Theo hai nhà nghiên cứu Shashank Joshi, Viện nghiên cứu Royal United Services Institute tại London và Ashley Townshend, Viện Chính sách Quốc tế Lowy tại Sydney, dù đã được hết sức nâng cấp, nhưng chiếc hàng không mẫu hạm Varyag từ thời Liên Xô mà Trung Quốc mua lại, vẫn chỉ thuộc loại tàu sân bay “hạ đẳng” so với chuẩn mực của thế kỷ 21.

So sánh với một chiếc tàu sân bay Mỹ lớp Nimitz chẳng hạn, chiếc tàu Trung Quốc không thấm vào đâu: trong lúc tàu Mỹ chở được 90 máy bay, có thể hoạt động trên biển liên tục 20 năm trước khi về bến rà soát lại động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, thì ngược lại, chiếc Varyag chở được tối đa 60 máy bay và chỉ ra khơi được vỏn vẹn 45 ngày.

Hải quân Trung Quốc cũng chưa làm chủ được kỹ thuật chống tàu ngầm. Điều đó có nghĩa là tàu ngầm tấn công của Mỹ vẫn có thể tự do tung hoàng tại vùng lãnh hải của Trung Quốc mà không bị hề hấn gì. Còn ở bên kia eo biển, Đài Loan cũng đang đe dọa các chiếc tàu lớn của Trung Quốc bằng cách triển khai hệ thống tên lửa đạn đạo chống hạm, có thể đánh vào các chiếc tàu sân bay đang di chuyển.

Câu hỏi đặt ra là tàu sân bay Varyag của Trung Quốc có thể thực hiện mục tiêu chiến đấu nào? Theo hai chuyên gia tác giả bài viết trên tờ The Australian, có hai giả thuyết.

Một là chiếc hàng không mẫu hạm này có thể hữu ích trong một cuộc xung đột với Đài Loan vì sẽ cho phép Trung Quốc tung lực lượng không quân và hải quân tấn công từ nhiều hướng, chứ không nhất thiết phải giới hạn ở vùng eo biển. Thế nhưng Trung Quốc hiện đã có hơn 1.300 tên lửa hướng về Đài Loan (có nguồn tin nói đến 1.600), do đó tàu sân bay Varyag sẽ không mang lại thêm một ích lợi nào. Ngoài ra, trong trường hợp nổ ra chiến tranh ở vùng eo biển Đài Loan, gần như chắc chắn là Mỹ sẽ nhập cuộc, và như vậy tàu sân bay “thứ phẩm” của Trung Quốc sẽ nhanh chóng bị qua mặt.

Kịch bản khác từng được phái diều hâu tại Bắc Kinh nêu bật là dùng chiếc hàng không mẫu hạm mới toanh này để đe dọa các đối thủ đang tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc. Theo hai chuyên gia Joshi và Townshend, dùng tàu hải giám để hù dọa các tàu thương mại dân sự là một chuyện, nhưng viện đến tàu sân bay là một hành vị leo thang quá trớn. Động thái đó sẽ đẩy khối ASEAN xích lại gần Washington hơn nữa, vì thế có lẽ Bắc Kinh sẽ không sử dụng chiếc Varyag một cách mạnh bạo như vậy.

Theo báo The Australian, ngay cả khi Trung Quốc điều chiếc tàu sân bay của họ xuống vùng Biển Đông, chiếc tàu này sẽ dễ dàng làm mồi cho các loại vũ khí của đối phương đặt trên đất liền hay di chuyển ngoài biển. VN đã đặt mua 6 chiếc tàu ngầm hạng Kilo và 12 chiến đấu cơ Sukhoi; Malaysia cũng trang bị 2 tàu ngầm lớp Scorpene; Indonesia dự trù mua 2 tàu ngầm trong năm 2011 và Philippines cũng tìm cách trang bị cho mình 1 chiếc.

Cùng với các loại tên lửa chống hạm mà các nước này đã có, các chiếc tàu ngầm được mệnh danh là phương tiện diệt hàng không mẫu hạm này, sẽ là ác mộng đối với Bắc Kinh, đó là chưa kể đến uy lực đang được tăng cường của hải quân Ấn Độ và Nhật Bản.

Câu hỏi đặt ra là Trung Quốc thừa biết những yếu kém của họ, thế nhưng tại sao họ lại nhất quyết phải nhanh chóng cho hạ thủy chiếc tàu sân bay đầu tiên của mình?

Theo Joshi và Townshend, ngoài nhu cầu cần phải có bước khởi đầu để rút kinh nghiệm và huấn luyện đội ngũ, ý nghĩa thực sự của chiếc Varyag nằm trong mong muốn phô trương thanh thế của Bắc Kinh.

Ở trong nước, dư luận ngày càng cho rằng Trung Quốc đã trở thành cường quốc và một cường quốc cần phải có một lực lượng hải quân hùng mạnh và hải quân hùng mạnh phải có hàng không mẫu hạm. Trung Quốc là thành viên thường trực duy nhất của Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc không có tàu sân bay, một thực tế bị hàng triệu người Trung Quốc cho là nhục nhã.

Theo các nhà nghiên cứu này, phản ứng quá trớn trước một sự kiện không đáng chỉ có tác dụng tăng cường thanh thế cho các thành phần hiếu chiến trong đảng Đảng Cộng sản và Quân đội Trung Quốc, kích động thêm tinh thần dân tộc chủ nghĩa trong dư luận Trung Quốc. Vào lúc chiếc tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc hạ thủy, thách thức lớn nhất đối với châu Á là phải làm sao để cho các láng giềng của Trung Quốc phản ứng một cách tỉnh táo, không coi thường mối đe dọa, nhưng cũng không quá hoảng hốt.

Hải Hòa (gt) theo nhật báo The Australian ngày 5/9 (China carrier no cause for regional alarm)