okinawa_people_protest.jpg

Biểu tình ở Nhật Bản nhìn chung là việc cực kỳ nghiêm túc, và những cuộc biểu tình ở tỉnh đảo phía Nam Okinawa bao gồm không chỉ các cư dân lớn tuổi, những người thường ghét cay ghét đắng các cuộc đụng độ bạo lực. Tuy nhiên, kể từ đầu năm nay, các cuộc biểu tình nhằm ngăn chặn việc xây dựng một đường băng mới cho lực lượng thủy quân lục chiến của Mỹ tại Henoko, một bãi biển hoang sơ trên hòn đảo chính của Okinawa, đã dần nóng lên.

Trên đất liền, các cuộc xô xát đã nổ ra khi các nhân viên an ninh xua đuổi những người biểu tình một cách mạnh mẽ hơn. Trên biển, lực lượng bảo vệ bờ biển trong những chiếc xuồng cứu sinh thân cứng đã ngăn những người biểu tình trên xuồng kayak đang cố ngăn chặn việc khoan cắt để xây dựng nền móng cho đường băng. Tỉnh trưởng của đảo này, Takeshi Onaga, đã lên nắm giữ chức vụ này vào tháng 12/2014 và thề sẽ phản đối kế hoạch vịnh Henoko. Gần đây ông đã ra lệnh ngừng việc thi công bởi những tác động phá hoại môi trường. Tại Tokyo, Chính phủ của Shinzo Abe đã nhanh chóng bác bỏ ông.

Những mối lo ngại của Okinawa về Henoko rất chân thành. Nhưng ông Abe và các đồng nghiệp của mình sẽ không tán thành cả việc thảo luận cũng như một sự thay đổi tiến trình. Khi vị thủ tướng tới Washington DC vào cuối tháng 4, cả phía Mỹ và Nhật Bản sẽ cố gắng gạt đi những điểm khó chịu đã có từ lâu trong mối quan hệ của họ ra khỏi tầm nhìn. Okinawa, với gần 1/5 diện tích bị chiếm dụng làm căn cứ cho Mỹ, là một biểu tượng mạnh mẽ cho mối quan hệ đó. Không bên nào muốn có bất kỳ một sự suy yếu nào trong quan hệ quân sự gần gũi giữa hai bên. Thực tế, hai bên mong muốn liên minh này thích ứng với những thách thức lâu dài, chẳng hạn như Triều Tiên, và với những thách thức mới, trên hết là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tại Washington, có lẽ ông Abe sẽ có được một thính giả đang rất mong chờ lắng nghe ông nói về tầm nhìn của ông về một nước Nhật ít bị kìm hãm bởi hiến pháp phản đối chiến tranh (và do Mỹ áp đặt) của mình.

Sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Okinawa là tâm điểm của tầm nhìn đó. Theo Gavan McCormack của Đại học Quốc gia Australia, đảo này là “vùng chiến tranh” để bù cho “vùng hòa bình” của Nhật Bản. Người Okinawa có lý do để phàn nàn về điều đó. Hòn đảo chính của họ đã phải chịu đựng một phần chia không cân xứng về sự hiện diện an ninh của Mỹ tại Nhật Bản kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Có lẽ 120.000 người Okinawa, hoặc hơn 1/4 dân số, đã thiệt mạng trong “cơn bão thép”, như trận chiến Okinawa thường được gọi, nhiều người đã bị các chỉ huy Nhật Bản ép phải tự tử.

Nhưng sau khi giải phóng Okinawa, quân Mỹ đã ở lại. 3/5 trên tổng số 49.000 binh sĩ Mỹ tại Nhật Bản đang đóng quân trên đảo này, cho dù nó chỉ chiếm 0,6% tổng diện tích Nhật Bản. Có rất nhiều vụ tai nạn và phạm tội, thậm chí cả cưỡng hiếp. Khoảng 80% người dân Okinawa được khảo sát cho biết những căn cứ này, và nhiều điều khác về cuộc sống của họ, không được những người dân Nhật Bản khác thấu hiểu, vì với nhiều người trong số đó, sự hiện diện của Mỹ là vô hình. Ông Abe sẽ để mặc cho họ phàn nàn: tập trung các căn cứ tại Okinawa sẽ khiến phần còn lại của đất nước không bị quấy rầy bởi một cuộc tranh cãi về việc chia sẻ gánh nặng.

