Tóm tắt

- Việt Nam nhận thấy rõ và tỏ ra quan ngại về những mưu đồ gần đây ở khu vực lân cận của nước này, đặc biệt là Biển Đông. Việt Nam lo sợ về một sự tổn hại tính hợp pháp quốc gia nếu các lợi ích của nước này bị Trung Quốc tước đoạt.

- Chính sách đối ngoại của Việt Nam được đặc trưng bởi sự kiên định của nước này với chính sách “ba không”: không cho nước khác đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam, không tham gia liên minh quân sự và không dựa vào một nước thứ ba để chống lại một nước khác. Duy trì độc lập và đặc tính quốc gia là trọng yếu đối với chính sách đối ngoại của Việt Nam.

- Đối mặt với một Trung Quốc đang nổi lên, quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và Mỹ đã cải thiện. Trong lịch sử được đặc trưng bởi sự ngờ vực, các diễn biến gần đây báo hiệu việc tăng cường các quan hệ. Việt Nam cũng đã đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của mình, với một sự chú trọng vào Nhật Bản, Ấn Độ và Nga.

Mảnh đất “Thăng Long”, Việt Nam đã có những tiến bộ đầy ấn tượng trong thập kỷ qua để củng cố bản thân với tư cách là một nhà lãnh đạo đang nổi lên ở Đông Nam Á. Hiểu rõ vị thế có phần hiểm nghèo của mình là một nước láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam đã có những nỗ lực có ý thức nhằm tăng cường quan hệ với Mỹ và các nước khác. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ lâu đã được hỗ trợ bởi mối liên kết chung giữa hai đảng Cộng sản, đem lại thêm một kênh đối thoại. Mặc dù hữu ích trong việc dàn xếp một kết thúc hòa bình cho các hành động của Trung Quốc, chẳng hạn như cuộc đối đầu ở giàn khoan dầu hồi năm 2014, các mối liên hệ giữa hai đảng này không còn đủ để thuyết phục Việt Nam về sự rộng lượng của Trung Quốc ở khu vực này. Giới lãnh đạo Việt Nam vẫn cảnh giác với các ý định của Mỹ và sợ bị kéo vào những tình thế khó xử mà có thể đe dọa sự độc lập của nước này hay làm suy yếu ĐCSVN. Do thái độ nghi hoặc của Việt Nam, mối quan hệ an ninh với Mỹ vẫn còn rất hạn chế, và được đặc trưng bởi một chương trình nghị sự mềm gồm các cuộc đối thoại cấp cao, an ninh biển, tìm kiếm và cứu nạn, trợ giúp nhân đạo và cứu trợ thảm họa, và gìn giữ hòa bình. Nếu Mỹ có thể chứng minh, qua thời gian, rằng nước này tôn trọng quyền tự trị của Nhà nước - Đảng Việt Nam thì các quan hệ chiến lược có thể được cải thiện rõ rệt. Việt Nam ủng hộ và được hưởng lợi từ một cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là do sự ủng hộ mà ASEAN dành cho Việt Nam trong các tranh chấp biển đảo của nước này với Trung Quốc. Mặc dù Việt Nam mong muốn nguyên trạng an ninh hiện nay được duy trì, nước này đã định vị lại các mối quan hệ của mình để tránh một cuộc xung đột kéo dài với Trung Quốc.

Mở đầu

Chính sách đối ngoại của Việt Nam đang ở trước ngã rẽ quan trọng. Các hành động gần đây của Trung Quốc, đặc biệt là ở Biển Đông, và một sự điều chỉnh đường lối phức tạp của Mỹ kết hợp với sự thay đổi về nhân khẩu học và những sự thay đổi khác ở trong nước đã tạo ra một sự chuyển biến quan điểm đáng chú ý bên trong giới tinh hoa cầm quyền.

Nghiên cứu này xem xét các động lực đằng sau sự chuyển biến này. Nó lập luận rằng sự thay đổi đó không phải là hoàn toàn và giới lãnh đạo Việt Nam sẽ nỗ lực để tránh phải đưa ra những sự lựa chọn khó khăn. Họ sẽ tìm kiếm sự ủng hộ của một loạt nước nhưng vẫn thận trọng trong việc can dự quá mức với siêu cường hùng mạnh nhất. Tuy thế, sự thay đổi này là thực. Tuy nhiên, nếu quá trình này muốn tiếp tục, Mỹ sẽ phải tuân thủ các cam kết bằng lời nói của mình tôn trọng hệ thống chính trị của Việt Nam và không nên trông đợi một sự mở cửa an ninh công khai.

1. Bối cảnh chiến lược của Việt Nam

Chính sách đối ngoại của Việt Nam không được tạo ra bởi các cơ cấu theo thể thức của chính phủ mà được đề ra trong ĐCSVN cầm quyền. Bộ Ngoại giao, quân đội, các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, đảng viên và dư luận tạo thành các hành lang quan trọng, nhưng chính Đảng mới là bên kiểm soát sức ảnh hưởng của họ và đề ra tầm nhìn và chính sách của đất nước.

ĐCSVN là một thể chế thận trọng, cẩn trọng trước sự phá hoại ở trong nước, ít nhất là cũng nhiều như các thách thức an ninh thông thường. Việc hiểu rõ các tranh cãi trong nước của nước này là rất khó, đặc biệt là đối với các nhà phân tích nước ngoài. Tuy nhiên, do lịch sử quan hệ giữa các Đảng Cộng sản ở Hà Nội và Bắc Kinh, việc cho rằng ĐCSVN tin tưởng những người anh em của mình ở Bắc Kinh không muốn thấy đảng này bị thay thế bởi một chế độ không phải là chế độ Cộng sản là có cơ sở. Do đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc được xem là một đồng minh chống lại sự phá hoại ở trong nước và quốc tế, được minh chứng bởi sự hợp tác lâu đời của hai đảng Cộng sản về nhiều vấn đề. Nhìn qua lăng kính này, về lịch sử, Mỹ và các cường quốc phương Tây bị xem là các nguồn phá hoại ý thức hệ và là các mối đe dọa đối với sự cầm quyền của đảng.

Đồng thời, ĐCSVN lo sợ về những hậu quả của sự trỗi dậy về kinh tế và quân sự của Trung Quốc. Họ là những người theo chủ nghĩa dân tộc mong muốn duy trì sự độc lập của mình. Trong khi hầu hết sự chú ý của quốc tế tập trung vào các tranh chấp ở Biển Đông, Hà Nội nhận thức đây chỉ là hiện thân của một cuộc đấu tranh không ngừng để giành lấy tự do. Trong cuộc đấu tranh này, Trung Quốc là kẻ thù và Mỹ cùng với các cường quốc phương Tây là những người ủng hộ tiềm năng. Tuy nhiên, giới lãnh đạo của ĐCSVN lo sợ bị kéo vào một chương trình nghị sự “chống Trung Quốc” của Mỹ mà sẽ làm phức tạp sự can dự đa chiều của chính họ với Bắc Kinh.

Các đường lối chỉ đạo về chiến lược của ĐCSVN đối với Mỹ và Trung Quốc đã được đề ra bởi một hội nghị của Ban chấp hành Trung ương Đảng vào tháng 7/2013 thông qua các khái niệm “đối tác” (đối tượng hợp tác) và “đối tượng” (đối tượng đấu tranh). Ngoại giao sẽ thường bao gồm các thành phần của cả hai khái niệm này. Cuối cùng, ban lãnh đạo của ĐCSVN muốn Bắc Kinh coi họ là một bức tường thành chống lại sự can thiệp của Mỹ ở khu vực và Mỹ coi họ là một đối tác tiềm năng trong sự cạnh tranh chiến lược của nước này với Trung Quốc. Về cơ bản, chính sách đối ngoại của Việt Nam là theo đuổi đồng thời các mục tiêu trái ngược.

Những người có tư tưởng bảo thủ trong đảng dường như lo sợ rằng Washington có thể coi việc loại bỏ ĐCSVN là một biện pháp để tạo ra một đồng minh Việt Nam mạnh mẽ cho các tham vọng lớn hơn của họ ở châu Á. Đảng đã có các bước đi để đem lại cho Mỹ một lợi ích trực tiếp trong nguyên trạng của Việt Nam thông qua cả đầu tư thương mại từ các tập đoàn Intel, Nike và GE (General Electric) lẫn can dự ngoại giao và an ninh trong khi cũng chống lại sức ép của Mỹ đòi cho phép đa nguyên chính trị lớn hơn.

Các quan điểm phổ biến về tình hình an ninh khu vực ở châu Á

ĐCSVN không phải là đa nguyên, và cũng chẳng phải là các phe phái cố định “thân Trung Quốc” hay “thân Mỹ”. Người Việt Nam thường dùng từ ngữ “thân” có nghĩa là “gần gũi với” hoặc “đồng tình nhiều hơn” thay vì “ủng hộ”. Như sự diễn dịch hàm ý, thường có nhiều động cơ bên trong các liên minh này: thể chế, ý thức hệ, tiền bạc và cá nhân. Thậm chí người trong cuộc của Việt Nam cũng thừa nhận rằng việc ra quyết định quốc gia là không minh bạch.

Các nhà phân tích quen thuộc với khái niệm quan hệ quốc tế như là một “trò chơi hai cấp độ” gồm các dàn xếp đồng thời ở cả cấp độ trong nước lẫn quốc tế. Ở Việt Nam, không có sự phân chia rạch ròi giữa các cấp độ này. Các cơ chế bên trong Nhà nước một đảng của nước này ràng buộc phần trong nước và phần quốc tế theo vô vàn cách thức. Chẳng hạn, các dòng viện trợ quốc tế và đầu tư nước ngoài có thể được sử dụng để mua sự bảo trợ ở các địa phương riêng biệt, và quyền hợp pháp hóa các cuộc luận bàn theo chủ nghĩa dân tộc có thể đem lại các trụ cột ý thức hệ để hỗ trợ hoặc chống lại cải cách.

Các mục tiêu chiến lược dài hạn của Việt Nam

Ưu tiên của ĐCSVN trong các vấn đề đối ngoại, cũng như trong tất cả các lĩnh vực chính trị, là duy trì vai trò lãnh đạo của đảng. Mặc dù đảng có các biện pháp mạnh mẽ, tính hợp pháp của đảng phụ thuộc chủ yếu vào sự đồng thuận. Sự đồng thuận đó được xây dựng dựa trên một số trụ cột:

- Sự phân bố bảo trợ trong các giới tinh hoa và các mạng lưới của họ;

- Tính hợp pháp ý thức hệ được thể hiện thông qua cam kết đối với các nguyên tắc của Đảng Cộng sản hay giọng điệu theo chủ nghĩa dân tộc; Những sự cải thiện trong cuộc sống của người dân Việt Nam: đem lại việc làm cho một lực lượng lao động ngày càng mở rộng và nâng các tiêu chuẩn sống cho một cộng đồng người thành thị ngày càng tăng.

Ngay từ khi bãi bỏ chính sách kinh tế theo đường lối Stalin vào đầu những năm 1980, thách thức cải thiện tiêu chuẩn sống đã được giải quyết bằng việc thu hút đầu tư nước ngoài, theo đuổi hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và dần dần tự do hóa kiểm soát kinh tế và xã hội. Không có dấu hiệu về việc Việt Nam thực hiện bất cứ thay đổi đáng chú ý nào đối với định hướng cơ bản này. Do đó, các mục tiêu chiến lược chính của giới lãnh đạo Việt Nam là duy trì sự ổn định trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và bảo vệ quyền tự do hành động của họ trong các vấn đề trong nước. Cả ba mục tiêu này đòi hỏi cần phải có sự ổn định khu vực và quan hệ giúp đỡ, hay ít nhất là không đối đầu, với các láng giềng và cường quốc khu vực.

Bất chấp thành tích đáng khen ngợi trong việc xử lý các thách thức kinh tế, xã hội và chính trị trong 30 năm qua, ĐCSVN vẫn lo sợ về tương lai. Đảng nhận thấy những mối đe dọa đối với sự cầm quyền của mình từ những người bất đồng chính kiến ở bên trong và sự phá hoại được bảo trợ của phương Tây – mà gắn liền với thuật ngữ “diễn biến hòa bình” – từ bên ngoài. Phải đối mặt với cả các mối đe dọa thông thường và không thông thường, ĐCSVN đã kết luận rằng cách tốt nhất để duy trì sự độc lập hành động của mình là không liên minh với bất kỳ nước lớn nào ngoại trừ đem lại các cơ hội kinh tế và chính trị cho nhiều nước nhất có thể, bao gồm Trung Quốc, Nga, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Liên minh châu Âu (EU) để đem lại cho họ một lợi ích trong việc duy trì nguyên trạng của Việt Nam. Ở Việt Nam, đây đôi khi được biết đến là “học thuyết Vũ Khoan”, gọi theo tên vị cựu Phó Thủ tướng người đã đưa ra thuyết này lần đầu tiên và đã giám sát các cuộc đàm phán của Việt Nam để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Kể từ khi chấm dứt liên minh của mình với Liên Xô (USSR) vào năm 1991, Việt Nam đã công khai chủ trương một chính sách “ba không”:

- không cho nước khác đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam;

- không tham gia liên minh quân sự;

- không dựa vào một nước thứ ba để chống lại một nước khác.

