. Quan trọng hơn hết những đánh giá mang tính kỹ thuật về những đòi hỏi và tính khả thi của khái niệm này, liên minh này sẽ cần giải quyết những câu hỏi mang tính định lượng về việc khi nào sẽ triển khai một lựa chọn, và liệu rằng hay bằng cách nào để liên minh này có thể thực hiện các chiến dịch tấn công và cùng sử dụng các khả năng của cả Mỹ lẫn Hàn Quốc. Liên minh này cũng sẽ quyết định ra sao về mục tiêu quản lý leo thang khi mà giới hạn đã bị vượt qua và lựa chọn còn khi này là sự hạn chế thiệt hại?

Về mặt lý thuyết, quyết định này gắn chặt với việc liệu mục tiêu bao trùm của liên minh này là sự thay đổi chế độ hay mang lại cho Kim Jong-un một lối thoát để giữ thể diện. Xét cho cùng, các quan chức của Mỹ và Hàn Quốc có thể sẽ muốn có 3 kiểu lựa chọn: những lựa chọn ưu tiên việc quản lý leo thang trong khi liên minh này tự bảo vệ mình và tìm kiếm một kết thúc ngoại giao cho cuộc chiến tranh này; những lựa chọn thực hiện các cuộc tấn công thông thường chống lại các lực lượng hạt nhân Triều Tiên; và cuối cùng, những lựa chọn về cuộc tấn công hạt nhân có giới hạn để đạt được mục tiêu tương tự. Một quyết định đơn phương của cả hai bên có thể khiến Mỹ và Hàn Quốc hướng đến các mục tiêu khác nhau và những bất đồng về các mục tiêu cơ bản có thể chia rẽ liên minh này. Tuy nhiên thì may mắn là liên minh này có nhiều điểm chung để cùng nhau vượt qua những vấn đề khó khăn trong thời bình. 

Sự leo thang có chủ ý và không chủ ý với Trung Quốc

Quản lý leo thang với Trung Quốc có thể là một thách thức hoàn toàn khác. Chính sách của Mỹ tìm cách tạo thuận lợi cho việc hợp tác lớn hơn với Trung Quốc trong khi kiềm chế sự cạnh tranh về quân sự thông qua tính minh bạch và khả năng có thể dự đoán được lớn hơn, và cuối cùng là những hiểu biết chung về sự ổn định chiến lược. Cuộc cạnh tranh đang nổi lên giữa A2/AD của Trung Quốc và khái niệm ASB của Mỹ là một trong những thách thức phức tạp nhất mà những nỗ lực này phải giải quyết. Khái niệm ASB gần như là sự phản ứng lại các năng lực A2/AD của Trung Quốc, mà nhiều nhà phân tích của Mỹ xem là hướng tới mang lại cho Trung Quốc lợi thế quân sự thông thường mang tính quyết định so với Mỹ, một phần bằng việc tận dụng tính dễ bị tổn hại của Mỹ trong lĩnh vực không gian và không gian mạng. Những tương tác giữa A2/AD của Trung Quốc và các lực lượng ASB của Mỹ có thể bao gồm các năng lực thông thường, không gian, mạng, phòng thủ tên lửa và vũ khí hạt nhân của cả hai nước. Trong một cuộc xung đột thông thường, cả hai nước có các động lực để ép buộc nước còn lại phải có những nhượng bộ trong khi đồng thời ngăn chặn sự leo thang thành cuộc chiến tranh thông thường trình độ cao và sử dụng vũ khí hạt nhân. Chiến lược quản lý leo thang phải hiểu được những rủi ro bắt nguồn từ những động lực này.

