26/03/2015
Trong 20 năm qua, sức mạnh của Mỹ tại Biển Đông đã bị thu hẹp đáng kể. Nói theo thuật ngữ quốc phòng, hải quân Mỹ ngày càng coi trọng về năng lực hơn quy mô. Thêm vào đó, do yêu cầu điều động hải quân Mỹ nhiều hơn tại vùng biển khu vực Trung Đông làm cho hiện diện tàu chiến Mỹ tại các vùng biển khác trên thế giới giảm đi.
Hệ quả là, từ năm 1995 đến nay, tổng số tàu hải quân Mỹ đã giảm 20%. Tính về sức mạnh cứng, năng lực trên biển của các nước Đông Nam Á - hải quân và cảnh sát biển - đều hết sức có hạn, những nước này đều không muốn đối đầu trực diện với Trung Quốc. Tất cả những điều này làm cho khoảng trống quyền lực tại khu vực Biển Đông là cực kỳ lớn. Do vậy, thúc đẩy các nước thực thi luật pháp và quyền lợi bình đẳng đi lại đòi hỏi Mỹ phải thực hiện một nhóm hành động đồng bộ, toàn diện hơn.
Thứ nhất, Mỹ cần theo đuổi các chính sách cho Trung Quốc thấy hành động của họ đang gia tăng các nguy cơ tại Biển Đông. Chừng nào vẫn chưa thấy rõ các nguy cơ từ hành động của họ, Trung Quốc sẽ chẳng có lý do gì để kiềm chế các hành động khiêu khích của mình.
Thứ hai, Mỹ (và các nước Đông Nam Á) cần có nhiều tàu hơn để lấp đầy các “vùng xám trên biển”, như vậy mới đảm bảo hiệu quả sự hiện diện thường xuyên và lâu dài tại khu vực. Muốn vậy, Mỹ cần cân nhắc kỹ lưỡng về các quy tắc tham gia cũng như thẩm quyền cho chỉ huy tàu.
Thứ ba, Mỹ cần cho thấy tiến bộ trong trận địa kinh tế, ký được TPP trong năm nay. Mỹ cũng cần chứng tỏ không chỉ là người đảm bảo an ninh mà còn là đối tác kinh tế đầy sức sống, trong đó TPP là bước đi tối thiểu để tạo tin cậy. Bên cạnh đó, Mỹ cần xác định các đường hướng rõ ràng nhằm tăng cường đầu tư của Mỹ tại các nền kinh tế đang phát triển ở Đông Nam Á và Nam Á.
Thứ tư, Mỹ cần “đặt hàng” giới luật gia của khu vực và các nhóm/cộng đồng lợi ích lớn cùng xây dựng một đề xuất về quy chế pháp lý của từng yếu tố (bãi chìm, đá, đảo…) ở Biển Đông. Các nước có thể có quan điểm khác nhau, những đây sẽ là cơ chế hữu hiệu để các nước giảm căng thẳng, không đối đầu trực diện trước các đòi hỏi chủ quyền của nhau.
Cuối cùng, Mỹ cần thể hiện tầm nhìn về một Biển Đông đầy sức sống, cởi mở sẽ có hình thù như ra sao? Hiện nay, các lợi ích quốc gia có xu hướng triệt tiêu lẫn nhau cộng với các trở ngại về nguồn lực và chính trị đang ngăn cản các nước xung quanh Biển Đông hợp tác hướng tới kết quả tích cực. Mỹ cần phối hợp với các nước trong những lĩnh vực để họ thấy rằng hợp tác cùng nhau sẽ đem lại được nhiều hơn mất.
Nếu Mỹ không sẵn lòng bắt tay thực hiện những hành động này thì các nước sẽ phải bắt đầu phải thích ứng với luật lệ của Trung Quốc chứ không phải luật pháp quốc tế tại Biển Đông.
Theo War on the Rocks
Thùy Anh (tóm tắt & gt)
Trong hai ngày 16-17/11/2022, Học viện Ngoại giao đã tổ chức các Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 14 về chủ đề “Biển hoà bình – Phục hồi bền vững”.
Sáng ngày 16/11/2022, Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 14 do Học viện Ngoại giao, phối hợp tổ chức cùng các đối tác đồng bảo trợ trong và ngoài nước, đã khai mạc tại Đà Nẵng với chủ đề “Biển Hòa Bình – Phục hồi bền vững”.
Ngày 12-13/9/2022, Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao đã phối hợp với Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội tổ chức Khóa học Nâng cao Năng lực Biển lần thứ hai thuộc khuôn khổ Trung tâm Ngoại giao Biển (MDC).
Ngày 23/9, Học viện Ngoại giao phối hợp với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam tổ chức tọa đàm trực tuyến An ninh biển và Luật pháp quốc tế ở Biển Đông.
Ngày 19/8/2021, Học viện Ngoại giao phối hợp với Đại sứ quán Anh và Quỹ Konrad Adenauer Stiftung (KAS), Đức tại Hà Nội tổ chức Đối thoại Biển lần thứ 7 (trực tuyến) với chủ đề “Đánh giá các vấn đề biển đang nổi lên từ góc độ luật pháp quốc tế”.
Thông cáo báo chí: Bộ trưởng Quốc phòng Vương quốc Anh Robert Ben Lobban Wallace thăm và thảo luận tại Học viện Ngoại giao Việt Nam, ngày 22/7/2021)