Chính sách này có nguồn gốc sâu xa và có thể được bắt nguồn từ các tuyên bố công khai hồi năm 1964 và các cuộc thảo luận trong nội bộ đảng vào những năm 1950. Trong tình hình hiện nay, hai “không” đầu tiên có vẻ như có ý nghĩa thực sự, nhưng “không” thứ ba dường như ngày càng mang tính khoa trương. Những người được hỏi ở Hà Nội đã miêu tả văn hóa chiến lược của ĐCSVN là một phiên bản được cập nhật của một câu nói được cho là của Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

Thách thức và triển vọng

Các thách thức về kinh tế

Do sự cầm quyền của đảng phụ thuộc vào “tính hợp pháp dựa trên hiệu quả”, quan tâm chính của đảng là tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước. Điều này không rõ ràng ngay tức thì từ các số liệu về xuất khẩu của đất nước, lĩnh vực vẫn đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Năm 2014, các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là:

- Mỹ: 28,5 tỷ USD (tăng 19,6% so với năm 2013)

- EU: 27,9 tỷ USD (tăng 14,7%)

- ASEAN: 19 tỷ USD (tăng 3,1%)

Tuy nhiên, các số liệu này che giấu những sự yếu kém đáng lo ngại. Tốc độ tăng trưởng nhìn chung đã giảm xuống. Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là 5,4% vào năm 2013, giảm xuống từ mức 6,4% vào năm 2010-2011 và 7,25% trong giai đoạn năm 2001-2007. Mặc dù hầu hết các nhà kinh tế dự đoán sẽ có một sự cải thiện trong vài năm tới, tăng trưởng có khả năng bị giảm sút do các tác động của sự giảm tốc của Trung Quốc.

Viết vào năm 2015, đại diện của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ở Việt Nam đã nhận xét rằng “nhu cầu trong nước vẫn còn yếu và nền kinh tế đang tiếp tục vận hành nhờ vào một động cơ duy nhất là nhu cầu bên ngoài và xuất khẩu”. Gần 2/3 lượng hàng hóa xuất khẩu không phải dầu mỏ của Việt Nam (63%) đến từ khu vực Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào năm 2012”. Do đó, lo ngại chính của Việt Nam là tốc độ tăng trưởng FDI đang có xu hướng đi xuống, sau khi đạt mức đỉnh là 14% vào năm 2006. Các tin tức gần đây có tính khích lệ hơn: một mức tăng 8,4% trong 9 tháng đầu năm 2015 với tăng trưởng việc làm vào khoảng 20%/năm. Tuy nhiên, không chắc chắn rằng tăng trưởng FDI sẽ duy trì tốc độ cùng với sự mở rộng của lực lượng lao động của quốc gia – khoảng 1 triệu người mỗi năm – và công ăn việc làm đang giảm bớt ở khu vực nhà nước, giảm từ 60% tổng số công ăn việc làm vào năm 2001 xuống còn 15% vào năm 2011. Tuy nhiên, lo ngại chính là khu vực tư nhân trong nước, nơi mà tốc độ tăng trưởng việc làm đã giảm xuống kể từ năm 2001. Năm 2011, tốc độ này đã tăng lên một chút ở mức hơn 10%/năm, giảm từ mức 28%/năm một thập kỷ trước đó.

Tăng trưởng của khu vực tư nhân đạt mức đỉnh 9% vào năm 2008, khi bong bóng kinh tế gần đây nhất của Việt Nam bắt đầu vỡ. Các vấn đề đã được chẩn đoán trong một báo cáo hồi năm 2013 của Chương trình Việt Nam của Đại học Harvard, báo cáo này đã chỉ rõ tình trạng quan liêu, bảo trợ và tham nhũng đang “hoành hành” ở các thể chế luật pháp và chính trị của Việt Nam. Sự chi phối của các doanh nghiệp nhà nước (SOE) trong nhiều lĩnh vực đang gây ra sự kém hiệu quả và cản trở sự đầu tư hiệu quả hơn. Do đó, cách dễ dàng nhất để tạo ra thêm công ăn việc làm là khuyến khích FDI lớn hơn bao giờ hết và, do tiền lương ở Việt Nam chỉ vào khoảng 1/3 mức tiền lương của các khu vực công nghiệp hóa của Trung Quốc và nhiều nhà đầu tư tỏ ra thận trọng về sự bất ổn ở Thái Lan và Malaysia, việc này có thể không phải là quá khó. Số lượng ngày càng tăng các hiệp định thương mại tự do khu vực, bao gồm Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) sẽ đặt ra cả thách thức lẫn cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam khi mà các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với thương mại được giảm bớt. Các cải cách trong nền kinh tế trong nước và cởi mở với can dự kinh tế mạnh mẽ hơn với bên ngoài sẽ khuyến khích đầu tư hướng nội, tạo ra công ăn việc làm và tăng trưởng xuất khẩu hơn nữa. Nhưng, đồng thời, các bước đi này cũng sẽ gây ra những thiệt hại cho các doanh nghiệp kém hiệu quả với những hậu quả không chắc chắn về kinh tế và chính trị, bao gồm cả việc có thể gây xói mòn địa vị lãnh đạo của đảng trong xã hội.

Các thách thức về an ninh

Bối cảnh an ninh khu vực trước mắt của Việt Nam dường như là khả quan. Nước này đã hòa bình với các láng giềng trong 25 năm hoặc hơn và ấn định tất cả đường biên giới trên bộ của mình. Hiện vẫn có các tranh chấp tiềm tàng với các nước khác có chung các vùng nước của sông Mekong (Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan và Campuchia) nhưng chúng được kiềm chế trên phương diện song phương hay bên trong các khuôn khổ của Ủy hội sông Mekong. Quan hệ với Campuchia bị trói buộc bởi sự thù hận lịch sử, bị phức tạp hóa bởi sự hiện diện của các nhóm thiểu số ở biên giới hai nước, và bị kích động bởi một tranh chấp biên giới trên biển gây phiền toái ở Vịnh Thái Lan. Tuy nhiên, bất chấp những điều này, Campuchia không tạo ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh của Việt Nam. Theo truyền thống, Việt Nam coi Lào là người được bảo hộ của nước này và bị kích động bởi ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở đó. Ở phía Nam và phía Đông, Việt Nam về mặt lý thuyết đang có tranh chấp với Philippines và Malaysia về tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc địa hình ở Biển Đông. Tuy nhiên, các tranh chấp này khó có khả năng trở thành đối đầu do mỗi nước đều có những bất đồng lớn hơn với Trung Quốc về các lãnh thổ đó.

Nghiêm trọng hơn nhiều là các bất đồng của Việt Nam với Trung Quốc. Các bất đồng này hiện nay tập trung vào các đảo và bãi đá ở Biển Đông: quần đảo Hoàng Sa ở phía Bắc – một tranh chấp song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc – và quần đảo Trường Sa ở phía Nam – tranh chấp toàn bộ hay một phần giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Brunei và Malaysia. Tuy nhiên, các bất đồng này đang trở nên sâu sắc hơn nhiều. Về phía Việt Nam, vấn đề Trung Quốc là một vấn đề liên quan đến sự tồn vong: một đất nước có tầm cỡ trung bình làm thế nào để duy trì bản sắc và sự độc lập của mình khi mà nước đông dân nhất thế giới ở ngay sát cạnh?

Cho đến nay, ĐCSVN có thể ưu tiên theo đuổi tăng trưởng kinh tế mà phần lớn không bị những mối đe dọa trực tiếp đối với lãnh thổ nước nhà của mình gây rắc rối. Mối đe dọa trước mắt mà đảng phải đối mặt là ở ngoài biển: nguy cơ đánh mất quyền kiểm soát các cấu trúc đảo ở Biển Đông và nguồn hải sản, dự trữ dầu lửa và các tuyến đường biển kèm theo đó. Chúng quan trọng về mặt kinh tế, đặc biệt là đối với các cộng đồng ven biển, nhưng không mang tính trọng yếu đối với sự tồn vong của Việt Nam: Trung Quốc không thể ngăn cản được tất cả hoạt động đánh bắt cá và khai thác dầu mỏ. Một nỗi lo sợ lớn hơn nhiều là việc đánh mất tính hợp pháp quốc gia mà sẽ bắt nguồn từ bất kỳ sự mất mát lãnh thổ nào ở ngoài biển. Vào tháng 5/2014, các cuộc biểu tình phản đối các hành động của Trung Quốc ở vùng biển này đã trở thành một “cây cột thu lôi” đối với nhiều nỗi bất bình xã hội khác, dẫn đến các cuộc tấn công nhằm vào nhiều doanh nghiệp nước ngoài.

Việt Nam đã tăng cường chi tiêu quốc phòng của nước này tới 60% từ năm 2010 đến năm 2014, tập trung vào việc tăng cường các khả năng trên biển của mình, bao gồm tàu ngầm, tàu chiến, máy bay chiến đấu, tên lửa và các hệ thống rađa. Tuy nhiên, các nhà phân tích chính sách đối ngoại của Việt Nam nhận thức rõ được tình trạng yếu kém của đất nước họ so với Trung Quốc.

Các thách thức ngoại giao

Cảm giác về mối đe dọa này, xuất phát từ sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông và khu vực nói chung, được nhiều láng giềng của Việt Nam cũng như các nước nằm bên ngoài khu vực lân cận của nước này chia sẻ. Điều này đã trở thành thách thức lẫn cơ hội đối với chính sách đối ngoại của nước này. Chiến lược của Hà Nội là đem lại cho nhiều nước nhất có thể một lợi ích trong sự độc lập tiếp tục của Việt Nam và, mở rộng hơn là, sự tồn tại của ĐCSVN. Vì mục đích này, Việt Nam đã ký kết các hiệp định đối tác với cả 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cùng với các nước khác bao gồm Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Đức, Italy, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Úc và Pháp. Quan hệ cấp cao nhất – “đối tác chiến lược toàn diện” – chỉ được ký kết với Trung Quốc và Nga. 12 nước khác có “quan hệ đối tác chiến lược” hạng trung với Việt Nam và hai nước – Úc và Mỹ chỉ có quan hệ “đối tác toàn diện”. Kể từ khi gia nhập vào năm 1995, tư cách thành viên ASEAN của Việt Nam đã trở thành cốt lõi của các can dự quốc tế của nước này.

Trong 20 năm qua, Việt Nam đã học được cách sử dụng ASEAN để tăng cường tiếng nói của mình đối với các vấn đề khu vực. ASEAN đem lại một khuôn khổ bổ trợ – thông qua các tiến trình ASEAN+3, Diễn đàn khu vực ASEAN và Hội nghị cấp cao Đông Á – để can dự với các cường quốc lớn hơn. Tuy nhiên, các nhà phân tích ở Hà Nội lưu ý hai vấn đề với ASEAN. Thứ nhất là thế hệ các nhà lãnh đạo chính trị hiện nay ở các nước Đông Nam Á khác dường như ít tận tâm hơn với ASEAN so với những người tiền nhiệm của họ và thứ hai là Việt Nam đang phải đối mặt với cuộc cạnh tranh giành ảnh hưởng bên trong ASEAN với Trung Quốc. Các nước “lục địa” (Myanmar, Lào, Campuchia và Thái Lan) nói chung ít quan tâm hơn về các vấn đề Biển Đông so với các nước “biển” (Việt Nam, Philippines, Indonesia, Singapore, Malaysia và Brunei). Họ cũng được hưởng lợi tương ứng nhiều hơn từ viện trợ và sự chú ý của Trung Quốc.

Sáu thành viên ban đầu của ASEAN (Brunei, Malaysia, Philippines, Indonesia, Singapore, và trong một chừng mực ít hơn, Thái Lan) từ lâu đã có những quan ngại về các hành động của Trung Quốc. Một trong số những lý do vì sao tư cách thành viên ASEAN của Việt Nam đã đạt được nhanh chóng vào năm 1995 là sự lo lắng về việc Trung Quốc chiếm giữ Đá Vành Khăn (Mischief Reef) vào năm trước đó. Điều này cũng đã biểu lộ rõ trong các nỗ lực của ASEAN nhằm thúc giục Trung Quốc đi đến nhất trí Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) vào năm 2002. Việt Nam hài lòng rằng tranh chấp quần đảo Trường Sa sau đó đã trở thành một vấn đề đối với ASEAN nói chung để thảo luận với Trung Quốc thay vì là một vấn đề chỉ đối với cá nhân các nước. Vào năm 2014, sau sự kiện Trung Quốc triển khai giàn khoan dầu Hải Dương-981, ASEAN, lần đầu tiên, đã đưa ra lập trường về tranh chấp quần đảo Hoàng Sa, mà không liên quan đến nước ASEAN nào ngoài Việt Nam. Việt Nam cũng đã vận động hành lang cho các thỏa thuận trên phạm vi toàn ASEAN với Trung Quốc để giảm bớt ảnh hưởng của siêu cường công nghiệp này đối với biên giới phía Bắc của mình. Cả tiến trình Khu vực thương mại tự do (FTA) Trung Quốc-ASEAN lẫn RCEP đều cho phép Việt Nam gia tăng ảnh hưởng thương lượng với Bắc Kinh về các vấn đề thương mại.

Trong ASEAN, Việt Nam có truyền thống coi Lào và Campuchia là vùng nội địa của mình. Từ những năm 1930 trở đi, ĐCSVN đã bảo trợ cho các đảng mà hiện nay đang điều hành cả hai nước (lần lượt là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Nhân dân Campuchia) và tiếp tục dành nhiều sự chú ý cho cả hai. Tuy nhiên, vị trí lãnh đạo của đảng này trong các hoạt động chính trị của các láng giềng của họ ngày càng bị Trung Quốc chiếm đoạt. Điều này đã được thể hiện tại hội nghị ngoại trưởng ASEAN ở Phnom Penh vào tháng 7/2012 khi chủ tọa của Campuchia dường như đã hành động như thể ông là một con rối của Bắc Kinh và ngăn chặn sự chỉ trích về các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Ở Campuchia, mối đe dọa đối với vị thế của Việt Nam bị làm phức tạp thêm bởi một xu hướng định kiến chống Việt Nam mạnh mẽ hiện nay mà do phe đối lập chính trị vận động. Đảng cứu nguy dân tộc (CNRP) của Campuchia đã ngầm kết hợp tình cảm chống “Yuôn” (từ dùng để gọi Việt Nam – ND) với sự oán giận chống lại sự ủng hộ mà ĐCSVN dành cho đảng CPP cầm quyền.