Một trong những điểm bất đồng lớn nhất trong cuộc tranh luận về ASB là liệu một chiến lược quân sự dựa vào việc tấn công các mục tiêu ở Trung Quốc Đại lục bằng các vũ khí thông thường là cần thiết cho sự răn đe hiệu quả hay là bất cẩn đến mức không đáng tin. Dĩ nhiên, về mặt lý thuyết, việc Mỹ sẽ hay là nên tấn công đại lục trong một tình huống bất ngờ cụ thể là không thể phán đoán; các chi tiết sẽ quan trọng. Liệu Mỹ có nên phát triển những lựa chọn tấn công thông thường hay không là một câu hỏi khác: tư thế răn đe đáng tin cậy ít nhất phải mang lại cho tổng thống những lựa chọn đánh vào những mục tiêu ở Đại lục vì một vài lý do. Trung Quốc Đại lục sẽ là khu vực tập kết để chuẩn bị tác chiến từ đó Trung Quốc sẽ phóng các tên lửa thông thường vào các lực lượng của Mỹ và đồng minh. Các biện pháp phòng thủ đơn thuần, như hệ thống phòng thủ tên lửa và việc củng cố, phân tán và che giấu các tài sản quân sự khu vực sẽ không đủ với tư cách là phương tiện duy nhất đối phó với lực lượng tấn công thông thường lớn của Trung Quốc. Việc đối xử với Trung Quốc Đại lục như một nơi bất khả xâm phạm có thể cho thấy rằng Mỹ không muốn mạo hiểm để chống lại mối đe dọa này và có thể củng cố những quan ngại của Nhật Bản về sự tách rời. Nó cũng có thể nuôi dưỡng những nhận thức trong số các quan chức và các nhà chiến lược của Trung Quốc rằng họ có những lợi ích lớn hơn, và do đó là một lợi thế mang tính quyết định, trong bất cứ cuộc xung đột khu vực nào.

Hơn nữa, các cuộc tấn công thông thường có giới hạn nhằm vào các mục tiêu quân sự phi hạt nhân sẽ phù hợp với khái niệm của Schelling về các cuộc cạnh tranh chấp nhận rủi ro và sự răn đe thông qua việc thực hiện có tiến bộ. Việc tấn công vào lãnh thổ của một cường quốc hạt nhân được trang bị khả năng tấn công trả đũa bằng vũ khí hạt nhân đảm bảo sẽ là một hành động chưa từng thấy đối với Mỹ. Nó sẽ là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy tình hình đang vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Nếu các nhà chiến lược của Trung Quốc trước đây đã nghi ngờ những cam kết của Mỹ, quyết định leo thang có chủ tâm này có thể thay đổi tính toán của họ và thúc đẩy họ tìm kiếm một lối thoát hòa bình. 

Mặc dù các cuộc tấn công thông thường vào Trung Quốc Đại lục sẽ là leo thang một cách cố ý, chúng sẽ tất yếu không dẫn đến một cuộc leo thang hạt nhân. Elbridge Colby lập luận rằng đầu tư của Trung Quốc vào hệ thống phòng không hợp nhất cho thấy rằng nước này lường trước việc bảo vệ chống lại các cuộc tấn công nhằm vào nội địa trong một cuộc chiến tranh thông thường, trong khi mối đe dọa Mỹ trả đũa bằng vũ khí hạt nhân tạo ra những động lực mạnh mẽ cho Trung Quốc từ bỏ việc phản ứng lại một cuộc tấn công thông thường bằng vũ khí hạt nhân. Colby cũng miêu tả Mỹ có thể củng cố những động lực này như thế nào bằng việc tạo ra các cuộc tấn công thông thường để phản ánh những mục tiêu hạn chế và chứng tỏ sẵn sàng cho thấy sự kiềm chế tiếp tục và/hoặc không thực hiện trừng phạt: “Những bước mang tính lôgích bao gồm quan sát các đường biên giới địa lý cho một cuộc chiến như vậy, bao vây các kiểu mục tiêu nhất định (C2 và các vũ khí hạt nhân; các cơ quan đầu não lãnh đạo), và truyền đạt một cách rõ ràng và đáng tin cậy về những nỗ lực giới hạn đến một đối thủ”.

Việc tổ chức khuôn khổ này đòi hỏi các nhà chiến lược Mỹ giải quyết một số rủi ro đáng lo ngại xảy ra sự leo thang không chủ ý. Liệu Mỹ có thể chắc chắn tránh được các mục tiêu ngoài giới hạn trong cuộc xung đột thông thường, và các quan chức Mỹ sẽ xem việc này là một hành động kiềm chế có chủ tâm hay không? Quan trọng là nếu Mỹ vô tình đánh sai mục tiêu hay do thông tin tình báo sai lệch, các quan chức Trung Quốc có xem đó là một sự mở rộng có chủ đích các mục tiêu chiến tranh của Mỹ hay không?

