Theo một báo cáo của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stốckhôm (SIPRI), hiện nay Xinhgapo là nhà nhập khẩu vũ khí lớn thứ 5 trên thế giới, chỉ ít hơn một số người khổng lồ hiển nhiên – Trung Quốc, Ấn Độ và Pakixtan – cộng thêm Hàn Quốc. Xinhgapo chiếm 4% tổng số chi phí của thế giới về nhập khẩu vũ khí. Chi tiêu quốc phòng trên đầu người của nước này lớn hơn mọi nước khác trừ Mỹ, Ixraen và Côoét. Trong năm 2012, 9,7 tỷ USD, hay 24% ngân sách, sẽ được dành cho quốc phòng. Đây là những con số đáng chú ý, nhưng Xinhgapo vốn đã là một trong những nước chi tiêu lớn hơn trong khu vực kể từ sự tách rời đầy thù hằn khỏi Malaixia của nước này năm 1965. Sự khác biệt hiện nay là hầu như mọi nước ở Đông Nam Á đã bắt đầu một quá trình tăng cường lực lượng vũ trang tương tự, khiến nó trở thành một trong những khu vực có chi tiêu quốc phòng gia tăng nhanh nhất trên thế giới. Các nhà phân tích quân sự tại IHS Jane’s nói rằng các nước Đông Nam Á cùng nhau đã tăng 13,5% chi tiêu quốc phòng trong năm 2011, lên 24,5 tỷ USD. Con số này được dự đoán là sẽ tăng lên đến 40 tỷ USD vào năm 2016. Theo SIPRI, chuyển giao vũ khí tới Malaixia đã tăng 8 lần trong giai đoạn 2005-2009 so với con số của 5 năm trước. Chi tiêu của Inđônêxia tăng 84% trong thời gian đó. Đó là một phần của một hiện tượng châu Á rộng lớn hơn. Theo Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, một cơ quan tư vấn chính sách ở Luânđôn, lần đầu tiên, ít nhất là trong lịch sử hiện đại, chi tiêu quân sự của châu Á sắp vượt qua châu Âu. Trung Quốc đang tăng gấp đôi ngân sách quốc phòng của mình cứ mỗi 5 năm và Ấn Độ vừa thông báo chi tiêu trong năm 2012 sẽ tăng 17%, lên khoảng 40 tỷ USD.

Cho tới gần đây những cuộc nổi loạn trong nước đã biện minh đầy đủ cho việc chi tiêu quốc phòng của một số nước Đông Nam Á. Tuy nhiên trong nhiều thập kỷ đã không có cuộc xung đột nào giữa các quốc gia. Một cảm giác lo lắng vẫn tồn tại ở Xinhgapo về Malaixia ở phía Bắc và Inđônêxia, người hàng xóm lớn của nước này ở phía Nam . Mặc dù vậy, rất khó để hình dung việc bất cứ nước nào của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ gây gổ, có lẽ ngoại trừ Campuchia và Thái Lan, những nước thỉnh thoảng nã pháo về phía nhau vì một ngôi đền tranh chấp ở biên giới. Tuy vậy, hầu hết các nước dường như đang lợi dụng thành công kinh tế để hiện đại hóa vũ khí của họ trong khi những thứ đang có sẵn vẫn tốt. Chi tiêu quốc phòng đã giảm mạnh sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á những năm 1997-1998, khi nhiều máy bay và tàu đã cũ. Hiện nay nhiều nước đang tận hưởng tăng trưởng kinh tế nhanh, lên tới 6%/năm, và những ngân sách giàu có. Bill Edgar của IHS Jane’s cho biết điều này không phải là một cuộc chạy đua vũ trang “chiến lược”. Ông nói rằng đúng hơn, tất cả điều đó liên quan tới sự hiện đại hóa. Lấy ví dụ người khổng lồ trong khu vực, Inđônêxia. Trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004 không chỉ tàn phá các cộng đồng, nó còn bóc trần những khiếm khuyết của các lực lượng vũ trang, tỏ ra được trang bị yếu kém và thiếu tinh thần. Khi quân đội Mỹ và Ôxtrâylia điều các tàu sân bay và các tàu khác đến tỉnh Aceh hoang tàn để trợ giúp và tìm kiếm các nạn nhân, quân đội Inđônêxia chỉ còn làm khán giả. Tổng thống mới đắc cử, Susilo Bambang Yudhoyono, cảm thấy bị sỉ nhục. Vốn là một cựu tướng lĩnh, ông Yudhoyono đã đặt việc hiện đại hóa quân đội Inđônêxia là một ưu tiên kể từ đó. Inđônêxia sẽ chi 8 tỷ USD cho quốc phòng trong năm 2012 – vẫn tương đối khiêm tốn với một đất nước có 240 triệu dân, nhưng đã tăng mạnh từ mức 2,6 tỷ USD trong năm 2006. Nhiều cuộc mua bán vũ khí hạng nặng và linh kiện đang diễn ra. Nước này đã có được máy bay chiến đấu của Nga và Mỹ, bao gồm máy bay chiến đấu F-16, các tàu lớn cho hải quân của mình, và các linh kiện cho máy bay vận tải C-130. Vào tháng 1/2012 Inđônêxia đã ký kết một hợp đồng trị giá 1,1 tỷ USD cho 3 tàu ngầm điện điêden do Đức sản xuất, và các nhà lập pháp đang tranh cãi liệu có nên mua 100 xe tăng Leopard từ Hà Lan hay không. Ông Yudhoyono cũng muốn cải thiện đời sống của các binh sĩ, với lương và trợ cấp cao hơn. 