Chỉ có hai thay đổi chính trị mà sẽ đảm bảo một tình thế chiến lược được cải thiện cho giới lãnh đạo của Việt Nam. Một thay đổi sẽ là cam kết của giới lãnh đạo Trung Quốc đạt được thỏa hiệp có thể chấp nhận được lẫn nhau với Việt Nam về Biển Đông. Thay đổi còn lại sẽ là cam kết của Chính phủ Mỹ không gây phương hại cho sự cầm quyền của ĐCSVN. Thay đổi đầu tiên dường như không có khả năng xảy ra nhưng có sự chuyển biến nào đó tiến tới sự thay đổi thứ hai. Trừ hai diễn biến này, những khát khao chính của giới lãnh đạo là sự ổn định chính trị khu vực và tăng trưởng kinh tế toàn cầu đủ để tiếp tục đem lại FDI và tạo ra công ăn việc làm. Cuộc đấu tranh chính trị trước mắt về TPP có khả năng tạo ra một số cuộc tranh cãi tiềm tàng bên trong ĐCSVN và dẫn đến việc nhiều đối thủ nặng ký của đảng đọ sức với nhau.

Một vấn đề lớn mà Việt Nam đang phải đối mặt là liệu giới lãnh đạo trung ương của Trung Quốc có hiểu được rằng các hành động của nước này ở Biển Đông đe dọa đến sự tồn vong của một đối tác chủ chốt ở Việt Nam hay không và liệu rằng điều đó có đủ quan trọng đối với giới lãnh đạo Bắc Kinh để kiềm chế hành động của các cơ quan cấp dưới của mình hăng hái thúc đẩy các lợi ích của họ mà không có lợi cho các cơ quan của nhà nước trung ương hay không. Sự thừa nhận trong giới cầm quyền Trung Quốc rằng việc Bắc Kinh theo đuổi mạnh mẽ các tuyên bố chủ quyền trên biển đang làm suy yếu tính hợp pháp trong nước của ĐCSVN sẽ cải thiện tình thế chiến lược của Việt Nam rất nhiều. Nhưng giả sử không có sự thay đổi trong các hành động của Trung Quốc, Việt Nam sẽ nỗ lực xây dựng một liên minh ủng hộ không chính thức từ nhiều nước nhất có thể. Nước này sẽ hoan nghênh một cam kết to lớn hơn của các nước thành viên khác đối với sự thống nhất của ASEAN và sự chú ý nhiều hơn đối với khu vực này từ các cường quốc bên ngoài, đặc biệt là Mỹ, Nga, Ấn Độ và Nhật Bản. Điều này có vẻ như sắp xảy đến.

Các triển vọng

Sự chú ý gần đây nhất vào Việt Nam tập trung vào các tranh chấp ở Biển Đông. ĐCSVN coi chúng phần nào là một sự xao nhãng không được hoan nghênh khỏi mục đích chính của họ là phát triển đất nước và bảo vệ vị thế của mình; phần nào là một mối đe dọa, bởi khả năng chúng gây ra sự phản kháng theo chủ nghĩa dân tộc; nhưng phần nào cũng là một cơ hội để sử dụng tác động đòn bẩy với các nước khác lo ngại về tham vọng của Trung Quốc. Chúng cũng là một cơ hội để Việt Nam biến nỗi lo ngại của Mỹ về sự trỗi dậy của Trung Quốc thành sức ép giảm bớt đối với Việt Nam phải làm theo những sự kỳ vọng của Mỹ về nhân quyền. Điều này sẽ góp phần làm giảm bớt nỗi lo sợ của ĐCSVN về “diễn biến hòa bình” do Mỹ bảo trợ.

Là những người theo chủ nghĩa Mác, ĐCSVN hiểu rõ tầm quan trọng của một nền tảng kinh tế vững chãi. Dưới sự quản lý của đảng, nền kinh tế đang đem lại cả các tiêu chuẩn sống lẫn các nguồn tài chính ngày càng tăng để tăng cường các khả năng quân sự, nhưng với một tốc độ chậm hơn so với tốc độ tối ưu. Các hiệp định thương mại mới có thể khuyến khích một sự bứt phá về tăng trưởng kinh tế. Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được chờ đợi sẽ trở thành hiện thực vào cuối năm 2015, và trong khi các tác động của nó có thể không được cảm nhận đầy đủ trong một vài năm, nó sẽ làm sâu sắc thêm sự hợp tác trong khu vực Đông Nam Á. Vào tháng 8/2015, Việt Nam đã ký kết một hiệp định thương mại tự do với đối tác thương mại lớn thứ hai của nước này, Liên minh châu Âu (EU). Đây là hiệp định thương mại tự do có ảnh hưởng sâu rộng nhất cho đến nay mà Việt Nam ký kết và sẽ làm sâu sắc hơn nữa các mối quan hệ với các đối tác châu Âu. Nếu được ký kết thành công, TPP sẽ đem lại cho Việt Nam quyền tiếp cận thuế quan thấp với gần 40% nền kinh tế thế giới, thúc đẩy GDP của nước này tới 35% trong vòng 10 năm, và liên kết nền kinh tế của Việt Nam chặt chẽ hơn nữa với nền kinh tế của Mỹ và Nhật Bản. (còn tiếp)

2. Các mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc

Các mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc là vô cùng phức tạp. Trung Quốc nổi bật lên trong hình dung của Việt Nam là một mối đe dọa không ngừng. Các mối quan hệ giữa hai nước tiếp tục phản ánh sự không chắc chắn ở cả cấp lãnh đạo lẫn nhân dân về việc liệu Bắc Kinh là đối tác hay đối thủ. Chúng được “thêm gia vị” bởi vai trò văn hóa của Trung Quốc trong hình dung của người Việt Nam – là một “thứ ngoại lai” không thể nhân nhượng mà phải đấu tranh chống lại để Việt Nam tồn tại. Nhiều người biết đến cách Brantly Womack mô tả đặc điểm của mối quan hệ hai nước là “hoạt động chính trị không cân xứng” và lập luận rằng nó sẽ tồn tại thông qua việc sử dụng khéo léo đồng thời hai “tiểu xảo”: vô hiệu hóa các tranh chấp và nghi thức hóa các mối quan hệ.

Như cuốn sách gần đây của David Elliott, Những Thế giới Đang Thay đổi, nói rõ, định hướng chính sách đối ngoại cơ bản của Việt Nam là thân với Trung Quốc kể từ sau khi nước này ngừng kết thân với Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xôviết (USSR) vào năm 1991. Việc mở rộng các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam và, đặc biệt là, việc nước này dần dần can dự với Mỹ đã chỉ diễn ra vì, trong các cuộc khủng hoảng liên tiếp, lập trường thân Trung Quốc đã trở nên không đứng vững được và các nhà cải cách bên trong Đảng Cộng sản Việt Nam có khả năng thuyết phục được đại đa số rằng không thay đổi được tiến trình sẽ đe dọa đến khả năng cầm quyền của Đảng. Như vậy, câu hỏi lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải đối mặt trong tương lai là: Họ sẽ cân bằng như thế nào mong muốn tiếp tục các mối quan hệ kinh tế và chính trị mạnh mẽ với Trung Quốc trong khi vẫn duy trì sự độc lập, chống lại những động thái thù địch và kiểm soát được những tình cảm bài Trung Quốc ngày càng lớn trong Đảng và dân chúng?

Tóm tắt lịch sử

Toàn bộ lịch sử mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc được chính trị hóa ở mức cao và được xây dựng dựa trên câu chuyện khó tin. Hiểu biết thông thường ở Việt Nam là hai nước luôn có những bản sắc riêng biệt, bắt nguồn từ thời Hùng Vương mang tính chất nửa thần thoại vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên, và rằng Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng và đô hộ cho tới khi được giải phóng bởi nhà yêu nước Ngô Quyền vào năm 938 sau Công nguyên. Bất chấp nhiều bằng chứng về những sự tương đồng giữa hai nền văn hóa, Việt Nam hiện đại gần như xác định rõ bản sắc của họ khác với bản sắc của Trung Quốc.

Sau cuộc cách mạng năm 1949 ở Trung Quốc, các ban lãnh đạo Cộng sản ở cả hai bên biên giới đều tìm thấy sự nghiệp chung. Womack đã miêu tả sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam là “cam kết chính sách đối ngoại bền bỉ quan trọng nhất của nước này từ năm 1952 đến năm 1975”. Nhà sử học Liam Kelly đã gợi nhớ cho chúng ta rằng trong những năm 1950, việc những người có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa của Việt Nam ca ngợi Trung Quốc là điều thông thường. Chính quyền Sài Gòn đã tìm cách làm mất uy tín của giới chức trách Hà Nội bằng cách chỉ ra sự liên hệ giữa Hà Nội với Trung Quốc. Hà Nội đã đáp trả bằng cách bảo vệ sự ủng hộ của Trung Quốc đối với chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam và đối chiếu nó với sự phụ thuộc của Sài Gòn vào Pháp và Mỹ.

Nhà khoa học chính trị Kosal Path đã lập luận rằng câu chuyện kể bài Trung Quốc “ở miền Bắc” chỉ bắt đầu từ khoảng năm 1965, khi các trí thức Việt Nam ở Bắc Việt Nam bắt đầu viết về “lịch sử Việt Nam chống lại sự xâm lược của Trung Quốc”. Theo Path, thay đổi này bất ngờ diễn ra do những quan ngại ở Bắc Việt Nam rằng chủ nghĩa cực đoan được đưa ra trong Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc có thể được áp dụng ở Hà Nội. Nhằm ngăn chặn một khả năng như vậy, họ bắt đầu khuyến khích tình cảm bài Trung Quốc tại miền Bắc ở một mức nào đó, mặc dù không đến mức trở nên bình thường như ở miền Nam. Ngay cả trước khi Sài Gòn sụp đổ vào tháng 4/1975, các ban lãnh đạo Đảng Cộng sản ở Bắc Kinh và Hà Nội đã bắt đầu bất hòa. Sau khi Bắc Kinh mở cửa tiếp xúc với Mỹ vào năm 1972, và điều trở nên rõ ràng là Hà Nội sẽ giành chiến thắng cuộc chiến tranh, thì sự ủng hộ của Trung Quốc cho cuộc chiến này dần yếu đi và họ bắt đầu phản đối việc Việt Nam thống nhất. Để đối phó, Hà Nội bắt đầu chuyển sang nghe theo Moskva. Ban lãnh đạo Việt Nam, sau chiến tranh, đã chọc tức Bắc Kinh – chiếm giữ một vài trong số các đảo ở Trường Sa, phân biệt đối xử các thành viên của nhóm thiểu số người Hoa và, vào tháng 6/1978, gia nhập khối COMECON (Hội đồng tương trợ kinh tế) do Moskva dẫn dắt.

Tháng 12/1978, nhằm đáp trả các cuộc tấn công liên tiếp từ Campuchia do Khmer Đỏ cai trị, Việt Nam đã đem quân và lật đổ chính phủ nước này. Khmer Đỏ trên thực tế là “chư hầu” của Trung Quốc và, vào tháng 2/1979, Trung Quốc – với sự ủng hộ về chính trị và hỗ trợ về tình báo từ Mỹ – đã xâm lược Việt Nam để “dạy cho nước này một bài học”. Binh lính Trung Quốc bị đánh tơi bời nhưng đã gây ra tổn thất nặng nề ở khu vực biên giới. Trong suốt những năm 1980, Việt Nam tham gia cuộc chiến chống nổi loạn ở Campuchia và một cuộc chiến tiêu hao sinh lực về vấn đề biên giới của mình với Trung Quốc. Hai cuộc chiến này đã gây ra tác động tai hại tới ngân sách nhà nước và mối quan hệ của Việt Nam với phần còn lại của Đông Nam Á. Nước này chỉ sống sót bằng sự hỗ trợ từ COMECON.

Chỉ tới sau khi chính sách đối ngoại của Xôviết được định hướng lại, từ bài phát biểu tại Vladivostok của Mikhail Gorbachev vào tháng 7 năm 1986, qua việc nối lại tình hữu nghị giữa Moskva và Bắc Kinh, và lên đến đỉnh điểm là sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản Xôviết, thì Việt Nam mới buộc phải điều chỉnh quan điểm của chính họ. Điều này đã dẫn tới những chia rẽ sâu sắc bên trong ban lãnh đạo Việt Nam.

Sự hòa giải diễn ra trong suốt những năm 1990, khi cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều theo đuổi các chính sách láng giềng hữu hảo ở khu vực. Sau Đại hội Đảng lần thứ 8 vào năm 1996, ban lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm cách tăng cường lập trường “cộng sản” bên trong Việt Nam với một sự chuyển hướng về hệ tư tưởng sang Trung Quốc, nhưng điều này đã bị ban lãnh đạo Bắc Kinh khước từ, một ban lãnh đạo không có mong muốn tham gia Chiến tranh Lạnh một lần nữa. Thay vào đó, vào tháng 3/1999, Tổng Bí thư hai đảng, Giang Trạch Dân và Lê Khả Phiêu, nhất trí “Phương châm 16 chữ vàng” cho mối quan hệ giữa hai nước: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Trong cùng thời kỳ đó, thương mại song phương bùng nổ - từ chỉ có 30 triệu USD năm 1991 lên khoảng 2,5 tỷ USD vào năm 2001. Hai bên đã ký kết một thỏa thuận về biên giới đất liền năm 1999, chính thức kết thúc vấn đề của cuộc chiến tranh năm 1979, và về ranh giới biển của họ ở Vịnh Bắc Bộ vào năm 2000. Từ đó trở đi, những tuyên bố công khai về mối quan hệ hữu hảo đã trở nên ngày càng “phong phú” hơn, lên đến đỉnh điểm với tuyên bố năm 2009 của họ về “mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” – cấp cao nhất mà Việt Nam nâng cấp mối quan hệ ngoại giao của họ.

Các mối quan hệ hiện đại

Quan hệ kinh tế

Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, với việc mối quan hệ này vô cùng có lợi cho Trung Quốc. Trong suốt giai đoạn 2001-2014, thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng từ 200 triệu USD lên ít nhất 28 tỷ USD.

