“Gây hấn”, “hăm dọa”, “hiềm khích” và “thù địch” là một vài trong số những từ mà nhiều chuyên gia an ninh châu Á đã sử dụng trong suốt vài năm qua để miêu tả những lựa chọn chính sách đối ngoại gần đây của Trung Quốc. Cuộc thảo luận như vậy đã nóng lên đáng kể vào tháng 11/2013 khi Trung Quốc tuyên bố – mà không có lời cảnh báo trước chính thức nào – một Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở biển Hoa Đông, một điểm nóng địa lý giữa nhiều cường quốc trong khu vực. Hành động đơn phương này đã châm ngòi cho cuộc tranh cãi toàn cầu về tính lôgích của một động thái như vậy, nhưng cũng khuyếch đại mối quan ngại lớn hơn về các ý định của Trung Quốc trên khắp châu Á-Thái Bình Dương và các khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương rộng lớn hơn.

Bài viết này, được chia thành nhiều phần, đưa ra yếu tố căn bản cho việc Trung Quốc tuyên bố ADIZ, hướng tới một câu hỏi quan trọng: Liệu Bắc Kinh có tuyên bố ADIZ ở Biển Đông hay không? Tác giả của bài viết này tin rằng các dự án xây dựng đảo nhân tạo gần đây của Trung Quốc là một trong những nỗ lực tạo dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho việc tuyên bố về ADIZ và hiện thực hóa một khu vực như vậy trong vòng vài năm tới. Nếu không có một hành động nghiêm túc nhằm thay đổi tính toán của Bắc Kinh – qua việc sử dụng các biện pháp xây dựng lòng tin để làm thay đổi những nhân tố cốt lõi trong tư duy địa chiến lược của Trung Quốc, cộng với những chiến lược thách thức các hoạt động xây dựng đảo nhân tạo đó – thì việc Trung Quốc thiết lập ADIZ trên Biển Đông gần như chắc chắn xảy ra.

Nhiều động cơ tiềm ẩn đáng chú ý đằng sau việc Bắc Kinh tuyên bố ADIZ vào năm 2013 – đó là sự trỗi dậy của một nước lớn hành động vụ lợi, tư duy ăn sâu vào tiềm thức về việc làm sai trái của nước lớn hơn họ trong quá khứ, kết hợp với nỗ lực bảo vệ mình từ các hành động trong tương lai, cũng như các động cơ mang tính dân tộc chủ nghĩa. Trong khi tất cả những lời giải thích này nằm trọn trong vấn đề về năng lực, thì phân tích này sẽ nghiên cứu một yếu tố tương tự nếu không nói là đáng tin cậy hơn đó là: Trung Quốc tuyên bố ADIZ trên biển Hoa Đông vào năm 2013 và những động thái có thể có dẫn tới việc tuyên bố ADIZ trên Biển Đông cần được nhìn nhận là một trong một loạt hành động bắt nguồn từ nỗ lực nhằm đẩy Mỹ và các lực lượng đồng minh ra khỏi “những vùng biển gần” của Trung Quốc và các khu vực có “lợi ích cốt lõi”, đồng thời tìm cách phủ nhận những khái niệm tác chiến như khái niệm Tác chiến trên không-trên biển ASB (đây là khái niệm mang nhiều tranh cãi và thường bị hiểu lầm) cùng với các phương tiện vũ khí có thể thách thức các khả năng chống tiếp cận/ngăn chặn xâm nhập khu vực (A2/AD) ngày một tăng của Trung Quốc.

Phân tích này sau cùng sẽ đưa ra những khuyến nghị về việc làm thế nào để hợp tác ba bên giữa Mỹ-Nhật Bản-Việt Nam có thể tác động đến quyết định của Bắc Kinh về việc thiết lập ADIZ trên Biển Đông, bằng việc sử cách tiếp cận đồng thời các biện pháp khuyến khích và các chiến lược răn đe nhằm loại bỏ những nền tảng của bất cứ ADIZ nào trong tương lai.

ADIZ và Tác chiến trên không-trên biển của Trung Quốc: Phản ứng trước một phản ứng?