Một lý do khiến người ta hoài nghi là cả hai nước sớm xem các cuộc tấn công vào C2 và ISR bằng các vũ khí thông thường, các cuộc tấn công mạng và các vũ khí chống hoạt động không gian như phương tiện để loại bỏ sức mạnh quân sự của đối phương. Mặc dù việc này có thể mang lại những lợi thế quân sự đáng kể, nhưng nó cũng có thể khiến mỗi bên hoặc cả hai mất đi khả năng truyền đạt một cách rõ ràng và nhanh chóng, tác chiến chính xác, và đánh giá những gì đã và đang không xảy ra trên chiến trường. Thiếu C2 đáng tin cậy, các lực lượng được triển khai có thể hành động vượt quá những giới hạn mà các quan chức cấp cao cho là cần thiết để giảm sự kiềm chế lẫn nhau và có thể không nhận được các chỉ thị ngừng bắn. Một nghiên cứu về việc ra quyết định của Iraq trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất đã kết luận rằng một vị chỉ huy quyết định thiêu cháy những giếng dầu bởi vì ông ta không thể liên lạc với các cấp trên của mình ở Baghdad và “lo sợ điều tồi tệ nhất”. Theo nghĩa đó, việc làm suy yếu hệ thống C2 của Trung Quốc có thể làm giảm những nỗ lực quản lý leo thang của Mỹ.

Ngoài ra, các thiết bị không gian và mạng đang được đưa vào hệ thống C2 và ISR của Mỹ và Trung Quốc. Các nhà chiến lược ở cả hai nước lập luận rằng các vũ khí tấn công trên không và trên mạng sẽ là phương tiện hiệu quả để duy trì những mối liên kết giữa các thiết bị cảm biến, các hệ thống chỉ huy và các lực lượng được triển khai của quân đội nước khác. Nỗi lo sợ mất đi C2 và ISR là kết quả của một cuộc tấn công “gây mù” của kẻ thù, kết hợp với khả năng giành được lợi thế mang tính quyết định bằng việc tấn công trước, có thể tạo ra áp lực cho các cuộc tấn công ngăn chặn không sử dụng vũ khí hạt nhân bất cứ khi nào mà cuộc xung đột quân sự có thể xảy ra. Mặc dù các hệ thống có sức bền và thừa sức phá hỏng sức ép này, tình trạng bất chắc về các năng lực, hiệu quả của các cuộc tấn công mạng, chống hoạt động không gian và việc thiếu những giới hạn rõ ràng trong các lĩnh vực dẫn đến nhận thức sai và tính toán sai làm. Những sự thù địch hay hiểu sai trong các lĩnh vực này sau một tai nạn, hay vụ việc trong các lực lượng của Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc có thể biến một cuộc khủng hoảng bị cô lập thành một cuộc đối đầu quân sự lớn hơn mà không một nước nào mong muốn.

Những cái giới hạn hạt nhân không rõ ràng tạo ra thêm những nguy cơ xảy ra sự leo thang không chủ đích. Trung Quốc triển khai tên lửa đạn đạo tầm trung, như DF-21, và một số căn cứ, cơ quan đầu não chỉ huy, và các thiết bị cảm biến đặt trên mặt đất của nước này có thể phục vụ cho các chiến dịch thông thường lẫn hạt nhân. ASB nhấn mạnh việc đạt được cả sự bảo toàn lực lượng lẫn ảnh hưởng mang tính ép buộc bằng việc ngăn chặn các tên lửa thông thường của Trung Quốc có thể biến thành những chiến dịch tấn công quy mô lớn chống lại một loạt mục tiêu trên Đại lục. Tuy nhiên, các lực lượng của Mỹ có thể phải vật lộn để phân biệt giữa các mục tiêu hạt nhân và thông thường. Đến lượt mình, các quan chức Trung Quốc có thể hiểu cuộc tấn công thiếu thận trọng của Mỹ vào một tên lửa hạt nhân hay một căn cứ đa mục đích hay một thiết bị cảm biến là nỗ lực phá hủy sự răn đe hạt nhân của Trung Quốc, đặc biệt là trong bối cảnh mối quan ngại của họ về khả năng tấn công trước của các vũ khí thông thường và các hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ.