Những tính toán chính trị trong nước là một nhân tố khác đằng sau chi tiêu quân sự rầm rộ của khu vực. Terence Lee thuộc Đại học Quốc gia Xinhgapo lập luận rằng ở những nước mà lực lượng vũ trang can thiệp vào hoạt động chính trị, các chính trị gia dân sự sử dụng ngân sách quốc phòng lớn hơn để mua chuộc sự phục tùng của quân đội – Thái Lan là một trường hợp như vậy. Xinhgapo mặt khác có một động cơ khác. Nước này là nước duy nhất trong khu vực xây dựng ngành công nghiệp vũ trang công nghệ cao của riêng mình. Xinhgapo từ lâu đã bán vũ khí cho các nước đang phát triển khác, nhưng gần đây cũng mới giành được những đơn đặt hàng lớn đầu tiên từ các quân đội phương Tây. ST Engineering, công ty Đông Nam Á duy nhất trong top 100 các nhà sản xuất quốc phòng của SIPRI, đã bán được hơn 100 xe chở quân bọc thép Bronco (hay Warthog) cho người Anh, để sử dụng ở Ápganixtan. Mặc dù tất cả những điều đó, các mối lo chiến lược là có lý do. Chẳng hạn, các tuyến đường biển dẫn tới Eo Malắcca là nhân tố quyết định đến sự thịnh vượng của Xinhgapo. Và hơn 1 thập kỷ qua, một số người có thể đã lo ngại rằng Mỹ đã bị xao lãng bởi chiến tranh ở những nơi khác. Vì vậy sự phát triển của một lực lượng hải quân biển khơi Trung Quốc là có nhiều hàm ý. Những lo ngại chiến lược cũng rất quan trọng với bất kỳ nước nào tuyên bố chủ quyền với vùng biển tranh chấp Biển Đông, nơi lập trường quả quyết của Trung Quốc đã kích thích một sự gia tăng chi tiêu, chẳng hạn của Việt Nam gần đây đã đặt hàng 6 tàu ngầm lớp Kilo từ Nga. Việt Nam cũng sẽ mua khoảng 7 tàu khu trục nhỏ và tàu hộ tống mới trong thập kỷ tới. Ở Philíppin, Chính phủ của Tổng thống Benigno Aquino gần như đã tăng gấp đôi ngân sách quốc phòng trong năm 2011, lên tới 2,4 tỷ USD. Ngay cả khi có những tàu ngầm và máy bay mới, Việt Nam và Philíppin vẫn không sánh ngang được với siêu cường mới của châu Á, nếu chiến tranh xảy ra. Nhưng điều đó có thể khiến Trung Quốc phải suy nghĩ cẩn thận trước khi thử làm bất kỳ điều gì, và câu giờ trước khi Mỹ có thể cho là tới cứu nguy./.

Theo Economist (ngày 24/3)

Hương Trà (gt)