Vào ngày 23/11/2013, Trung Quốc tuyên bố ADIZ đã làm dấy lên sự lo lắng khắp châu Á và trên toàn thế giới. Mặc dù nhiều quốc gia, gồm cả Mỹ, đã tuyên bố ADIZ, tuy nhiên tuyên bố của Bắc Kinh lại cho thấy một tính toán đặc biệt. Khu vực mới này bao trùm một phần rộng lớn của biển Hoa Đông – một tuyến đường biển và không phận trọng yếu mà nhiều quốc gia hùng mạnh nhất của châu Á-Thái Bình Dương, cũng như nhiều nước trên toàn cầu đi qua. Sự cạnh tranh giữa Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan về chủ quyền lãnh thổ tại khu vực khiến vấn đề càng trở nên phức tạp.

ADIZ trên biển Hoa Đông của Bắc Kinh: Tại sao lại có bước đi như vậy?

Tại sao Bắc Kinh lại tuyên bố một ADIZ như vậy, dù biết rằng điều đó sẽ kích động những căng thẳng trong khu vực? Giải thích khả dĩ nhất cho động thái này là Trung Quốc đáp trả việc Nhật Bản “quốc hữu hóa” quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Mặc dù đây là một khả năng khá chắc chắn, tuy nhiên thì cũng có nhiều động cơ sâu xa hơn đằng sau tranh chấp từ lâu giữa Bắc Kinh và Tokyo. Những hành động của Trung Quốc rõ ràng là một phần trong nỗ lực dài hạn nhằm giám sát và hạn chế hoạt động quân sự của nước ngoài trong cái mà nước này miêu tả là “các vùng biển gần” của mình. Như Peter Mattis giải thích trong mục Tin vắn Trung Quốc trên trang mạng của Jamestown Foundation, việc đề ra khu vực mới này không thể hiện bất kỳ dấu hiệu khủng hoảng nào, thay vào đó nó dường như là kết quả của một quá trình hoạch định chính sách một cách thận trọng – nhằm vô hiệu hóa các nỗ lực của Mỹ và có thể là các nước khác tiếp cận biển Hoa Đông.

Bắc Kinh tuyên bố ADIZ năm 2013 không chỉ diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc đang có các tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng, mà còn trong sự bất đồng ngày một gia tăng với Mỹ về hoạt động trên các vùng biển gần. Việc thiết lập ADIZ đã tạo cho Trung Quốc một cơ sở mang tính pháp lý để chỉ trích các chuyến bay thu thập thông tin tình báo của Mỹ gần biên giới Trung Quốc, cũng như các hoạt động theo dõi bằng radar mà không thông báo kế hoạch bay cho các nhà chức trách Trung Quốc.

Áp dụng khái niệm Tác chiến trên không-trên biển: Đẩy Trung Quốc hướng tới một ADIZ?

Xét những mối quan ngại của Trung Quốc được nêu ở trên, Bắc Kinh nhận thấy nỗ lực thiết lập ADIZ của mình là cần thiết để chống lại những mối đe dọa ngày càng tăng từ quân đội Mỹ đối với toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc. Những lo ngại của Trung Quốc về khái niệm ASB của Mỹ càng làm tăng thêm những mối quan ngại này; phân tích của phía Trung Quốc nhấn mạnh ASB là mối đe dọa can thiệp quân sự có thể có của Mỹ vào các lợi ích của Trung Quốc.