Giới báo chí quốc gia cũng đã phớt lờ những vấn đề gay gắt đang ngày càng tăng trên đảo này. Các quan chức tại Tokyo coi thường người dân Okinawa: những người dân đảo thật tham lam, bởi trong hàng thập kỷ họ đã bỏ túi tiền của chính phủ để đổi lấy việc các lực lượng của Mỹ được đóng quân trên đảo của họ; và thiển cận, thậm chí rõ ràng là phản bội, bởi việc phản đối sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Okinawa sẽ đe dọa nền an ninh của Nhật Bản và liên minh của nước này với Mỹ vào thời điểm Triều Tiên đang phát triển các tên lửa mang đầu hạt nhân, và Trung Quốc đang nhanh chóng mở rộng năng lực quân sự của mình.

Tại Washington, cả ông Abe và Tổng thống Mỹ Barack Obama đều muốn ăn mừng cái cách mà một liên minh kéo dài hơn 6 thập kỷ - là liên minh quân sự quan trọng nhất của Mỹ trong khu vực – đã đảm bảo cho nền hòa bình và thịnh vượng ở Đông Á. Và ông Abe sẽ nhấn mạnh cách mà các chính sách thương mại và an ninh của Nhật Bản đang được xem xét và được tiếp sinh lực để đối mặt với các thách thức mới.

Nhật Bản có vẻ đang hoàn tất các cuộc đàm phán song phương với Mỹ để gia nhập một thỏa thuận thương mại tự do mới được biết đến với tên gọi Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương, trong đó bao gồm hàng chục quốc gia và 1/3 thương mại thế giới. Ông Abe sẽ được cổ vũ bởi đạo luật được Quốc hội đưa ra, nếu được thông qua, sẽ mang lại cho Tổng thống quyền đàm phán nhanh về những thỏa thuận như vậy.

Đối với vấn đề an ninh, vào thời điểm mối đe dọa từ Liên Xô, Nhật Bản có thể ngồi không hưởng lợi từ những đảm bảo quốc phòng của Mỹ trong khi theo đuổi phát triển kinh tế. Những ngày đó đã qua từ lâu. Mặc dù bị kiềm chế bởi một hiến pháp theo chủ nghĩa hòa bình và một ngân sách quốc phòng chỉ chiếm 1% GDP, ông Abe sẽ đặt ra chiến lược của mình cho Nhật Bản để làm nhiều hơn nữa nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của nước này, củng cố liên minh song phương và xây dựng quan hệ an ninh chặt chẽ hơn trong khu vực với Australia, Ấn Độ, Philippines và Singapore, trong số các nước khác. Trung Quốc sẽ phàn nàn, nhưng Mỹ sẽ hài lòng. Tất cả những điều này là một phần trong “đóng góp chủ động cho hòa bình” mới của Nhật Bản, như ông Abe sẽ nhấn mạnh khi phát biểu tại một phiên họp chung của Quốc hội Mỹ vào ngày 29/4.

Việc một thủ tướng Nhật Bản lần đầu tiên được trao vinh dự như vậy là điều đang thu hút sự chú ý. Các tổng thống của Hàn Quốc, đồng minh nhỏ hơn của Mỹ tại Đông Á, đã phát biểu tại một phiên họp chung 6 lần. Việc đó phần nào phản ánh những tranh chấp thương mại với Nhật Bản trong quá khứ – cũng như sự mất lòng tin ban đầu về ông Abe do những quan điểm mơ hồ của ông về lịch sử thời chiến của Nhật Bản. Nhưng ngày này, giới chức ở Washington tỏ ra thích ông Abe, vị lãnh đạo Nhật Bản tự tin nhất trong nhiều năm – và là người, không giống như Yukio Hatoyama khi ông giữ cương vị này vào năm 2009-2010, không nghi ngờ các nguyên lý chủ chốt của liên minh. Ông Hatoyama đã bị tẩy chay tại Washington sau khi ông đề xuất rằng sự hiện diện của các căn cứ Mỹ tại Okinawa cần được xem xét lại; mối bất hòa cuối cùng cũng dẫn đến sự thất bại của ông. Tại Washington, ông Abe sẽ vô tư nhấn mạnh rằng việc di dời căn cứ đang được tiến hành. Và cùng với ông Obama, ông sẽ ký một thỏa thuận mới về hợp tác quốc phòng, cập nhật lần đầu tiên kể từ năm 1997.

Trong nền chính trị nặng tính vương triều của Nhật Bản, chính sách có thể được kế thừa. Nguyện vọng riêng của ông Abe nhằm làm mới liên minh có một chiều hướng gia đình. Chính là ông nội của ông, Nobusuke Kishi, người đã thúc đẩy một hiệp ước an ninh được sửa đổi vào năm 1960. Việc này đã định hình liên minh kể từ đó. Ông Abe nhớ lại từng ngồi trên đầu gối ông nội mình khi những đám đông sinh viên cánh tả bao vây dinh thủ tướng trong một cuộc biểu tình. Nhưng khi đó động cơ để làm mới liên minh đã không xuất phát từ mong muốn được cho là để thỏa mãn Mỹ - thường là một chế độ mặc định trong các đời thủ tướng Nhật Bản.