Trong những tình huống này, các nhà chiến lược Trung Quốc có thể xem những cuộc tấn công hạt nhân có giới hạn chống lại các lực lượng quân sự trong khu vực này là lựa chọn cuối cùng để gây sốc đối với các quan chức Mỹ và buộc họ phải xuống nước. Vẫn chưa rõ Lực lượng pháo binh 2 có phát triển những lựa chọn triển khai như vậy hay không; và cũng chưa rõ liệu chính sách không sử dụng trước của Trung Quốc có xem những đòn tấn công thông thường chống lại các mục tiêu trên Đại lục là vượt qua ngưỡng sử dụng trước hay không. Ngoài ra, các nhà hoạch định chính sách quốc gia ở cả hai nước đơn giản là không biết được họ sẽ phản ứng như thế nào khi một cuộc xung đột thông thường leo thang.

Những dấu hiệu sử dụng vũ khí hạt nhân có chủ ý của cả hai nước trước khi bắt đầu một cuộc xung đột thông thường có thể làm trầm trọng thêm những động lực này. Trung Quốc có thể phổ biến các tên lửa trang bị hạt nhân di động của mình để tỏ rõ quyết tâm; tuy nhiên, các quan chức Mỹ có thể hiểu những hành động này là sự chuẩn bị cho một cuộc tấn công. Ngoài ra, các quan chức Mỹ có thể hiểu dấu hiệu này một cách chính xác và kết luận là một sự phản ứng mạnh mẽ là cần thiết để chứng tỏ rằng các mối đe dọa hạt nhân chống lại Mỹ là không hiệu quả. Những tính toán như vậy có thể đẩy Mỹ thu hút sự chú ý vào các năng lực hạt nhân của nước này. Tuy nhiên, biện pháp báo hiệu hạt nhân được ưu tiên đối với Mỹ - triển khai ở phía trước hoặc sử dụng các máy bay ném bom mang vũ khí hạt nhân – có thể làm mờ thêm cái giới hạn sử dụng hạt nhân nếu Mỹ sau đó triển khai kiểu phương tiện này cho các cuộc tấn công thông thường nhằm vào Đại lục.

Quản lý leo thang trong các cuộc xung đột với Trung Quốc

Do những mối nguy hiểm này, các quan chức Mỹ có thể muốn có những biện pháp để ngăn chặn sự leo thang nhanh chóng trong các cuộc xung đột mức độ thấp hơn. Một chính sách mang tính giải thích và triển khai về sự kiềm chế sớm trong không gian và không gian mạng sẽ giúp thiết lập một hàng rào giữa một cuộc đối đầu ngẫu nhiên hay cô lập và một cuộc xung đột thông thường lớn hơn. Việc kiềm chế các hành động tấn công trong những lĩnh vực này cho tới khi tổng thống quyết định leo thang có thể là đủ. Sự kiềm chế của Mỹ do đó không cần phải thường xuyên gắn với sự đáp lại của Trung Quốc (tức là một lời cam kết không sử dụng trước). Chính sách này có thể làm rõ rằng các cuộc tấn công chống không gian và tấn công mạng sẽ là những lựa chọn chính đáng trong một cuộc chiến tranh thông thường tổng lực nhưng là nguy hiểm một cách không tương xứng trong những trường hợp bất trắc. Thông điệp đối với Trung Quốc sẽ là Mỹ sẽ không tấn công vào những lĩnh vực này cho tới khi tổng thống kết luận rằng chiến tranh thông thường là không thể tránh khỏi. Hệ quả là các quan chức Mỹ sẽ hiểu các cuộc tấn công của Trung Quốc vào những lĩnh vực này là sự leo thang cố ý. Cùng nhau, các biện pháp này tạo ra động lực cho Trung Quốc từ bỏ các cuộc tấn công nhằm vào các phương tiện không gian và mạng của Mỹ trong các cuộc đối đầu quy mô nhỏ.