Có hai thành phần chính cho thặng dư thương mại của Trung Quốc: xuất khẩu đơn thuần của các nhà sản xuất Trung Quốc – thường được đặt cơ sở tại các tỉnh Tây Nam – cho người tiêu dùng Việt Nam, và việc chuyển giao trong nội bộ công ty nguyên liệu thô và các linh kiện của những công ty đa quốc gia có hoạt động ở cả hai nước nhằm mục đích lắp ráp tại Việt Nam và sau đó hướng tới xuất khẩu. Trong trường hợp sau, thâm hụt được bù đắp bởi thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và ASEAN. Trường hợp đầu là đối tượng gây ra mối quan ngại quốc gia.

Việt Nam đã thử một vài sách lược nhằm bù đắp thâm hụt. Nỗ lực ban đầu là nhằm thúc đẩy xuất khẩu thông qua hội nhập kinh tế bên trong ASEAN, phát triển các mối quan hệ thương mại với Mỹ và EU, và gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) vào năm 2007. Mặc dù mỗi một sách lược đều tương đối thành công, nhưng không có cái nào giải quyết được vấn đề cốt lõi. Kết quả là, đặc biệt sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã quyết định khuyến khích Trung Quốc đầu tư vào với hy vọng rằng các nhà sản xuất sẽ làm ra sản phẩm ở Việt Nam chứ không phải ở Trung Quốc. Chính sách này cũng đã đạt được thành công nào đó. Năm 2011, tổng FDI của Trung Quốc ở Việt Nam lần đầu tiên vượt qua mức 3 tỷ USD. Điều này là đáng kể trong điều kiện song phương, mặc dù chỉ bằng 1/10 đầu tư tích lũy từ EU và một phần thậm chí còn nhỏ hơn trong tổng FDI của Mỹ.

Vấn đề đối với Đảng Cộng sản Việt Nam là ngay cả khoản đầu tư khiêm tốn này cũng khơi dậy mối quan ngại về việc các công ty Trung Quốc sẽ chiếm chỗ các công ty địa phương, nhập khẩu số lượng lớn lao động Trung Quốc, và đe dọa đến chủ quyền quốc gia – đặc biệt là tại những khu vực “nhạy cảm” như Tây Nguyên. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, có sự lúng túng đáng kể trong số các cơ quan nhà nước khác nhau về việc có bao nhiêu người lao động Trung Quốc đang có mặt ở nước này và họ có vị thế gì. Cũng có những sự lo lắng về chất lượng công trình do các công ty Trung Quốc thực hiện, thường được phương tiện truyền thông Việt Nam nêu bật – chẳng hạn một loạt sự cố an toàn trong quá trình xây dựng hệ thống đường sắt trên cao mới của Hà Nội, bị Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đinh La Thăng gọi là dự án “tồi tệ nhất” ở Việt Nam.

Tuy nhiên, đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam đã tạo ra một nhóm vận động hành lang bên trong Trung Quốc vì sự ổn định trong các mối quan hệ song phương. Điều này rõ ràng được nhận thấy trong cuộc đối đầu giàn khoan dầu năm 2014 khi có tin rằng một số nhóm lợi ích ngành dệt may Trung Quốc đã vận động hành lang ủng hộ một cách giải quyết kín đáo cuộc tranh chấp nhằm tránh sự rối loạn hoặc tổn hại đối với các lợi ích kinh doanh của họ.

Trung Quốc cung cấp các khoản vay ưu đãi và tín dụng người mua cho Việt Nam, nhưng số lượng và kỳ hạn được giữ bí mật. Có thể giả định rằng tổng số tiền là đáng kể. Một nghiên cứu năm 2013 của Lê Hồng Hiệp phát hiện ra rằng các công ty xây dựng của Trung Quốc, vào cuối năm 2009, tham gia các dự án trị giá 15,4 tỷ USD, biến Việt Nam trở thành thị trường kỹ thuật công trình, mua bán và xây dựng lớn nhất của họ ở Đông Nam Á.

Hợp tác giữa quân đội hai nước

Các mối quan hệ quân sự thân thiện giữa hai nước cần có thời gian để thiết lập và đã đạt tiến bộ một cách chậm chạp. Đã có khoảng thời gian 10 năm giữa việc bình thường hóa quan hệ Trung-Việt vào năm 1991 và chuyến thăm hải quân đầu tiên giữa hai nước. Cho đến tận tháng 11/2001 thì Du Lâm (khinh hạm tên lửa điều khiển lớp Giang Vỹ II) mới neo đậu tại Cảng Nhà Rồng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Phải mất thêm 7 năm nữa mới có chuyến thăm thứ hai, vào tháng 11/2008.

Một thỏa thuận vào tháng 10/2005 đã tạo dựng cơ sở cho các cuộc tuần tra hải quân chung ở Vịnh Bắc Bộ. Cuộc tuần tra đầu tiên trong số này đã diễn ra vào tháng 4/2006 và chúng được lặp lại khoảng mỗi 6 tháng một lần kể từ đó. Vào lúc kết thúc một trong những cuộc tuần tra này, tháng 6/2009, hai tàu của Việt Nam đã có chuyến thăm chưa từng có của Hải quân Việt Nam tới một cảng của Trung Quốc – tại sở chỉ huy của Hạm đội Nam Hải ở trạm Giang. Các cuộc tuần tra tiếp tục lại sau cuộc đối đầu giàn khoan dầu năm 2014 bằng một cuộc tuần tra diễn ra vào tháng 12/2014 và một cuộc tuần tra khác vào tháng 6/2015.

Kể từ khi bắt đầu vào năm 2006, Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Trung-Việt gồm có các quan chức quân đội. Các bên tham gia thuộc quân đội ban đầu là từ các cơ cấu của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, vào tháng 11/2010, Việt Nam và Trung Quốc đã tổ chức Đối thoại an ninh và quốc phòng chiến lược lần đầu tiên, và kể từ đó đã tổ chức cuộc họp vào năm 2011, 2012, 2013 và năm 2015. Đối thoại này có liên quan đến các quan chức quân đội cấp cao từ cả hai phía. Tại cuộc họp năm 2013 tại Bắc Kinh, cả hai bên đã tuyên bố thiết lập một đường dây nóng trực tiếp kết nối bộ quốc phòng hai nước. Đối thoại này đã không được tổ chức vào năm 2014, nhưng được tiếp tục lại vào tháng 8/2015. Trong cuộc họp đó, cả hai bên gặp gỡ tại Hà Nội với Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam và Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc Tôn Kiến Quốc dẫn đầu đoàn đại biểu Trung Quốc. Đáng chú ý là, Việt Nam đã coi các cuộc đối thoại chính thức của mình với Trung Quốc và Mỹ là như nhau – tiến hành “đối thoại quốc phòng” với cả hai nước trong năm 2004-2005 và sau đó là “đối thoại chiến lược” với cả hai nước trong năm 2010.

Việt Nam cũng đã can dự với quân đội Trung Quốc thông qua các cơ cấu của ASEAN. Tháng 7/2006, Trung Quốc đã mời các đại diện của bộ quốc phòng các nước ASEAN đến dự hội thảo tại Bắc Kinh về an ninh khu vực. Năm 2010, ASEAN đã mời Trung Quốc, cùng với Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Nga, Hàn Quốc và Mỹ tham gia Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng Mở rộng (ADMM+). Sứ mệnh của việc nhóm họp này chắc chắn nằm ở phân lớp “mềm” hơn của phương diện an ninh: an ninh hàng hải, chống khủng bố, giúp đỡ nhân đạo và xử lý thảm họa, các hoạt động gìn giữ hòa bình và quân y.

Vào tháng 12/2012, một đoạn video về cuộc trò chuyện của một chính ủy cấp cao trong quân đội đã được đăng tải trên YouTube, đưa ra quan điểm “có một không hai” trong tư duy chính thức về mối quan hệ Trung-Việt. Diễn giả là Đại tá Trần Đăng Thanh, giảng viên về vấn đề Biển Đông tại Học viện Chính trị thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, và đó là cuộc trò chuyện với các đảng viên Đảng Cộng sản, những người là các nhà quản lý cấp cao tại các trường đại học ở Hà Nội. Ông đưa ra lý lẽ rõ ràng cho việc không gây hiềm khích với Trung Quốc – ông lưu ý rằng “họ” có 1,3 tỷ người còn “chúng ta” chỉ có 90 triệu.

Ông tiếp tục: “Trong khi chúng ta không bao giờ được quên rằng họ đã xâm lược chúng ta hết lần này đến lần khác, chúng ta dường như không được vô ơn” trước những hy sinh to lớn của Trung Quốc đối với Việt Nam trong những thời điểm gần đây. Ông quy trách nhiệm những hành động gần đây của Trung Quốc cho di sản về “khát vọng cháy bỏng” làm chủ Biển Đông của Đặng Tiểu Bình, cho nhu cầu của Trung Quốc về phòng thủ biển và cho sức hấp dẫn của dầu mỏ và khí đốt. Ông nói, nhiệm vụ hiện nay của Việt Nam là gìn giữ sự độc lập của mình nhưng cũng phải duy trì hòa bình và ổn định. Ông lập luận rằng cách duy nhất để làm vậy là tránh đối đầu và duy trì những tình cảm đoàn kết giữa dân tộc Việt Nam và dân tộc Trung Hoa.

Nghiên cứu tình huống

Kể từ khi khôi phục mối tiếp xúc vào năm 1990, quan hệ Trung-Việt đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng. Trong mỗi một sự kiện, ban lãnh đạo hai nước đã triển khai thành công những chiến lược mà Womack đã miêu tả: vô hiệu hóa các cuộc tranh chấp và nghi thức hóa các mối quan hệ. Tuy nhiên, quyền tiếp cận gia tăng với thông tin độc lập đi kèm với sự tự do hóa kinh tế và xã hội của Việt Nam đã khiến cho việc xử lý cuộc khủng hoảng trở nên khó khăn hơn nhiều. Điều này là rõ ràng dựa vào sự đánh giá lại một số vấn đề gây tranh cãi nhiều hơn.

Phân định biên giới trên bộ và ranh giới trên biển

Sau khi bình thường hóa vào năm 1991, hai nước đã nhất trí dàn xếp biên giới trên bộ vào cuối thập kỷ. Các quan chức hai nước đã hoàn thành trước thời hạn 1 ngày: hiệp ước được ký kết vào ngày 30/12/1999. Giai đoạn đàm phán được đánh dấu bằng nhiều sự cố mà lẽ ra đã có thể phá hoại tiến trình này. Năm 1992, Trung Quốc công bố Luật lãnh hải mới chính thức hóa tuyên bố chủ quyền của nước này đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, năm 1994, nước này tạo điều kiện cho việc khảo sát dầu ở khu vực ngoài khơi phía Đông Nam Việt Nam, và vào năm 1997 Trung Quốc cho phép một giàn khoan dầu tiến vào khu vực tranh chấp ở phía Nam Vịnh Bắc Bộ. Tới cuối thập kỷ này cũng đã có những căng thẳng về biên giới trên bộ. Đó là một dấu hiệu cho thấy phía Việt Nam kiên quyết như thế nào để đạt được một giải pháp mà những tranh chấp bị “vô hiệu hóa” bằng cách kiềm chế chúng trong các kênh đối thoại cụ thể. Đây là một thời kỳ mà trong đó các chính phủ có khả năng kiểm soát thông tin dễ dàng hơn và các cuộc đàm phán được tiếp tục mà không bị gián đoạn do các cuộc phản kháng của nhân dân.

Sự dàn xếp cuối cùng được cho là công bằng, với việc Việt Nam được trao cho 113 km2 của vùng lãnh thổ bị tranh chấp và Trung Quốc được 114 km2. Quá trình thực tế phân giới cắm mốc đường biên giới dài 1.300 km mất nhiều thời gian hơn, với cột mốc cuối cùng được cắm vào năm 2008.

Các cuộc đàm phán về một hiệp ước ranh giới trên biển ở Vịnh Bắc Bộ đã tăng tốc với việc kết thúc các cuộc thảo luận về biên giới trên bộ. Chúng đòi hỏi phải có sự khéo léo về chính trị và pháp lý để hoàn thành. Khó khăn chủ yếu là tình trạng của hòn đảo nhỏ Bạch Long Vĩ. Cuối cùng, Trung Quốc thừa nhận rằng hòn đảo đó có người sinh sống và, trong khu vực này, đường biên giới được điều chỉnh có lợi cho Việt Nam, nhưng không nhiều: khoảng 25% khoảng cách giữa nó với đảo Hải Nam của Trung Quốc. Việt Nam nhận được 53% vùng biển của Vịnh Bắc Bộ và Trung Quốc là 47%. Tuy nhiên, Việt Nam lựa chọn đánh dấu đường cơ sở dọc theo bờ biển của mình chứ không từ các đảo dọc theo bờ biển. Ở khu vực phía Nam, đường phân ranh giới chạy gần với bờ biển Việt Nam hơn so với cần thiết. Hai thước đo này trao cho Trung Quốc một phần Vịnh Bắc Bộ lớn hơn so với Việt Nam có thể có được khi tình huống này được đưa ra tòa trọng tài quốc tế. Cả hai bên thể trình bày kết quả này là công bằng, nhưng chi tiết cho thấy rằng đây là một ví dụ khác về việc Việt Nam “chiều theo ý” Trung Quốc, dù là theo cách tương đối nhỏ, vì lợi ích của việc đạt được thỏa thuận. Đồng thời, người ta nhất trí với những dàn xếp nhằm phân chia các khu vực đánh cá – với những dàn xếp chuyển tiếp kéo dài 15 năm cho phép các tàu từ cả hai nước được hoạt động trong một vùng chồng lấn. Hai thỏa thuận riêng biệt nhưng có liên quan đã được ký kết vào ngày 25/12/2000: Hiệp định Phân định ranh giới biển, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và Hiệp định hợp tác nghề cá.

Nhìn lại, dường như việc hai bên đã đạt được các thỏa thuận trong năm 2000 là để cho kịp thời hạn được các ban lãnh đạo chính trị đặt ra; một số vấn đề khó khăn đã được để lại để đàm phán thêm. Mãi cho đến tận tháng 4/2004 thì họ mới có thể nhất trí về một nghị định thư bổ sung để giải quyết những vấn đề này. Giải pháp xác định 3 khu vực đặc biệt của Vịnh Bắc Bộ với những dàn xếp khác nhau: một khu vực đánh cá chung, khu vực dàn xếp chuyển tiếp và một khu vực đệm cho các tàu nhỏ.