Và ngày nay họ cũng không làm vậy. Quả thực, ông Abe có lẽ nằm trong số những người ở Tokyo không phải lúc nào cũng tin vào sự đảm bảo của ông Obama về một “chính sách xoay trục” hay “tái cân bằng” của Mỹ (thuật ngữ ưa thích của Chính phủ Mỹ) sang châu Á. Ngân sách quốc phòng của tổng thống Mỹ đang chịu nhiều áp lực, và ông đang bị phân tâm bởi Trung Đông. Các quan chức Nhật Bản nhận thấy Trung Quốc đã phá vỡ trật tự khu vực đã được thiết lập bằng cách, chẳng hạn như, thách thức quyền kiểm soát của Nhật Bản đối với quần đảo Senkaku (hay còn gọi là quần đảo Điếu Ngư ở Trung Quốc) và xây dựng đường băng trên các bãi đá tranh chấp ở Biển Đông. Họ tin rằng uy thế của Mỹ tại Đông Á không còn có thể được coi là điều đương nhiên nữa – hoặc, có lẽ ngay cả những cam kết của nước này với khu vực cũng vậy. Đó là lý do tại sao, theo lời một nhà ngoại giao cấp cao của Nhật Bản: “Chúng ta cần đóng vai trò của mình trong việc đảm bảo chính sách xoay trục không phải kiểu chính sách chỉ xảy ra một lần và ngắn hạn”.

Nhật Bản đang xem xét lại những đường lối chỉ đạo quốc phòng chung với Mỹ để thúc đẩy hợp tác “liền mạch và hiệu quả” giữa các lực lượng vũ trang hai nước trong các lĩnh vực như hậu cần, tình báo, phòng thủ tên lửa và chiến tranh mạng. Mùa Hè này, Nhật Bản cũng đang thúc đẩy đạo luật được thông qua ở Nghị viện (quốc hội) mà sẽ thay đổi hoàn toàn những điều mà quân đội của nước này, được biết đến như Lực lượng phòng vệ, được phép thực hiện. Các quy tắc mới sẽ hợp pháp hóa quyền phòng vệ tập thể, cho phép các lực lượng vũ trang tới hỗ trợ các đồng minh, đặc biệt là Mỹ, trong những tình huống không liên quan tới việc đẩy lui các cuộc tấn công trực tiếp trên chính lãnh thổ của mình.

Hiện tại, nếu một tàu hải quân Mỹ bị tấn công trong vùng biển quốc tế, một tàu phòng vệ biển của Nhật Bản có thể không giúp đỡ được bằng cách khai hỏa lên kẻ gây hấn. Nhật Bản và Mỹ muốn điều đó thay đổi, và muốn từ bỏ ý tưởng về những khu vực “không chiến tranh” được xác định một cách hạn hẹp trong đó các lực lượng Nhật Bản phải hạn chế hoạt động nếu họ được triển khai bên ngoài nước Nhật. (Các nhà hoạch định chính sách của Nhật Bản vẫn nhức nhối về việc binh lính Australia đã phải bảo vệ những binh lính Nhật không được vũ trang tại Iraq năm 2004).
Cuộc tranh cãi diễn ra gay gắt trong liên minh cầm quyền về việc những thay đổi này có thể tiến xa đến mức độ nào. Komeito, đối tác liên minh theo chủ nghĩa hòa bình của Đảng Dân chủ Tự do (LDP) của ông Abe, rất thận trọng về các cuộc triển khai ở nước ngoài. Một số người trong LDP muốn hải quân Nhật Bản tuần tra với các nước Đông Nam Á, Australia và Ấn Độ để chống lại sự quyết đoán của Trung Quốc và bảo vệ các con đường biển cũng như eo biển Hormuz. Ông Abe, vào thời điểm xảy ra vụ Nhà nước Hồi giáo (IS) chặt đầu hai công dân Nhật Bản ở Syria hồi đầu năm nay, dường như công khai lấy làm tiếc rằng Nhật Bản không được sự ủy nhiệm về quân sự để trả đũa.

Sự bao bọc như trẻ thơ

Tuy nhiên, niềm đam mê của ông Abe đã vượt ra ngoài việc củng cố an ninh. Ông tha thiết mong Nhật Bản trở thành điều mà một số người gọi là đất nước “bình thường” hơn – một đất nước không còn bị những kiềm chế được áp đặt từ bên ngoài về quyền tự trị trong các lĩnh vực đối ngoại và thậm chí cả trong nước. Mặc dù khó có thể là bài Mỹ (ngay cả những người Okianawa đang biểu tình cũng không như vậy), ông thường phát biểu về việc muốn lật đổ thứ mà ông gọi là “chế độ hậu chiến” và mang lại “sự tái sinh cho Nhật Bản”.