Bản thân khái niệm ASB, giờ đây được Lầu Năm Góc đổi tên thành Khái niệm chung về Quyền tiếp cận và Tác chiến trong các khu vực chung toàn cầu (JAM-GC), là một chiến thuật nhằm chống lại những nỗ lực của Trung Quốc về việc phát triển A2/AD, qua đó cho thấy rằng các nhà quân sự của Trung Quốc và Mỹ thực tế đã bước vào một cuộc chạy đua vũ trang về khái niệm nhằm tạo ra khuôn khổ cho việc kiểm soát quyền tiếp cận các vùng biển gần. Ở đây chúng ta có thể nhìn thấy một chu kỳ phản ứng rõ ràng và/hoặc tình trạng tiến thoái lưỡng nan về tình hình an ninh rất đáng lo ngại: Trung Quốc, do sự cần thiết phải bảo vệ những lợi ích cốt lõi và các vùng biển gần của mình, sẽ phát triển khả năng A2/AD. Khi đó Mỹ sẽ phát triển ASB để chống lại khả năng này. Bắc Kinh, nhận thấy sự phát triển ASB, khi đó bắt đầu triển khai một ADIZ ở biển Hoa Đông trong một nỗ lực khác nhằm đẩy lui các lực lượng của Mỹ và điều tiết các vùng biển gần và không phận của nước này.

Mặc dù các khả năng quân sự của Trung Quốc ngày một tăng, nhưng chúng trở nên lu mờ nếu so sánh với các khả năng của Mỹ xét về phương diện chỉ huy và kiểm soát (C2), các khả năng về thông tin liên lạc, máy tính, tình báo, giám sát và do thám (C4ISR), các lực lượng có thể triển khai trên mọi lĩnh vực xung đột có thể có, huấn luyện toàn diện, lợi thế lớn về công nghệ, và khả năng triển khai trên toàn cầu. Để loại bỏ được những khả năng như vậy, Bắc Kinh đã phát triển một tư thế chiến lược đặt các lực lượng của nước này vào vị trí tiến hành một cuộc đấu tranh không cân xứng.

Các lực lượng của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) sẽ sử dụng các chiến thuật và chiến lược A2/AD nhằm gây ra những tổn thất nghiêm trọng khi sử dụng tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình, tàu ngầm thông thường siêu êm, thủy lôi tiên tiến, máy bay không người lái (UAV), và các vũ khí khác, tinh vi và được sản xuất trong nước, để ngăn Mỹ và các lực lượng đồng minh tiếp cận các vùng biển gần của Trung Quốc. Bắc Kinh nhận thấy sự tự sát chiến lược khi cho phép một cường quốc lớn hơn có được lợi thế tăng cường lực lượng quân sự ở bên trong và xung quanh các vùng biển gần của họ và tấn công trên quy mô lớn. Việc chấm dứt hoặc ngăn chặn sự tăng cường như vậy thông qua chiến lược A2/AD – nhiều học giả Trung Quốc lập luận ủng hộ các cuộc tấn công phủ đầu ồ ạt nếu xung đột dường như chắc chắn – có vẻ như là cách tiếp cận tốt nhất nếu xảy ra một cuộc xung đột.

Tại sao Mỹ phát triển ASB

Nhằm đối phó với những thách thức A2/AD ngày một tăng trên khắp thế giới – và với sự chú trọng vào các khả năng A2/AD ngày một lớn của Trung Quốc và Iran-Mỹ đã phát triển khái niệm ASB. Có tên gọi tương tự như khái niệm Tác chiến trên không-đất liền của NATO vào những năm 1980, ASB trong điều kiện rất rộng lớn tìm cách tạo ra một mức độ phối hợp cao hơn giữa sức mạnh trên không và trên biển của Mỹ nhằm vượt qua những thách thức của các môi trường A2/AD.

Chống lại nhận thức sai lầm

Sau khi khái niệm ASB lần đầu tiên xuất hiện vào năm 2009/2010, khái niệm này đã gây nhiều tranh cãi – chủ yếu là do phân tích chi tiết của Trung tâm Đánh giá Chiến lược và Ngân sách (CSBA), một tổ chức tư vấn chiến lược nổi bật của Washington vào năm 2010, đưa ra một kịch bản mà trong đó ASB được sử dụng trong một cuộc chiến tranh với Trung Quốc nhằm tấn công các mục tiêu trên Đại lục, một phân tích đã không được Lầu Năm Góc tán thành.