Mỹ cũng có thể phát triển những lựa chọn thông thường tấn công lãnh thổ của Trung Quốc mà được tạo ra để quản lý leo thang. Những lựa chọn như vậy sẽ triển khai một số lượng nhỏ các phương tiện của Mỹ trong một cuộc tấn công thời gian ngắn. Quan trọng là các quan chức Mỹ sẽ cần lựa chọn các mục tiêu quân sự tiềm tàng thỏa mãn 3 tiêu chuẩn:

- Các mục tiêu sẽ nằm trong loại các vũ khí tầm xa, vì vậy việc tấn công chúng sẽ không đòi hỏi những chiến dịch ngăn chặn quy mô lớn chống lại các hệ thống phòng không của Trung Quốc; việc này sẽ cần thiết để giữ cho chiến dịch ở quy mô nhỏ và nhanh.

- Các mục tiêu không nhắm vào vị thế hạt nhân của Trung Quốc. Việc này sẽ đòi hỏi phân tích chi tiết trong thời bình để xác định các điểm phòng không, các vũ khí chống vệ tinh, các tên lửa thông thường, các căn cứ hải quân, hay các thiết bị cảm biến không có chức năng hạt nhân.

- Các mục tiêu này không nhắm vào lãnh đạo chính trị của chế độ.

Mỹ có thể phát triển mọi phương diện tấn công để quản lý leo thang, từ cuộc tấn công nhằm vào một mục tiêu đơn lẻ đến các cuộc tấn công lớn hơn chống lại nhiều mục tiêu để phù hợp cho những tiêu chuẩn này. Mục tiêu của lựa chọn triển khai này sẽ là leo thang bằng việc vượt qua một giới hạn địa lý và mang tính biểu tượng trong khi giảm thiểu các cơ hội khiến Trung Quốc phải phản ứng một cách hấp tấp vì lo sợ mất đi những năng lực chiến lược then chốt. Các quan chức Mỹ cũng có thể tiếp tục chiến dịch này bằng một đề nghị ngừng bắn. Mỗi khía cạnh của phản ứng này sẽ nhấn mạnh cả hai chiều hướng bao gồm sẵn sàng mạo hiểm và hứa hẹn kiềm chế lẫn nhau. Dĩ nhiên là lựa chọn này sẽ đòi hỏi một sự thỏa hiệp bằng việc tăng cường hoạt động làm suy giảm đáng kể các năng lực của Trung Quốc. Tuy nhiên, nó có thể khôn ngoan hơn việc cho phép xảy ra chiến dịch lớn hơn, phức tạp hơn cho các mục tiêu hạn chế của Mỹ. Ít nhất, đó là lựa chọn mà tổng thống có thể sẽ muốn cân nhắc.

Khái niệm này có thể sẽ không có tác dụng sau khi Trung Quốc phóng loạt tên lửa quy mô lớn vào một căn cứ của Mỹ, tấn công một tàu sân bay, hay tiến hành các cuộc tấn công trong không gian và không gian mạng liên tục. Khi cuộc xung đột tiến triển, Mỹ có thể cần tiến hành các cuộc tấn công thông thường quy mô lớn nhằm vào ISR, C2 và tên lửa của Trung Quốc trên Đại lục. Cái bóng hạt nhân không thể bỏ qua có nghĩa là quản lý leo thang sẽ vẫn là một mục tiêu của Mỹ ngay cả trong một cuộc chiến tranh thông thường ở mức độ cao, nhưng các mục tiêu quân sự khác cũng sẽ đứng hàng đầu nếu Mỹ và các lực lượng đồng minh bị tấn công kéo dài.