Bằng cách này ông không có ý làm suy yếu sự bảo trợ của Mỹ. Ông đang cho thấy sự thất vọng với điều được cho là sự thống trị trong phần lớn thời kỳ hậu chiến của những người cánh tả (đặc biệt là giáo viên), những người mà, như ông nhận thấy, đã lợi dụng tội lỗi chiến tranh của Nhật Bản và phá hoại bất kỳ ý thức nào về lòng tự hào dân tộc. Ông Abe khẳng định, Nhật Bản phải thể hiện một hình ảnh mạnh mẽ, một phần bằng cách thúc đẩy tinh thần yêu nước và thậm chí quay trở lại một cảnh điền viên vương giả. Sự yêu thích của ông dành cho đền Yasukuni quân phiệt nên được xem xét trong bối cảnh này. Ngày 21/4, ông đã gửi đến đền một món quà là một chậu cây, chọc giận Trung Quốc và Hàn Quốc. Mỹ mong muốn ông Abe tránh những cử chỉ này, nhưng không trách móc ông nhiều vì những điều đó. Ông sẽ phải cẩn thận để phát ngôn những điều đúng đắn trước Quốc hội Mỹ về việc Nhật Bản ngược đãi tù nhân chiến tranh Mỹ và thậm chí cả việc ném bom Trân Châu cảng.

Có rất nhiều điều kỳ lạ trong quan điểm của ông Abe về thời kỳ hậu chiến, trên hết là khái niệm về một âm mưu của cánh tả. Sự bảo hộ của người Mỹ đã tạo ra một giới quyền uy chính trị và hành chính quan liêu cánh hữu, với LDP làm trung tâm, mà đã thống trị Nhật Bản gần như không ngừng kể từ lúc đó. Bản thân ông Abe là một sản phẩm chính của điều đó. Tuy nhiên những ám ảnh của ông cho thấy những thực tế cơ bản mà cả hai bên đều không sẵn lòng thừa nhận.

Trước hết, liên minh với Mỹ luôn là một liên minh kỳ lạ và không công bằng, với một đất nước chuộng hòa bình một cách đầy tự hào nép dưới chiếc ô hạt nhân của Mỹ. Mỹ vẫn luôn nhấn mạnh vào quyền kiểm soát chiến lược đối với Nhật Bản, chủ yếu thông qua Okinawa. Ngay cả sau khi Mỹ bàn giao quyền kiểm soát Nhật Bản trở lại cho người Nhật vào năm 1952, nước này đã đặt ra một ngoại lệ cho Okinawa, nơi Mỹ duy trì quyền kiểm soát quân sự trong 2 thập kỷ nữa. Sau đó Mỹ nhấn mạnh vào việc duy trì các căn cứ.

Trong suốt Chiến tranh Lạnh, liên minh này là một tấm chăn êm ái cho các nhà lãnh đạo Nhật Bản. Nhưng hiện nay những bất ổn khu vực tăng cao, đặc biệt là sự trỗi dậy của Trung Quốc, đang thúc đẩy sự hồi sinh của chủ nghĩa dân tộc, kể cả của ông Abe. Chẳng ích gì khi tính chất bảo hộ của liên minh này đã đem lại cho Nhật Bản quá ít lý do để hình thành mối quan hệ sâu sắc và mang tính xây dựng với các nước láng giềng và những kẻ thù trước đây – một lý do gây khó khăn cho nước này trong việc đối phó với Trung Quốc và Hàn Quốc hiện nay. Một cố vấn của ông Abe nói, “được bao bọc bởi người anh cả, người Nhật đã ngừng tư duy chiến lược về tương lai của chính họ”.

Một hậu quả khác – một nền chính trị trong nước không đáp ứng được nguyện vọng của người dân – không nơi nào rõ ràng hơn là trong số phận của Okinawa. Từng là một đảo quốc đứng chênh vênh giữa Nhật Bản và Trung Quốc, nó đã không được may mắn ngay từ lúc Nhật Bản sáp nhập đảo này vào những năm 1870. Theo Kurayoshi Takara, một sử gia và phó thống đốc hiện tại của Okianawa, người Okinawa đang phải chịu sự chiếm đóng kép: cả của Mỹ và của Nhật Bản. Nhưng, mặc dù “việc nói về chủ nghĩa thực dân mới mô tả tình hình này, nó không hứa hẹn mang lại giải pháp”./. 

Theo Tạp chí The Economist

 

Thùy Anh (gt)