Tuy nhiên, khái niệm này đã được Bộ Quốc phòng Mỹ chấp nhận và phát triển mạnh mẽ kể từ sau báo cáo về ASB của CSBA vào năm 2010. ASB đã được sửa đổi, khác biệt đáng kể về giọng điệu, cũng như về thực chất so với khái niệm ASB của CSBA. Phiên bản ASB mới này, nhằm tránh bất kỳ sự nhầm lẫn nào còn sót lại, được đề cập đến trong nhiều chỉ thị và giải thích chính thức của Bộ Quốc phòng. Phần lớn các quan chức của Lầu Năm Góc mà tác giả từng trò chuyện trong suốt những năm qua đã giải thích ASB là một khía cạnh cần thiết trong hành động khái niệm hóa lại của Mỹ về việc các lực lượng vũ trang của nước này sẽ cần phải chống lại những thách thức chống tiếp cận trong một thế giới hậu “cuộc chiến chống khủng bố” như thế nào, chứ không phải là một chiến lược nhằm phát động một cuộc chiến tranh chống lại Trung Quốc, như nhiều phương tiện truyền thông đã miêu tả khái niệm này.

Tại một phiên điều trần năm 2013 của Tiểu ban triển khai lực lượng và sức mạnh trên biển thuộc Ủy ban Quân lực Hạ viện Mỹ, Thiếu tướng Hải quân James G.Foggo xác định rõ khái niệm này trong một nỗ lực nhằm chấm dứt sự hiểu lầm ngày càng tăng:

“(ASB) nhằm đảm bảo quyền tiếp cận các phần thuộc ‘khu vực chung toàn cầu’ – trên không, trên biển, không gian mạng và không gian mà không ai “sở hữu”, nhưng tất cả chúng ta lại phụ thuộc vào đó – như các tuyến đường lưu thông trên biển. Chiến lược chống tiếp cận/ngăn chặn xâm nhập khu vực của các đối thủ của chúng ta sử dụng một loạt khả năng quân sự, những khả năng gây cản trở việc tự do sử dụng những không gian không bị kiểm soát này. Những khả năng quân sự này bao gồm các thế hệ mới tên lửa hành trình, đạn đạo, không đối không, đất đối không với tầm bắn, độ chính xác và khả năng sát thương được cải thiện, mà đang được chế tạo và trở nên phổ biến… Do đó khái niệm ASB là để đánh bại những mối đe dọa như vậy đối với quyền tiếp cận”.

ASB tiến triển: Bước vào JAM-GC

Trong suốt chừng 5 năm qua, khái niệm ASB đã được thử nghiệm trong nhiều cuộc chiến mô phỏng và được đưa vào việc lập kế hoạch của Lầu Năm Góc để sử dụng trong các môi trường tác chiến tranh chấp – với cả Trung Quốc và Iran là những thách thức hàng đầu. Tuy nhiên, vào cuối năm 2014 bắt đầu nổi lên tin đồn rằng đang có những thay đổi quan trọng đối với khái niệm tác chiến này, với sự cân nhắc cụ thể có xu hướng biến khái niệm này có thể hợp nhất tất cả các nhánh quân đội của Mỹ để đảm bảo khái niệm này sẽ thực sự “bao trùm khắp các lĩnh vực” và không chỉ là một kế hoạch của lực lượng Không quân và Hải quân Mỹ. Trong một bài viết cho tờ The National Interest, các chuyên gia từ Văn phòng ASB tại Lầu Năm Góc đã đưa ra tầm nhìn ASB sẽ trở thành:

“Một khái niệm chung ở cấp độ cao hơn và cũng sẽ miêu tả cách tiếp cận cao hơn đối với các hoạt động tác chiến chung và được liên kết trong khắp quân chủng, thành phần và các biên giới đa quốc gia ngay trong môi trường A2/AD. Dựa trên các quy tắc JOAC hiện nay, khái niệm được sửa đổi này sẽ sử dụng những ý tưởng hữu dụng nhất từ ‘Khái niệm ASB’ hiện tại để bổ sung một lực lượng được tổ chức thành mạng lưới, được kết hợp chặt chẽ, và có khả năng tấn công và phòng thủ trên khắp lãnh các khu vực tác chiến ở mức sâu hơn bởi Mỹ, các lực lượng liên minh và đồng minh ở các khu vực chung toàn cầu…