Những dàn xếp này vẫn tiếp tục bất chấp việc 8 ngư dân Việt Nam bị bắn chết tại Vịnh Bắc Bộ vào tháng 1/2005. Phản ứng của các ban lãnh đạo trước sự cố đó không phải là đối đầu mà là “vô hiệu hóa” nó thông qua hợp tác thân thiết hơn. Một thỏa thuận vào tháng 10/2005 tạo ra nền móng cho các cuộc tuần tra hải quân chung ở Vịnh Bắc Bộ. Tiếp sau đó một tháng là thỏa thuận giữa Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) và Tổng công ty dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) để tiến hành cùng thăm dò dầu mỏ và khí đốt ở Vịnh Bắc Bộ. Hải quân hai nước đã thực hiện cuộc tuần tra chung đầu tiên của họ ở các vùng biển vào tháng 4/2006 và kể từ đó đã lặp lại hoạt động này cứ 6 tháng một lần. Bất chấp tất cả những khó khăn khác trong mối quan hệ này, Vịnh Bắc Bộ vẫn ổn định: những sự cố được ghi chép lại về các vụ đụng độ giữa các đoàn đánh cá, từng phổ biến một thời, đã biến mất – mặc dù tin tức về những sự cố như vậy có thể bị giữ kín vì những lý do ngoại giao. Tuy nhiên, tranh cãi có thể lại xuất hiện ở Vịnh Bắc Bộ sau năm 2019, một khi những dàn xếp chuyển tiếp cuối cùng cũng hết hạn và việc kiếm sống bằng đánh bắt cá bị ảnh hưởng.

Cuộc đối đầu giàn khoan dầu năm 2014

Đầu tháng 5/2014, một đội tàu có tổ chức chặt chẽ gồm các tàu từ ngành công nghiệp dầu mỏ, cảnh sát biển, hải quân, ngành đánh bắt cá và giới chức trách khác của Trung Quốc đã hộ tống giàn khoan dầu nước sâu đầu tiên của nước này (Hải Dương-981) vào trong vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa mà cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền. Điều này đã gây ra phản ứng tức thì từ cảnh sát biển Việt Nam, lực lượng tìm cách chặn đường tiến của giàn khoan này. Việt Nam công khai điều đã diễn ra, gây ra các cuộc phản kháng đường phố nhằm vào Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội và lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Những cuộc phản kháng này là ngòi nổ cho các cuộc bạo động ở một số khu công nghiệp mà dường như đối với người ngoài cuộc thì mang tính “bài Trung Quốc” nhưng nhiều khả năng lại bị kích động bởi sự bất bình ở nơi làm việc. Phần lớn các nhà máy bị nhắm mục tiêu đều thuộc sở hữu của các công ty Hàn Quốc hoặc các công ty khác không phải của Trung Quốc. Một số báo cáo cho rằng sự bạo lực này một phần là do các băng nhóm tội phạm tổ chức. Giới chức trách đã triển khai các lực lượng an ninh với số lượng lớn nhằm ngăn chặn các đám đông tuần hành tại Thành phố Hồ Chí Minh – có tin các đơn vị thiết giáp đã được triển khai trên các cầu dẫn vào thành phố. Các cuộc phản kháng cũng châm ngòi cho hành động bạo lực nhằm vào công nhân người Trung Quốc và Đài Loan đang xây dựng Tổ hợp thép Formosa tại Hà Tĩnh ở miền Trung Việt Nam. Ít nhất 3 công nhân nước ngoài đã thiệt mạng ở đó.

Tất cả điều này đã diễn ra trong suốt một hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hà Nội, kéo dài từ ngày 8 đến ngày 14/5. Hội nghị đã quyết tâm không làm gì ngoài việc giám sát chặt chẽ tình hình trên biển và tìm kiếm giải pháp hòa bình. Tuy nhiên, tình trạng đối đầu tiếp tục, với việc Việt Nam tạo điều kiện cho truyền thông quốc tế đưa tin về các hành động kháng cự của cảnh sát biển nước này và huy động sự ủng hộ ngoại giao. Vào ngày 10/5, nước này thuyết phục ASEAN đưa ra một tuyên bố chính thức, “thúc giục tất cả các bên… hành xử kiềm chế”. Đây là lần đầu tiên ASEAN đưa ra một quan điểm về quần đảo Hoàng Sa – một cuộc tranh chấp thuần túy giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Các báo cáo cho thấy rằng Hà Nội đã có nhiều nỗ lực mở liên lạc với Bắc Kinh nhưng đều thất bại. Thay vào đó nước này dường như đã quay sang Mỹ. Ngày 20/5, họ tuyên bố sẽ tham gia Sáng kiến an ninh không phổ biến vũ khí hủy diệt do Mỹ bảo trợ, điều mà nước này cùng với Trung Quốc đã phản đối trước đây. Đây là một đề nghị có từ lâu của Mỹ, vì vậy việc xác định thời điểm cho thấy sự chấp thuận của Việt Nam là sự mở cửa có chủ tâm đối với Mỹ. Tuy nhiên, đồng thời, Việt Nam đã khước từ lời mời Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh tới thăm Washington. Có vẻ điều này sẽ là một bước đi quá xa, dường như lôi kéo Mỹ vào cuộc tranh chấp với Trung Quốc. Tại Đối thoại Shangri-La vào cuối tháng 5, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã tìm cách làm giảm bớt tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng, miêu tả Trung Quốc là “láng giềng thân thiết” và kêu gọi giải pháp hòa bình cho cuộc đối đầu.

Ngày 18/6, Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì tới thăm Hà Nội dưới danh nghĩa cuộc gặp gỡ hàng năm được lên kế hoạch từ lâu của Ủy ban chỉ đạo hợp pháp song phương. Các bình luận công khai của ông chỉ trích Việt Nam vì hành vi của nước này trong cuộc đối đầu, nhưng người ta tin rằng các cuộc thảo luận kín với ông Phạm Bình Minh và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đánh dấu việc hai bên bắt đầu xuống thang căng thẳng.

Đầu tháng 7, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam nghe nói đã bỏ phiếu áp đảo nhằm tổ chức một cuộc họp của Ban chấp hành Trung ương tán thành hành động pháp lý quốc tế chống lại Trung Quốc. Không rõ là liệu điều này có nghĩa là cùng tham gia vụ kiện đang diễn ra của Philippines tại Tòa trọng tài Thường trực hay là hành động độc lập. Một bản kiến nghị đã lan truyền rộng rãi trong một số nhà trí thức nổi trội kêu gọi Việt Nam hãy “thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc”. Tuy nhiên, ngày 15/7, Trung Quốc đưa cuộc khủng hoảng tới kết thúc nhanh chóng bằng cách tuyên bố rút giàn khoan sớm 1 tháng so với kế hoạch. Lời giải thích được đưa ra là do siêu bão Rammasun sắp đổ bộ.

Vào cuối tháng 7, Ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị đã có chuyến thăm gây chú ý tới Mỹ theo lời mời của Bộ Ngoại giao Mỹ. Chuyến thăm này khác thường vì 2 lý do. Phạm Quang Nghị không phải là một chuyên gia về các vấn đề đối ngoại; ông là Bí thư thành ủy Hà Nội. Thứ hai, điều khác thường là Việt Nam lại cử một quan chức cấp cao tới thăm Mỹ mà không mở đầu bằng một chuyến thăm tới Trung Quốc. Chuyến thăm Mỹ của ông Phạm Quang Nghị đã diễn ra mà không có bất kỳ “sự tôn kính” nào đối với Bắc Kinh. Ban lãnh đạo Hà Nội có vẻ như sử dụng chuyến thăm này làm một dấu hiệu cảnh báo tới Bắc Kinh rằng họ có cơ hội theo đuổi các mối quan hệ thân thiết hơn với Washington nếu nước này lựa chọn làm vậy. Điều này được củng cố bằng lời mời Tướng Martin Dempsey. Ngày 14/8, ông đã trở thành Chủ tịch đầu tiên cho đến nay của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ đến thăm Hà Nội.

Tuy nhiên, bằng cách không cử bộ trưởng ngoại giao tới Washington và quyết định không có hành động pháp lý chống lại Trung Quốc, có vẻ như ban lãnh đạo Việt Nam đã chọn cách xuống thang một cách chủ tâm – “kiềm chế” – tình hình. Bắc Kinh có vẻ đã nhận ra thông điệp này và cân nhắc lại những hậu quả của cuộc đối đầu mà họ đã khởi xướng. Ngày 27/8, nước này đón đặc phái viên của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc phái viên đó là Lê Hồng Anh, cựu Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam, Thường trực Ban bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và là một ủy viên Bộ Chính trị. Đó là một sự quay trở lại thông tin liên lạc được chính thức hóa.

Điều này báo hiệu một sự chấm dứt với cuộc khủng hoảng, điều được khẳng định hai tháng sau đó khi Việt Nam cử phái đoàn quân đội quan trọng nhất từ trước đến nay tới thăm Bắc Kinh, từ ngày 16 đến ngày 18/10. Nó đề xuất rằng “quân đội hai nước cần phải bình tĩnh, kiên nhẫn, tỏ rõ kiềm chế và kiểm soát nghiêm ngặt các hoạt động trên biển nhằm tránh những sự hiểu lầm”. Ngày 16/10, Thủ tướng Trung Quốc và Việt Nam đã gặp gỡ bên lề Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu tại Milan. Vào cuối tháng đó – 27/10 – Hà Nội tổ chức phiên họp lần thứ bảy của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương của hai nước với việc Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì và Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh tiếp tục lại các cuộc thảo luận của họ. Mối quan hệ có vẻ đã quay trở lại bình thường, ít nhất là về công khai.

Điều đáng kể là, ngay sau các cuộc gặp gỡ nhà nước với nhà nước vào tháng 10/2014, hai đảng cộng sản đã tổ chức “hội thảo lý luận” lần thứ 10 tại khu nghỉ dưỡng Đà Lạt ở vùng cao nguyên của Việt Nam, nhằm chia sẻ “những kinh nghiệm trong việc xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa dưới sự cai trị của pháp luật”. Các ủy viên Bộ Chính trị chịu trách nhiệm về hệ tư tưởng và tuyên truyền dẫn đầu đoàn đại biểu của mỗi bên: Lưu Kỳ Bảo ở phía Trung Quốc và Đinh Thế Huynh ở phía Việt Nam. Điều này cho thấy rằng một động cơ quan trọng của hội thảo là tìm ra các biện pháp nhằm “xử lý” công luận xung quanh các cuộc tranh chấp ở Biển Đông.

Tuy nhiên, sự bất đồng quan điểm đã xuất hiện trong dân chúng, và một sự đánh giá lại căn bản đường hướng chiến lược của Việt Nam đã bắt đầu. Và tất cả là do lỗi của Bắc Kinh.

Những thách thức và triển vọng

Thách thức

Việt Nam và Trung Quốc lợi dụng văn hóa chính trị Cộng sản chung của họ với một mạng lưới dày đặc các mối quan hệ giữa hai đảng, hai nhà nước, và nhân dân hai nước. Lê Hồng Hiệp đã tính toán rằng các quan chức từ hai nước đã tổ chức ít nhất 290 cuộc gặp gỡ trong năm 2009. Bằng cách chia các vấn đề thành những khu vực chịu trách nhiệm cụ thể, hai ban lãnh đạo đã tạo ra một phương thức xử lý khủng hoảng. Những đề tài khó có thể được đặt riêng – “bị vô hiệu hóa” theo thuật ngữ của Womack – vào những nơi đặc biệt mà không nhất thiết làm gián đoạn toàn bộ mối quan hệ. Mối quan hệ giữa hai nhà nước đã trở nên quan trọng hơn trong những năm gần đây, đáng chú ý là Ủy ban Chỉ đạo Hợp tác song phương, được sử dụng để làm xuống thang tình trạng đối đầu vụ giàn khoan, cùng với các cuộc đàm phán giữa quân đội hai nước.

Các kiểu tiếp xúc khác nhau được sử dụng cho những mục đích khác nhau. Các đảng Cộng sản đặt ra chương trình nghị sự chung với những cuộc gặp gỡ không thường xuyên được bố trí sẵn giữa các Tổng Bí thư. Họ cũng thường trao đổi những ý tưởng về ý thức hệ, “việc xử lý công luận” và những vấn đề xã hội – như họ đã làm sau sự kiện giàn khoan Hải Dương-981 được miêu tả ở trên.

Những trao đổi giữa nhân dân hai nước nói chung chỉ xảy ra khi những tranh cãi về ngoại giao đã phai mờ trong kí ức. Chúng đem lại một thước đo hữu ích về tình trạng các mối quan hệ nói chung: chúng diễn ra khi các ban lãnh đạo có thể tự tin rằng chúng sẽ được phần lớn dân chúng đón nhận. Gần đây hầu như không có cuộc trao đổi nào diễn ra. Cuộc “Khảo sát quan điểm toàn cầu năm 2014” của Pew cho thấy rằng chỉ có 16% người Việt Nam có cái nhìn thiện chí về Trung Quốc, với 78% có cái nhìn không thiện chí về nước này. Chỉ 21% nghĩ rằng kinh tế đang tăng trưởng của Trung Quốc là điều tốt cho Việt Nam, có 71% coi điều đó là có hại. Theo cuộc khảo sát này, 69% nghĩ Trung Quốc sẽ không bao giờ thay thế được Mỹ với tư cách là một siêu cường hàng đầu của thế giới.