Những triển vọng về sự kiềm chế lẫn nhau ngay từ đầu cuộc xung đột là hứa hẹn nhất nếu Mỹ và Trung Quốc đều hiểu được những hiểm họa từ sự leo thang không chủ ý. Như một nghiên cứu của RAND nhận xét, “để giảm nguy cơ xảy ra sự leo thang không chủ ý, đối thủ trước hết phải được làm tỉnh ngộ, sau đó có thể hoặc không cần phải có sự răn đe”. Trung Quốc cho đến nay nghi ngờ những nỗ lực của Mỹ tìm hiểu một cuộc xung đột giữa hai nước có thể vượt khỏi tầm kiểm soát như thế nào và họ có thể hợp tác để quản lý leo thang như thế nào, mặc dù các cuộc đối thoại mang tính xây dựng về những vấn đề này và các vấn đề chiến lược khác ở cấp không chính thức vẫn tiếp tục. Nguy cơ leo thang các cuộc tấn công chống hoạt động không gian và các cuộc tấn công mạng, những cái giới hạn sử dụng hạt nhân không rõ ràng và những cảnh báo về hạt nhân ở tất cả cấp độ đang được tiếp tục thảo luận. Trung Quốc có thể do dự, nhưng những nỗ lực bền bỉ nhằm đưa ra các đề xuất và giải thích những mối quan ngại của Mỹ là quan tâm.

Ví dụ, những bên tham gia phía Mỹ có thể giải thích rằng một số người ở Mỹ sẽ hiểu sự phổ biến các tên lửa di động của Trung Quốc trong một cuộc khủng hoảng là một hành động khiêu khích trong khi những người khác sẽ xem đó là sự làm ổn định bởi vì nó giảm khả năng dễ bị tổn hại và do đó giảm động lực sử dụng vũ khí hạt nhân trước. Tác động cuối cùng của dấu hiệu này sẽ phụ thuộc vào những nhận thức chủ quan của nhiều cá nhân khác nhau, nhiều người trong số đó có những giả định khác nhau và có thể có thông tin khác nhau. Ít nhất, việc giải thích tính đa dạng của các quan điểm trong nước Mỹ đảm bảo rằng cộng đồng nghiên cứu chiến lược của Trung Quốc ý thức về một số những thách thức phức tạp mà các quan chức Mỹ và Trung Quốc sẽ đương đầu trong một cuộc xung đột có giới hạn.

Kết luận: thể chế hóa sự quản lý leo thang

Những rủi ro của leo thang hạt nhân ở Đông Bắc Á sẽ kéo dài trong nhiều năm. Sự quản lý leo thang nên là thước đo tiêu chuẩn cho việc đánh giá những biến cố tiềm tàng và các kế hoạch triển khai cho các cuộc xung đột thông thường có các đối thủ được trang bị vũ khí hạt nhân. Việc này sẽ giúp các nhà lập kế hoạch và các nhà hoạch định chính sách của Mỹ xem xét kỹ lưỡng những lựa chọn đối với các mục tiêu quân sự mang tính chiến thuật nhưng khiến rủi ro chiến lược xảy ra leo thang cao hơn. Việc phát triển một bộ tiêu chuẩn để đánh giá những rủi ro leo thang của các kế hoạch triển khai là một điểm khởi đầu tốt:

- Một đối thủ có sẽ nhìn nhận một hành động cụ thể là mang tính leo thang? Tại sao?

- Đối thủ có thể phản ứng như thế nào?

- Lựa chọn này là sự leo thang cố ý, hay rủi ro leo thang là hậu quả của việc đạt được một mục tiêu chiến thuật? Liệu có hay không những biện pháp khác để đạt được các mục tiêu chiến thuật này?

- Nếu lựa chọn này là sự leo thang cố ý, thì mục tiêu là gì và chúng ta có thể giảm bớt nguy cơ cuộc xung đột này vượt khỏi tầm kiểm soát như thế nào?

Xét về mọi mặt, các nhà lãnh đạo quốc gia có thể hầu như không còn tin tưởng vào khả năng của họ quản lý leo thang dưới cái bóng hạt nhân. Rõ ràng là việc ngăn chặn các đối thủ tiềm tàng quyết định sử dụng vũ lực chống lại Mỹ và các đồng minh và giải quyết các tranh chấp bằng ngoại giao là các ưu tiên cao hơn. Nhưng điều đó không tránh được việc Mỹ và các đồng minh của nước này cần nỗ lực vượt qua chủ đề không mấy dễ chịu này và sẵn sàng nhất có thể./. 

Theo Tạp chí Eurasia Review

Thùy Anh (gt)