…Dựa trên những đánh giá gần đây, các phương pháp về chỉ huy và kiểm soát mang tính học thuyết hiện tại có khả năng chưa đủ để xử lý các môi trường A2/AD, nơi mà thông tin liên lạc ngoài tầm nhìn của hệ thống quan sát và kết nối khác giữa các đơn vị có thể bị gián đoạn hoặc bị chặn bởi kẻ thù. Do đó, những sửa đổi mang tính cải tiến về cơ cấu chỉ huy và kiểm soát và các giao thức là cần thiết nhằm chỉ huy và kiểm soát hiệu quả Liên quân khi mà môi trường truyền tin bị gián đoạn nghiêm trọng. Ngoài ra, kỹ năng trên nhiều lĩnh vực bên trong các trung tâm tác chiến phải được thúc đẩy nhằm tạo ra những tác động dàn trải nhằm hỗ trợ yêu cầu của các chỉ huy và các kế hoạch hành động”.

Bắc Kinh nghĩ gì về những thay đổi đối với ASB?

Trong khi hầu như không có tài liệu học thuật nào nói rõ lập trường của Trung Quốc về JAM-GC trong các văn bản công khai, nhưng có đủ lý do để tin rằng Trung Quốc sẽ nhìn nhận điều này không khác gì một sự nâng cấp khái niệm ASB và thậm chí là một mối đe dọa lớn hơn.

Trong suốt 18 tháng qua, chúng ta đã chứng kiến Bắc Kinh thực hiện những nỗ lực khác nhau nhằm tăng cường các hệ thống phòng thủ và các phương tiện A2/AD ở những khu vực để loại bỏ ASB. Chẳng hạn, nghiên cứu tài liệu công khai của Trung Quốc gần đây đã tiết lộ những nỗ lực ban đầu của nước này về phát triển mạng lưới siêu âm ở biển Hoàng Hải, biển Hoa Đông và Biển Đông, điều này nhằm vào yếu điểm của ASB: đó là các tàu ngầm tấn công của Hải quân Mỹ. Trung Quốc cũng thực sự quan tâm tới công nghệ quân sự của Nga; với những đợt mua sắm phương tiện phòng không S-400 được xác nhận gần đây, họ cũng quan tâm tới máy bay chiến đấu Su-35, động cơ máy bay của Nga, và các tàu ngầm và công nghệ siêu êm – Những khí tài này sẽ tăng cường đáng kể các khả năng A2/AD của Bắc Kinh.

Các khuyến nghị

Rõ ràng là Mỹ, Nhật Bản và Việt Nam có cùng mối quan tâm không chỉ là ngăn không cho Trung Quốc tuyên bố ADIZ mới trên Biển Đông – khu vực mà mỗi năm có hơn 5.300 tỷ USD thương mại bằng đường biển đi qua – mà còn ngăn cản việc thực thi một khu vực như vậy. Thực tế là có cơ hội cho cách tiếp cận 3 bên nhằm thay đổi tính toán của Bắc Kinh về ADIZ ở Biển Đông. Một chiến lược như vậy phải lấy việc chấm dứt hoặc ít nhất là giảm tốc việc thành lập bất kỳ kế hoạch ADIZ nào của Trung Quốc trên Biển Đông làm ưu tiên cao nhất. Lý do cho điều này thì có thể nhận thấy rõ ràng là: Nếu Trung Quốc định triển khai máy bay, các tàu bảo vệ bờ biển, tàu chiến, trạm rađa và nhiều phương tiện khác nhau ở nhiều đảo trên khắp Biển Đông, Bắc Kinh sẽ có những công cụ cần thiết để tuyên bố và áp đặt một ADIZ mới. Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khả thi khác nhau, tuy nhiên chúng cần phải được cân nhắc với một nỗ lực rõ ràng nhằm đảm bảo những căng thẳng trong khu vực Biển Đông không bị kích động hơn nữa. Ba cách tiếp cận dưới đây – sử dụng “cách tiếp cận cây gậy và củ cà rốt” kinh điển – cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng. Những khuyến nghị như vậy có thể được thực hiện một cách toàn diện hoặc được sử dụng có lựa chọn với cường độ khác nhau trên cơ sở theo từng trường hợp khi cần thiết:

1. Hợp tác nhằm loại bỏ tình thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh ngày càng tăng giữa A2/AD và ASB: Tại Đối thoại Shangri-La mới đây ở Singapore, Đô đốc Trung Quốc Tôn Kiến Quốc, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã giải thích rằng “Chính phủ và quân đội Trung Quốc không bao giờ nói họ sắp thiết lập một ADIZ trên Biển Đông” và rằng việc tạo ra một vùng như vậy sẽ được dựa trên quan điểm của Bắc Kinh về tình hình an ninh trong khu vực này – một câu nói mà các quan chức Trung Quốc gần đây đã nhắc lại gần như từng chữ một. Mỹ, cùng với sự ủng hộ của Nhật Bản và Việt Nam, cần phải thách thức những tuyên bố như vậy.

Một biện pháp khả thi cho việc đó là tìm ra những hướng đi mà trong đó cả Washington và Bắc Kinh có thể dừng triển khai các khí tài quân sự, hành động vốn chỉ làm sâu sắc thêm tình trạng tiến thoái lưỡng nan giữa một bên là các nước mong muốn duy trì quyền tiếp cận các khu vực như biển Hoa Đông và Biển Đông (Mỹ và các đối tác của nước này) và một bên là nước mong muốn hạn chế quyền tiếp cận các vùng biển gần như vậy (Trung Quốc). Mỹ, với sự ủng hộ của Nhật Bản và Việt Nam, phải đề xuất rằng Washington và Bắc Kinh giới hạn việc triển khai các loại phương tiện vũ khí thế hệ tiếp theo trong tương lai nhằm phá vỡ chu trình phản ứng theo sự kiện. Chẳng hạn, cân nhắc đến tính sát thương và những khả năng làm thay đổi cuộc chơi của vũ khí siêu thanh, đây có thể là một lĩnh vực mà cả hai bên có thể cùng chấm dứt riển khai ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Một thỏa thuận như vậy có thể sẽ mất nhiều thời gian để “đóng băng” thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh giữa A2/AD và ASB, nơi mà các loại vũ khí hiện đại và các hệ thống phòng thủ dường như sẵn sàng để triển khai. Điều này có thể (ít nhất là trên lý thuyết) cho Trung Quốc thấy rằng một ADIZ mới ở Biển Đông là không cần thiết, khi Mỹ và các đối tác của nước này đang tích cực thực hiện những nỗ lực tính thiện chí để giải quyết các mối quan ngại an ninh của mình và hợp tác nhằm phá vỡ tình thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh ngày một gia tăng.

2. Đến lúc sử dụng chiến tranh “gây mất thể diện”: Cùng lúc Washington và các đối tác của nước này tiếp cận Bắc Kinh nhằm giảm bớt các mối quan ngại an ninh của mình, họ cần phải cho cả thế giới thấy rõ được ý đồ của Trung Quốc nằm trong những các dự án xây dựng đảo nhân tạo trên Biển Đông – cơ sở thiết lập ADIZ mới trong khu vực này.

Việc CNN gần đây đưa tin ở Biển Đông – cung cấp đoạn băng và những bức ảnh rõ ràng về các dự án xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc – và các báo cáo và hình ảnh vệ tinh được cung cấp bởi Dự án Hàng hải châu Á của Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) là những ví dụ tiêu biểu về điều mà Washington, cùng với Nhật Bản và Việt Nam cần làm. Họ phải lên kế hoạch để giành được sự ủng hộ của giới truyền thông và xác định rõ động cơ của Bắc Kinh đối với những dự án cải tạo đảo trên Biển Đông – những dự án sẽ là huyết mạch cho một ADIZ mới. Trong khi dường như Washington và các đối tác, đồng minh của mình không có khả năng giảm bớt quy mô các dự án xây dựng đảo nhân tạo hiện tại của Trung Quốc, họ có thể đảm bảo rằng thế giới nhận thức được mọi động thái của Bắc Kinh – khiến Trung Quốc phải suy nghĩ kỹ về việc cải tạo trên bất kỳ hòn đảo mới nào và do đó hạn chế việc Bắc Kinh có thể dễ dàng tuyên bố một ADIZ mới. Đây là một số ví dụ về điều mà tác giả bài viết này gọi là “chiến tranh bằng cách làm mất thể diện” có thể có tác dụng như thế nào trên thực tế:

A: Khi Trung Quốc có bất kỳ hành động mới nào nhằm mở rộng các khả năng của mình trên Biển Đông – như xây dựng một đường băng mới mà có thể được sử dụng để tuần tra khu vực này hoặc lắp đặt vũ khí quân sự hạng nặng tinh vi như cả hệ thống vũ khí chống hạm – những bức ảnh và đoạn băng cần phải được cung cấp cho phương tiện truyền thông ngay lập tức.

B: Nếu các tàu của Mỹ, Nhật Bản hoặc Việt Nam thực thi quyền tự do hàng hải mà bị Trung Quốc quấy rối trên Biển Đông, vụ việc đó cần phải được ghi hình lại và ngay lập tức đăng trên YouTube và các kênh truyền thông xã hội nổi bật khác.

Việc nhiều lần “làm bẽ mặt” Trung Quốc vì những hành động của nước này cho phép Mỹ và các đối tác của nước này giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh tuyên truyền và dồn Bắc Kinh vào thế thủ. Trung Quốc sẽ bị buộc phải liên tục giải thích các hành động của mình hết lần này đến lần khác. Mỹ và các đối tác của mình phải sử dụng các chiến thuật này để đem lại lợi thế cho họ.

3.Thời điểm tăng cường “chiến tranh pháp lý”: Mỹ, cùng với Nhật Bản và Việt Nam, cần phải hợp tác với tất cả các bên tuyên bố chủ quyền khác trên Biển Đông nhằm dàn xếp các tranh chấp trong khu vực nơi mà không liên quan đến Trung Quốc. Mặc dù rõ ràng đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, nhưng thế làm chủ ngày càng tăng của Bắc Kinh trong khu vực này thông qua các dự án xây dựng đảo có thể khuyến khích các bên tham gia này tiến tới một sự thỏa hiệp. Với việc đạt được điều này, tất cả các bên có tuyên bố chủ quyền chống lại Trung Quốc có thể cùng nhau phát đơn kiện lên tòa án quốc tế.

Trong khi “chiến tranh pháp lý” sẽ không có khả năng gây ra một thách thức chính thức từ phía Bắc Kinh ngoài những tuyên bố mang tính cơ bản của họ về “chủ quyền không thể tranh cãi”, như trường hợp vụ kiện của Philippines, thì việc lập một hồ sơ lớn hơn của một mặt trận đoàn kết gồm các quốc gia chắc chắn tạo ra một hành động mạnh mẽ hơn. Washington không thể hiện lập trường chính thức, nhưng họ có thể chắc chắn về một hoạt động “không chính thức” nhằm khuấy động những hành động như vậy trong khi chủ động đưa ra những lời lẽ khích lệ và thúc đẩy Bắc Kinh dàn xếp đa phương tranh chấp với các nước láng giềng của Trung Quốc. Ngay cả một làn sóng các vụ kiện riêng rẽ của mỗi bên tuyên bố chủ quyền, được đệ trình đồng thời nhằm đạt được ảnh hưởng tối đa, cũng có thể khiến Bắc Kinh rối loạn – bị mắc kẹt trong cơn ác mộng quan hệ công chúng mà nước này sẽ không có khả năng gạt bỏ một cách dễ dàng. Những hành động như vậy có thể ngăn Trung Quốc cải tạo thêm các đảo và bãi ngầm, cũng như ngăn Trung Quốc thiết lập một ADIZ mới./.

Bài viết của tác giả Harry J. Kazianis, Tổng biên tập tạp chí The National Interest.

Thùy Anh (gt)