Việt Nam có lẽ mong muốn giảm bớt thâm hụt thương mại của họ với Trung Quốc, nhưng chừng nào các nhà sản xuất quốc tế còn tiếp tục chế tạo ra các linh kiện tại Trung Quốc và lắp ráp chúng thành sản phẩm ở Việt Nam, thì điều đó sẽ vẫn còn gặp khó khăn. Nếu mức lương không khác biệt một cách nhanh chóng, thì các ngành công nghiệp của Việt Nam sẽ không có khả năng cạnh tranh một cách hiệu quả với các đối thủ Trung Quốc chỉ ở ngay bên kia biên giới nhưng có được lợi thế kinh tế theo quy mô lớn hơn nhiều. Việc tham gia Hiệp định quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có thể đem đến một tương lai khác.

Trong 40 năm qua, Trung Quốc đã hành động ở Biển Đông trên cơ sở rằng nước này là chủ sở hữu chính đáng các vùng biển và tất cả những cấu trúc địa hình ở trong nó. Nghĩa là, nước này đã không sử dụng vũ lực để đuổi bất kỳ bên tuyên bố chủ quyền nào khỏi những cấu trúc địa hình mà họ chiếm giữ kể từ năm 1974. Tuy nhiên, có khả năng là Trung Quốc sẽ tìm cách chiếm giữ không gian “chưa bị chiếm giữ” ở Biển Đông. Một điểm gây bất đồng đặc biệt có lẽ là Bãi Tư Chính: một khu vực biển cạn với tiềm năng dầu lửa đáng kể ngoài khơi bờ biển Tây Nam Việt Nam mà cả hai nước đều đã cho các công ty dầu khí kình địch nhau thuê. Nếu Trung Quốc định lắp đặt một giàn khoan dầu hoặc một cấu trúc bán quân sự trên Bãi Tư Chính, thì Việt Nam có khả năng sẽ buộc phải có hành động mạnh mẽ. Xét tới tương quan lực lượng giữa hai nước, rất không có khả năng xảy ra hình thức đối đầu quân sự. Mục tiêu sẽ là buộc Trung Quốc phải rút lui mà không cắt đứt các mối quan hệ. Giống như cuộc đối đầu giàn khoan năm 2014, điều này có khả năng sẽ đòi hỏi một sự kết hợp hành động: cuộc đối đầu trên biển dựa vào lực lượng cảnh sát biển, xây dựng liên minh ngoại giao và bước đi khác hướng tới các mối quan hệ quân sự thân thiết với Mỹ.

Triển vọng

Nói chung, quan hệ Việt-Trung đã tiến triển tốt đẹp một cách khác thường kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ. Rất nhiều vấn đề lẽ ra có thể gây ra những tranh chấp – chẳng hạn việc phân định biên giới trên bộ, ranh giới ở Vịnh Bắc Bộ, thâm hụt thương mại – đã được vô hiệu hóa và nghi thức hóa. Đồng thời, một tranh chấp – về các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và biên giới biển ở Biển Đông – đã đi tới làm lu mờ tất cả các khu vực cùng tồn tại thành công này.

Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là ngay cả trong thời kỳ căng thẳng giàn khoan, cuộc đối đầu nảy lửa nhất của họ kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ, cả hai ban lãnh đạo đều hạn chế mức độ leo thang và đảm bảo rằng một số lĩnh vực của mối quan hệ, đặc biệt là thương mại, vẫn không bị ảnh hưởng – mặc dù du lịch chịu tác động. Hai bên đã bắt đầu và kết thúc các cuộc thảo luận về giải pháp cho xung đột thông qua Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương giữa hai nhà nước. Ở giữa có các cuộc hội đàm thực chất giữa hai đảng, hai quân đội. Khi đó, sau cuộc gặp gỡ thứ hai của Ủy ban chỉ đạo, hai đảng đã có những cuộc hội đàm cấp cao về việc làm thế nào để điều hòa công luận với thực tế mới. Tới cuối năm 2015, các mối quan hệ giữa hai nước đã yên ổn và các ban lãnh đạo dường như xử lý thành công công luận đối với bên còn lại thông qua việc kiểm soát phương tiện truyền thông và đường phố. Thương mại tiếp tục bùng nổ và lượng du khách đến, bị tạm ngưng trong cuộc khủng hoảng năm 2014, đã khôi phục.

3. Quan hệ của Việt Nam với Mỹ

Khi xét tới lịch sử chung giữa 2 nước, không có gì đáng ngạc nhiên khi ĐCSVN vẫn tỏ ra nghi ngờ Mỹ. Chỉ nhờ vào những hành động gây lo ngại của Trung Quốc, ĐCSVN mới tìm kiếm các quan hệ chính trị và quân sự gần gũi hơn với Mỹ. Trong năm 2015, Mỹ đã tạo ra một cơ hội đối với ĐCSVN mà dường như đã dẫn tới một thay đổi quan trọng. Nước này cuối cùng đã tìm ra cách thức để cạnh tranh với việc Trung Quốc sử dụng các kênh liên lạc giữa hai đảng.

Tóm tắt lịch sử

Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, xã hội Việt Nam bị chia rẽ về một loạt vấn đề xã hội và, vào năm 1954, đất nước này bị chia cắt thành 2 phần. Phe cộng sản coi sự chia cắt này là một sự áp đặt thực dân bất hợp pháp và tìm cách đảo ngược nó thông qua đấu tranh chính trị và sau đó là quân sự. Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh và nỗi lo sợ chủ nghĩa cộng sản được Bắc Kinh và Moskva ủng hộ, Mỹ đã hỗ trợ miền Nam Việt Nam theo chủ nghĩa tư bản và bảo thủ. Cuộc chiến bắt nguồn từ đó đã khiến hàng triệu người thiệt mạng và tàn phá đất nước. Bất chấp điều này, nỗ lực của Mỹ để duy trì chính quyền Sài Gòn cuối cùng đã không đem lại kết quả và binh lính Mỹ rút khỏi Việt Nam vào năm 1973. Chế độ miền Nam đã sụp đổ vào tháng 4/1975.

Sự cay đắng vẫn vương vất ở cả hai bên, nhưng nhiều hơn tại Mỹ. Khi Hà Nội cố gắng cải thiện quan hệ sau chiến tranh, Washington đã từ chối lời đề nghị. Những lo ngại chiến lược của Mỹ về sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản trên bán đảo Đông Dương, đặc biệt sau khi Việt Nam đưa quân vào Campuchia năm 1978, kết hợp với sự thù địch trong nước đối với Hà Nội được dẫn đầu bởi các cựu chiến binh và người Mỹ gốc Việt lưu vong, đã trì hoãn sự bình thường hóa quan hệ cho tới 20 năm sau khi chiến tranh kết thúc.

Trong suốt thời kỳ này, ĐCSVN đã chia thế giới thành 2 phe: phe chủ nghĩa xã hội và phe chủ nghĩa đế quốc. Mỹ đại diện cho một đối thủ không thể nhân nhượng. ĐCSVN đã bị buộc phải xem xét lại cách nhìn này với sự sụp đổ của Liên bang Xôviết. David Elliott đã kết luận rằng những thay đổi trong “các tư tưởng tập thể” của Việt Nam về chính trị và định hướng quốc tế không được tạo ra chỉ bởi cú sốc bên ngoài này, mà bởi “cú sốc theo sau một cuộc khủng hoảng kéo dài đã làm suy yếu sự kháng cự đối với thay đổi”. Những người theo chủ nghĩa Stalin trong ĐCSVN đã không còn có ý tưởng nào và nhà lãnh đạo của họ, Tổng Bí thư Lê Duẩn, đã mất. Đã tới thời điểm cho một giải pháp thay thế.

Các quan hệ với Washington đã được cải thiện sau khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia vào tháng 9/1989, nhất trí với Hiệp định Hòa bình Paris năm 1991 và đề xuất hợp tác tìm kiếm các quân nhân Mỹ mất tích trong Chiến tranh Việt Nam. Các quan hệ ngoại giao giữa 2 nước nhanh chóng được khôi phục vào tháng 7/1995, hai tuần trước khi Việt Nam gia nhập ASEAN. Việt Nam được Mỹ trao quy chế Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) vào năm 2006, nhưng nước này vẫn phải chịu một số biện pháp trừng phạt, đáng lưu ý có Quy chế buôn bán vũ khí quốc tế (ITAR), quy chế này ngăn chặn hoạt động mua bán vũ khí quân sự sát thương và dịch vụ phòng thủ.

Vào tháng 7/2013, hai chính phủ đã tuyên bố thiết lập “quan hệ đối tác toàn diện” bao gồm hợp tác chính trị và ngoại giao, các quan hệ kinh tế và thương mại, hợp tác khoa học và công nghệ, hợp tác giáo dục, môi trường và sức khỏe, các vấn đề di sản chiến tranh, quốc phòng và an ninh, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người và văn hóa, du lịch và thể thao. Tuy đây là một bước tiến đáng kể, nhưng một quan hệ đối tác toàn diện là mức độ hợp tác thấp nhấp mà Việt Nam đề nghị. Tuy vậy, thỏa thuận chứa đựng một cụm từ then chốt mở cánh cửa cho hợp tác trực tiếp giữa Chính phủ Mỹ và ĐCSVN. Thỏa thuận này đã chứng tỏ là một cơ hội then chốt trong quan hệ giữa 2 nước.

Các quan hệ hiện nay

Quan hệ kinh tế

Việt Nam tận hưởng thặng dư thương mại khổng lồ với Mỹ, một sự đóng góp lớn để bù đắp thâm hụt của nước này với Trung Quốc. Quả thực, người ta có thể coi thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam chỉ như là một sự mở rộng bằng đường khác thâm hụt của nước này với Trung Quốc.

Các quan hệ thương mại giữa Mỹ và Việt Nam được nối lại vào năm 1994, một năm trước khi chính thức thiết lập các quan hệ ngoại giao. Đã có sự vận động hành lang nhiệt tình từ giới doanh nghiệp bên trong Mỹ mà đã giúp chấm dứt cấm vận trước sự phản đối của các nhóm cựu chiến binh và người Mỹ gốc Việt chống cộng sản. Việc chấm dứt cấm vận đã cho phép Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho Việt Nam vay và cung cấp những tư vấn về cải cách. Năm 1999, Việt Nam thông qua luật doanh nghiệp để thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân, nhưng đã có những cuộc đấu tranh nội bộ nghiêm trọng về việc liệu có nên đồng ý ký kết một Hiệp định thương mại song phương (BTA) với Mỹ hay không. Việc này kéo dài trong 2 năm và cuối cùng chỉ kết thúc vào năm 2001. Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, người lúc đó nắm chức vụ phó Thủ tướng, được coi là người thuyết phục chủ chốt ủng hộ BTA.

Cuộc đấu tranh tiếp theo là về tư cách thành viên của Việt Nam trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mà đòi hỏi một cuộc bỏ phiếu riêng rẽ tại Quốc hội Mỹ để trao cho Việt Nam quy chế Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn. Quốc hội Mỹ đã thông qua việc trao quy chế này cho Việt Nam vào cuối năm 2006 và Việt Nam gia nhập WTO vào tháng 1/2007. Tư cách thành viên WTO đã trở thành một công cụ trong tay các nhà cải cách kinh tế để thúc đẩy tốc độ cải cách – vừa để tuân thủ các quy định mới vừa để buộc ngành công nghiệp địa phương cạnh tranh trong khu vực và trên toàn cầu. Việt Nam đối mặt với một loạt vấn đề tương tự vào thời điểm nước này đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Hệ quả của những điều khoản trong hiệp định này cũng sẽ có tính biến đổi đối với nền kinh tế Việt Nam.

Mỹ vẫn chưa công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường và qua đó vẫn áp đặt một số rào cản đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đây một phần là di sản của thỏa thuận gia nhập WTO của Việt Nam, theo đó quy định nước này vẫn sẽ là một nền kinh tế phi thị trường cho tới năm 2018. Việc này khiến Mỹ dễ dàng áp đặt các loại thuế chống bán phá giá lên hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam mà nước này nghi ngờ đang được trợ cấp không công bằng. Gia nhập TPP sẽ là một sự thay đổi quan trọng đối với chính sách này.

Hợp tác liên quan tới an ninh

Cho dù đã có những cuộc thảo luận giữa các đại diện của quân đội hai nước ngay cả trước khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, các quan hệ an ninh chỉ mang tính hình thức. Tình hình đã bắt đầu thay đổi sau tháng 3/1997, khi Trung Quốc triển khai một giàn khoan dầu có tên là Kantan III tới vùng biển phía Nam vịnh Bắc Bộ mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, lô dầu 113 ngoài khơi tỉnh Đà Nẵng. Để đáp lại, Việt Nam đã triệu tất cả các đại sứ của các nước thành viên ASEAN tới một cuộc họp và sau đó cố tình mời Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Joseph Prueher, tới thăm Hà Nội. Một tuần sau chuyến thăm đó, Trung Quốc đã rút giàn khoan.

Sáu năm sau, trong cuộc họp của Ban chấp hành Trung ương đảng vào tháng 7/2003, ĐCSVN đã thông qua một Chiến lược bảo vệ tổ quốc mới, chính thức loại bỏ hệ tư tưởng khỏi chính sách đối ngoại. Các quốc gia được xác định hoặc là “chủ thể hợp tác” hoặc là “chủ thể đấu tranh”, nhưng những khác biệt này hoàn toàn dựa trên thái độ của họ đối với Việt Nam hơn là bản chất đế quốc của họ. Bốn tháng sau cuộc bỏ phiếu của Ban Chấp hành Trung ương đảng, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đã tới thăm Washington và một tàu chiến Mỹ đã tới thăm cảng tại Việt Nam lần đầu tiên sau 28 năm. Theo đại sứ Mỹ tại Việt Nam lúc đó là Raymond Burghardt, đó là thời điểm hai bên bắt đầu thảo luận các vấn đề chiến lược.

Vào thời điểm đó, Việt Nam và Mỹ đã nhất trí cứ 3 năm một lần trao đổi các chuyến thăm luân phiên của bộ trưởng quốc phòng hai nước. Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đã tới thăm Washington năm 2003 và 2009. Chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải vào tháng 6/2005 đã mở ra đối thoại chiến lược cấp lãnh đạo đầu tiên về Trung Quốc và khu vực và đã làm thay đổi quan điểm của một số người Mỹ trước đây phản đối bình thường hóa quan hệ để chuyển sang ủng hộ cách tiếp cận mới. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã tới thăm Hà Nội năm 2006 và 2012. Vào tháng 10/2008, hai bên đã thực hiện cuộc đối thoại chiến lược đầu tiên về các vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng và hợp tác nhân đạo tại Hà Nội. Vào tháng 8/2010, hai bộ quốc phòng đã tổ chức vòng đối thoại chính sách quốc phòng đầu tiên. Cả hai cuộc đối thoại đều đã trở thành các sự kiện thường niên với mức độ chú ý của công chúng cao hơn nhiều.

Các quan hệ giữa quân đội hai nước đã trở nên thân thiện hơn, nhưng ngay cả 12 năm sau khi các quan hệ giữa quân đội hai nước được khởi động, các lĩnh lực hợp tác thực tế vẫn bị hạn chế. Bản ghi nhớ về thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương được bộ trưởng quốc phòng hai nước ký kết vào tháng 9/2011 đã đặt ra một nghị trình hợp tác rất mềm mỏng: đối thoại cấp cao, an ninh hàng hải, tìm kiếm và cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa và gìn giữ hòa bình. Việt Nam đã từ chối tham gia phần lớn các hoạt động liên quan tới an ninh mà Mỹ theo đuổi với các nước châu Á khác. Việt Nam là một trong số 3 nước ASEAN không tham gia diễn tập Hợp tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu trên biển (CARAT) – hai nước còn lại là Lào nằm hoàn toàn trên đất liền và Myanmar lúc đó vẫn còn bị cấm vận – và đã không có các cuộc diễn tập chung PASSEX với các tàu hải quân. Hai nước không có thỏa thuận Trao đổi dịch vụ (ACSA) để tạo điều kiện cho trao đổi hỗ trợ hậu cần, cung cấp và dịch vụ trong các chuyến thăm của tàu, các cuộc diễn tập, huấn luyện hay trường hợp khẩn cấp, và tàu chiến Mỹ chỉ được phép tới thăm mỗi năm một lần. Và mới chỉ có hai chuyến thăm của các quan chức Việt Nam tới một tàu sân bay đi ngang qua của Mỹ vào tháng 4/2009 và tháng 10/2012.

Ở cấp độ chiến lược, sự ngờ vực về ý đồ của Mỹ vẫn còn mạnh mẽ trong giới lãnh đạo Việt Nam và phía Việt Nam tỏ ra thận trọng trước việc bị kéo vào những sự dính líu mà có thể đe dọa tới nền độc lập của nước này hay làm suy yếu sự cầm quyền của ĐCSVN. Sự miễn cưỡng của Việt Nam trước việc theo đuổi các mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ thường được người ngoài cuộc quy cho nỗi lo sợ làm Trung Quốc tức giận của ban lãnh đạo Việt Nam. Nhưng sự miễn cưỡng này thực ra có nguyên nhân sâu sắc hơn: ban lãnh đạo vẫn lo ngại về ý đồ lật đổ của Mỹ.

Nghiên cứu tình huống

Khó có thể đưa ra một đánh giá có hiểu biết đúng đắn đối với quan điểm về Mỹ trong giới lãnh đạo Việt Nam. Về bản chất, phần lớn người đối thoại có tiếp xúc với các nhà quan sát phương Tây thường đến từ những bộ phận cởi mở nhất với các tiếp xúc phương Tây trong nhà nước đảng này – đặc biệt là Bộ Ngoại giao. Những người nghi ngờ phương Tây nhất nằm trong các tổ chức của ĐCSVN, quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, một số ý niệm về các lập trường tư tưởng khác biệt có thể thu được từ các nghiên cứu trường hợp.

Vịnh Cam Ranh

Vịnh Cam Ranh là một trong số các cảng nước sâu tốt nhất trên thế giới. Cảng này từng được quân đội Pháp sử dụng và được quân đội Mỹ phát triển hơn nữa trong Chiến tranh Việt Nam. Cơ sở cảng bao gồm các kho chứa rộng, không gian cho hậu cần và căn cứ không quân. Vào năm 1979, sau các cuộc chiến với Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam đồng ý cho Liên Xô sử dụng Vịnh Cam Ranh trong 25 năm. Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô đã cho đóng Trung tâm hậu cần số 922 của nó, duy trì một đội tàu chiến và thiết lập một trạm thông tin tình báo tín hiệu tại đây. Tuy nhiên, khi nền kinh tế Nga suy thoái, căn cứ này trở nên quá tốn kém và Moskva đã rút khỏi Cam Ranh vào năm 2002.

Khi lo ngại của Mỹ về các hoạt động hải quân của Trung Quốc tăng lên, mối quan tâm của nước này đến việc sử dụng các cảng của Việt Nam cũng tăng theo. Các tàu chiến của Mỹ đã bắt thực hiện các chuyến thăm Việt Nam vào tháng 11/2003 nhưng chỉ tới Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hải Phòng. Mỹ mong muốn có những thỏa thuận tiếp cận Vịnh Cam Ranh song song với các thỏa thuận tiếp cận các cảng khác của nước này – với hỗ trợ hậu cần và có thể cả cung cấp tiền tiêu. Đã có đồn đoán rằng Việt Nam có thể sẵn sàng cho phép việc này. Tuy nhiên vào tháng 10/2010, tại cuộc họp bế mạc hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 17 tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố rằng Việt Nam sẽ chỉ cho các lực lượng hải quân nước ngoài thuê cảng này trên cơ sở thương mại.

Đây là một ví dụ kinh điển cho chính sách “quăng lưới” của Việt Nam: tạo ra một cơ hội để đem lại cho nhiều quốc gia nhất có thể một kiểu lợi ích trong sự ổn định của Việt Nam. Chính sách này sẽ đem lại cho Mỹ, Nga, Ấn Độ và các quốc gia khác một lợi ích trong các quan hệ thân thiện. Vào tháng 8/2011, tàu Mỹ đầu tiên đã neo đậu tại Cam Ranh để sửa chữa, nhưng tàu này và các tàu theo sau đều là tàu hậu cần, là một bộ phận của Bộ Tư lệnh Hải vận quân sự, chứ không phải tàu chiến. Chưa có tàu chiến nào của Mỹ tới thăm Vịnh Cam Ranh. Có vẻ như Việt Nam sẽ không cung cấp căn cứ, kho chứa hay thậm chí quyền tiếp cận Vịnh Cam Ranh cho các tàu chiến của Mỹ. Điều này đối lập đáng kể với thái độ của Việt Nam đối với Nga. Vào tháng 11/2014, hai nước đã ký kết một thỏa thuận cho phép tàu chiến Nga vào cảng với nghi thức tối thiểu.

Lệnh cấm vận vũ khí/ nhân quyền

Lo ngại hiện nay về thiếu tính đa nguyên chính trị, tự do truyền thông và bảo vệ nhân quyền đồng nghĩa với việc Mỹ vẫn trừng phạt Việt Nam theo Quy chế buôn bán vũ khí quốc tế (ITAR) của nước này. Việc này hạn chế hoạt động bán vũ khí quân sự sát thương và các dịch vụ phòng thủ. Việt Nam muốn các lệnh trừng phạt được dỡ bỏ, nhưng không chủ yếu vì nước này muốn mua vũ khí từ Mỹ. Hầu như tất cả trang thiết bị quân sự của nước này đều theo các tiêu chuẩn của khối Xôviết trước đây và việc đưa vào các thiết bị do Mỹ sản xuất sẽ tạo ra những vấn đề về tính tương thích. Thiết bị của Mỹ thường có giá cao hơn so với các sản phẩm tương đương từ Nga, Ukraine hay Belarus.

Điều quan trọng hơn đối với Việt Nam là tín hiệu chính trị mà các lệnh trừng phạt này gửi tới. ITAR là một sự nhắc nhở liên tục về chỉ trích của Washington đối với thành tích nhân quyền và hình thức chính phủ của Việt Nam; Mỹ đặt Việt Nam cùng chung nhóm với Syria và Triều Tiên. Hà Nội tìm kiếm việc dỡ bỏ lệnh cấm vận chủ yếu vì nước này muốn được coi là một quốc gia “bình thường”. Một số người Mỹ gốc Việt, các cựu chiến binh và các tổ chức nhân quyền phản đối mạnh mẽ việc này. Kết quả là nhiều nghị sĩ Quốc hội Mỹ chống lại bất cứ sự làm suy yếu nào lập trường của chính phủ.

Có một số ít lĩnh vực thích hợp mà Việt Nam muốn mua các thiết bị phòng thủ do Mỹ sản xuất. Ngay từ năm 2008, nước này đã đề nghị mua các bộ phận dự phòng cho trang thiết bị mà Mỹ cung cấp cho chế độ miền Nam Việt Nam trước đây, đặc biệt là xe chở quân bọc thép M113 và máy bay trực thăng vận tải UH-1. Một báo cáo năm 2012 của Quỹ Heritage cho thấy Mỹ đã sử dụng cơ hội này để xây dựng các mối quan hệ quân sự với Việt Nam thông qua chương trình Viện trợ quân sự có hoàn lại cho nước ngoài (FMS). Không có tiến bộ nào đạt được theo hướng này, có lẽ là do sự phản đối có thể có từ các nhà vận động hành lang về vấn đề nhân quyền và cộng đồng người Mỹ gốc Việt.

Sau cuộc đối đầu về giàn khoan Hải Dương-981 năm 2014, Việt Nam đã tăng cường vận động hành lang để được đưa khỏi danh sách ITAR. Người ta đã chứng kiến một sự hội tụ lợi ích trong mong muốn của cả hai nước muốn ngăn chặn các bước đi của Trung Quốc trên Biển Đông. Việt Nam đã thúc giục về vấn đề này trong các chuyến thăm của thành viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị vào tháng 8/2015 và sau đó Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh vào tháng 10/2015. Tuy nhiên, Mỹ chưa bao giờ đồng ý loại hoàn toàn Việt Nam ra khỏi danh sách. Thay vào đó, trong chuyến thăm của ông Phạm Bình Minh, Mỹ tuyên bố rằng nước này sẽ chỉ giảm bớt các hạn chế ITAR để cho phép bán các năng lực giám sát hàng hải và – quan trọng hơn – các năng lực an ninh hàng hải sát thương trên cơ sở từng trường hợp. Đây là một thay đổi bước đi trong chính sách của Mỹ, khi so sánh với quyết định của nước này cung cấp cho lực lượng Bảo vệ bờ biển Việt Nam 5 tàu tuần tra không trang bị vũ khí vào tháng 12/2013. Sự thay đổi về chính sách sẽ tạo điều kiện, chẳng hạn cho việc mua máy bay giám sát P-3 Oron, nhưng không phải tạo điều kiện giúp Việt Nam mua các bộ phận của xe chở quân bọc thép. Việc này thể hiện một sự thỏa hiệp giữa các lợi ích chính sách cạnh tranh nhau của Washington tại Việt Nam – an ninh khu vực và thúc đẩy nhân quyền.

Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương

Vào tháng 4/2015, tờ New York Times đã đăng bài viết của Nguyễn Phước Tương, với bút danh Tương Lai, một cựu cố vấn của nguyên thủ tướng theo đường lối cải cách Võ Văn Kiệt. Với tựa đề “Những gì Việt Nam phải làm ngay bây giờ”, bài viết kêu gọi tiếp nhận hoàn toàn nghị trình của TPP. Nhưng những lập luận ủng hộ TPP của ông cũng là một danh sách những lý do mà nhiều người trong hệ thống thứ bậc của ĐCSVN – đặc biệt những người lo ngại về an ninh trong nước và các doanh nghiệp nhà nước – sẽ phản đối nó. “TPP cũng đòi hỏi các nước thành viên chấp nhận các công đoàn tự do, quyền sở hữu trí tuệ và sự minh bạch trong các luật lệ, quy định và thông lệ. Có lẽ điều quan trọng nhất đối với Việt Nam là trông đợi chính phủ các nước thành viên TPP sẽ không đối xử ưu đãi với các doanh nghiệp nhà nước hoặc không cho phép họ bóp méo thương mại. Điều này có nghĩa là giảm đáng kể vai trò của những công ty như vậy tại Việt Nam”. Củ cà rốt ở đây là những phân tích của nước ngoài cho rằng TPP sẽ thúc đẩy quy mô nền kinh tế Việt Nam ở mức từ 14% đến 35% trong 10 năm tiếp theo.

Vào thời điểm thực hiện bài viết, đây là một cuộc tranh luận đang diễn ra tại Việt Nam, một cuộc tranh luận kết tinh những căng thẳng bên trong ĐCSVN về các đường lối tương lai của đảng này. Có lẽ lập luận mang tính quyết định hóa ra có thể là TPP sẽ giảm thâm hụt thương mại với Trung Quốc vì hàng hóa hoàn toàn sản xuất tại Việt Nam sẽ tiếp cận được thị trường Mỹ và Nhật Bản với mức thuế quan thấp. Việc này có thể khuyến khích nhiều hơn hoạt động chế tạo tại Việt Nam, thay vì chỉ đơn giản lắp ráp các linh kiện hoặc may mặc bằng vải được sản xuất tại Trung Quốc. Đồng thời, TPP sẽ đem lại những mối đe dọa lớn đối với các doanh nghiệp nhà nước (SOE) và hệ thống công đoàn do đảng kiểm soát. Các nhà phân tích chính sách đối ngoại tại Hà Nội đã miêu tả TPP như là một “viên thuốc đắng” mà sẽ thúc đẩy ĐCSVN thực hiện hơn nữa các cải cách kinh tế và xã hội cần thiết để gia tăng của cải quốc gia. Họ cũng so sánh để làm tương phản cái họ coi là sự hỗ trợ của Mỹ dành cho phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của Việt Nam với cảm giác rằng Trung Quốc chỉ coi Việt Nam như là một thị trường phụ thuộc.

Những thách thức và triển vọng

Thách thức

20 năm đã trôi qua kể từ khi Việt Nam và Mỹ bình thường hóa các quan hệ ngoại giao và có một điều rõ ràng là đang có, và sẽ tiếp tục có, những giới hạn đối với mối quan hệ này. Trong khi các quan hệ đầu tư và thương mại của hai nước tiếp tục được củng cố, Việt Nam vẫn tỏ ra thận trọng về các mối quan hệ chính trị và quân sự chặt chẽ hơn. Chừng nào Việt Nam vẫn là một nhà nước do đảng Cộng sản lãnh đạo và Mỹ vẫn cam kết thúc đẩy dân chủ, mối quan hệ sẽ luôn bị hạn chế bởi sự nghi ngờ. Tuy nhiên, trong năm 2015 Mỹ đã thực hiện những bước đi để giải quyết sự mâu thuẫn rõ ràng này.

Dường như đang có những quan điểm khác nhau về Mỹ bên trong chính phủ và các cấu trúc đảng của Việt Nam. Nhân viên chính phủ, đặc biệt là Bộ Ngoại giao, có xu hướng cởi mở hơn về can dự với phương Tây, trong khi các cán bộ an ninh và đảng thường có tâm lý nghi ngờ hơn. Ngày càng nhiều nhân viên Bộ Ngoại giao học tập tại phương Tây và nói trôi chảy tiếng Anh. Họ là những người đối thoại lôi cuốn đối với Mỹ, nhưng họ chỉ đại diện cho một bộ phận ý kiến trong ĐCSVN và không phải là đa số. Như Đại tá Thanh từng miêu tả vào tháng 12/2012, thế giới quan được dạy tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, các học viện quốc phòng và trường đào tạo an ninh của ĐCSVN mang tính chỉ trích phương Tây nhiều hơn. Tuy vậy, một nhà phân tích người Việt Nam tại Hà Nội đã nhận xét rằng có những quan điểm khác nhau bên trong quân đội, với chẳng hạn hải quân có quan điểm tiêu cực hơn về Trung Quốc so với cơ quan tình báo.

Cho tới năm 2015, Mỹ đã nhấn mạnh các mối quan hệ giữa hai chính phủ, nhưng trong một tiến triển đáng chú ý, nước này mới đây cũng đã nỗ lực đối chọi với ưu thế của Trung Quốc trong các cuộc thảo luận giữa hai đảng. Chiến lược này có nguồn gốc từ một cuộc gặp chính thức giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tại Hà Hội vào tháng 7/2012.  Ngôn từ trong thỏa thuận quan hệ đối tác tháng 7/2013 sau đó đã lưu ý “sự tôn trọng đối với hệ thống chính trị của mỗi bên”. Trong chuyến thăm Washington tháng 7/2014, ông Phạm Quang Nghị đã gặp các chủ tịch của Viện Dân chủ quốc gia (NDI) và Viện Cộng hòa quốc tế (IRI). Cả 2 tổ chức này trước đây đều chỉ trích mạnh mẽ thành tích nhân quyền của Việt Nam. Trong một bài diễn văn trước các sinh viên đại học tại Hà Nội vào tháng 3/2015, Đại sứ Mỹ Ted Osius đã công khai ủng hộ ý tưởng về các cuộc đối thoại giữa hai đảng – có thể là giữa ĐCSVN với đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa tại Mỹ (thay vì đảng Cộng sản Mỹ).

Chính quyền Obama đã mời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới thăm Washington vào giữa năm 2015. Việc này tạo ra những rắc rối về nghi thức ngoại giao vì ông Trọng không đảm nhận vị trí nào trong chính phủ và Mỹ không có chức danh tương đương, nhưng vấn đề đã được giải quyết ổn thỏa và trên thực tế ông được đối đãi như một nguyên thủ quốc gia. Trước thềm chuyến thăm của ông Trọng, Mỹ đã chào đón Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang, người nhìn chung chỉ huy hệ thống an ninh trong nước của Việt Nam. Trong một sự thay đổi đáng kể so với chính sách trước đây, ông Quang đã có các cuộc hội đàm với đại diện của FBI, CIA, Hội đồng an ninh quốc gia và Bộ Tư pháp, trong số các cơ quan khác. Những bước đi này cho thấy Chính phủ Mỹ đang có nỗ lực nghiêm túc để thu hẹp cái cho tới nay từng là một khoảng cách không thể vượt qua về tư tưởng giữa hai bên. Vào tháng 6/2015, bộ quốc phòng hai nước đã nhất trí về một Tuyên bố Tầm nhìn chung mới, trong đó đoạn thứ 2 đã tái xác nhận “tôn trọng hệ thống chính trị của mỗi quốc gia”.

Ông Trọng đã có một bài diễn văn được chuẩn bị kỹ lưỡng tại Washington và đưa ra triển vọng hai quốc gia hợp tác với nhau để “đặt nền tảng đưa các quan hệ song phương lên cấp độ tiếp theo trong tương lai”. Ông đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải củng cố “lòng tin chính trị giữa các nhà lãnh đạo và giới chính trị của hai nước” và “phải tăng cường các cuộc trao đổi và liên lạc cấp cao để bao gồm các đảng phái chính trị”. Ông dường như đang mở ra một cánh cửa cho quan hệ chính trị trực tiếp giữa ĐCSVN và bộ máy chính trị Mỹ. Nếu thành thật, đây sẽ là một sự tái định hướng chính trị quan trọng của ĐCSVN.

Đồng thời, Chính quyền Obama đang tích cực làm việc để xua tan sự hoài nghi trong phe bảo thủ tại Việt Nam rằng nước này trung thành với việc chống chủ nghĩa cộng sản. Bài diễn văn của Ngoại trưởng John Kerry tại Hà Nội vào tháng 8/2015 đánh dấu 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai chính phủ đã thận trọng giữa việc thể hiện sự cần thiết phải khẳng định cách tiếp cận mới và truyền thống bảo vệ quyền con người: “Mỹ công nhận rằng chỉ người dân Việt Nam mới có thể quyết định hệ thống chính trị của mình… Nhưng có những nguyên tắc cơ bản mà chúng tôi sẽ luôn bảo vệ: Không ai cần bị trừng phạt vì nói ra suy nghĩ của mình chừng nào các suy nghĩ này được thể hiện một cách hòa bình, và nếu hàng hóa thương mại đang được giao dịch một cách tự do giữa chúng ta, thông tin và ý tưởng cũng nên như vậy. Và chúng tôi tin rằng tiến bộ trong việc bảo vệ các quyền cơ bản này của con người chắc chắn sẽ phục vụ lợi ích của Việt Nam theo một số cách thức. Tiến bộ trong nhân quyền và pháp trị sẽ đem lại nền tảng cho một chiến lược và quan hệ đối tác chiến lược sâu sắc và bền vững hơn giữa Mỹ và Việt Nam”.

Cộng đồng lớn người Mỹ gốc Việt đem lại cả lợi thế lẫn bất lợi cho ĐCSVN. Hoạt động vận động hành lang của cộng đồng này trong Quốc hội và Chính phủ Mỹ làm phức tạp các quan hệ ngoại giao với Washington. Họ cũng tài trợ và thúc đẩy hoạt động phản kháng chống cộng sản tại Việt Nam. Tuy nhiên, cộng đồng này cũng là một nguồn thu nhập quan trọng. Theo Ngân hàng Trung ương Việt Nam, trong năm 2014, hơn một nửa trong số 14 tỷ USD kiều hối được gửi cho các công dân Việt Nam đến từ họ hàng sống hoặc làm việc tại Mỹ. Tổng số kiều hối tương tương với khoảng 8% GDP của Việt Nam. Hiện đang có một cộng đồng nhỏ nhưng đang phát triển bao gồm người tị nạn trước đây hiện trở về sống tại Việt Nam. Các số liệu thống kê của Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy khoảng 3.000 Việt kiều đã quay trở lại sống lâu dài tại đây từ năm 2004 tới tháng 6/2013, và 9.000 người nữa được phép cư trú dài hạn cho công việc và đầu tư trong thành phố.

Ở cấp cơ sở, thái độ đối với Mỹ có sự khác nhau nhưng nhìn chung rất tích cực. Các cuộc thăm dò ý kiến bị kiểm soát chặt chẽ tại Việt Nam, nhưng kết quả từ Khảo sát dư luận toàn cầu năm 2015 của Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy 78% người Việt Nam có quan điểm tích cực về Mỹ và 71% tin tưởng vào Tổng thống Obama. Cuộc khảo sát được thực hiện vào một thời điểm khi sự không hài lòng với các hành động của Trung Quốc đang tăng lên nhưng nó có cho thấy một sự đồng tình của dư luận ủng hộ các quan hệ mạnh mẽ hơn với Mỹ.

Triển vọng

Đường hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam liên quan tới Mỹ trong thập kỷ tiếp theo sẽ được định hình bởi một số yếu tố, đặc biệt có 3 yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất. Thứ nhất, quá trình ra quyết định của ĐCSVN sẽ được định hình bởi các ưu tiên đối nội – đặc biệt là cách thức ĐCSVN cân bằng nhu cầu tự do hóa kinh tế với mong muốn vẫn là lực lượng chính trị duy nhất của đất nước. Việt Nam cần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế để tạo thêm việc làm, nhưng các cải cách sâu rộng sẽ bị khu vực doanh nghiệp nhà nước phản đối. TPP đem lại một con đường hướng tới tăng trưởng cao hơn. Đồng thời, nó cũng sẽ gây thiệt hại cho các ngành công nghiệp không hiệu quả và các ngành trước đây sử dụng quan hệ chính trị để cản trở cạnh tranh. Cuộc tranh luận này sẽ kéo dài và có thể chưa kết thúc cho tới khi một đa số bên trong ĐCSVN tin rằng cần có một quan điểm thực tế về các lợi ích lớn hơn của đất nước, thay vì một quan điểm mang tính bảo hộ hay theo hệ tư tưởng hẹp hòi. Khi Việt Nam đi theo đường lối cải cách nhiều hơn, việc này tới lượt nó sẽ đảm bảo những cải thiện trong quan hệ Mỹ-Việt.

Yếu tố thứ hai sẽ là các hành động của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc theo đuổi một chương trình nghị sự hung hăng trên Biển Đông, phương hại tới các lợi ích của Việt Nam, Hà Nội sẽ theo đuổi hơn nữa các cơ hội với Mỹ. Tuy nhiên, ngay cả kiểu hợp tác này cũng ít có khả năng phát triển thành một quan hệ đối tác quân sự chính thức trong tương lai gần.

Yếu tố thứ ba là cách thức Chính phủ Mỹ quản lý mối quan hệ đang nổi lên của mình với ĐCSVN. Trong khi các đề nghị gần đây chắc chắn được chào đón tại Hà Nội, các nhà lãnh đạo ĐCSVN sẽ tự hỏi liệu Washington có thực sự cam chịu sự cầm quyền của ĐCSVN hay không và chương trình nghị sự về nhân quyền sẽ được nêu bật tới mức nào trong các quan hệ song phương trong tương lai. Tuy vậy, ít có khả năng Washington sẽ hoàn toàn bỏ qua các khía cạnh về nhân quyền trong quan hệ của nước này với Việt Nam. Mỹ cũng khó có thể thuyết phục bộ máy an ninh của Việt Nam rằng nước này đã hoàn toàn từ bỏ các kế hoạch “diễn tiến hòa bình”. Trừ phi có những thay đổi lớn trong định hướng của hai chính phủ, các quan hệ Mỹ-Việt sẽ luôn có đặc trưng là một mức độ nghi ngờ mà không cản trở các mối liên hệ của ban lãnh đạo Việt Nam với Nga, Ấn Độ hoặc thậm chí Trung Quốc.

4. Cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc

Ưu tiên chính sách đối ngoại của Việt Nam là nền độc lập của chính nước này và ĐCSVN sẽ tìm cách tránh trở nên phụ thuộc vào Mỹ hoặc Trung Quốc. Trong quá khứ, điều này đã đạt được bằng điều có vẻ như là “sự cân bằng” giữa hai nước này nhưng nó giống với một nỗ lực gần gũi với Trung Quốc hơn trong khi sử dụng khả năng quan hệ gần gũi hơn với Washington như một công cụ để thúc đẩy nền độc lập. Vào những thời điểm căng thẳng trong quan hệ Trung-Việt, Hà Nội đã nhiều lần sử dụng những chuyến viếng thăm tới Mỹ hoặc từ Mỹ của các nhân vật cấp cao để thể hiện quyết tâm. Tuy nhiên, có vẻ như một sự chuyển biến quyết đoán hơn đang được thực hiện hướng tới điều gì đó có thể gần hơn với sự cân bằng thực sự.

Cuộc tranh luận trong nước ở Việt Nam

Một cách Hà Nội sử dụng để cố gắng xử lý mối quan hệ với Trung Quốc và Mỹ là thông qua sự kiểm soát thận trọng cuộc tranh luận công khai. Những ý kiến được bày tỏ công khai về Trung Quốc được quản lý chặt chẽ tại Việt Nam. Những ý kiến trên phương tiện truyền thông chính thống thường chia thành hai nhóm: những cam kết theo khuôn mẫu của các quan chức về quan hệ tốt đẹp, hoặc ít gặp hơn là những bài viết phàn nàn về các khía cạnh của mối quan hệ, đặc biệt là về thâm hụt thương mại. Đôi khi các phương tiện truyền thông chọn ra những câu chuyện dễ kích động về những ảnh hưởng bị cáo buộc là có hại từ Trung Quốc – chẳng hạn như tình trạng nhiễm độc thực phẩm hoặc những băng nhóm buôn bán chó bất hợp pháp – nhưng ĐCSVN đảm bảo rằng sự đưa tin về những câu chuyện này sẽ nhanh chóng được giảm bớt. Trong những dịp rất hiếm, chẳng hạn như cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu năm 2014, các quan chức và các phương tiện truyền thông chính thống đã đưa ra những chỉ trích trực tiếp đối với các hành động của Trung Quốc, mặc dù không phải về Đảng Cộng sản Trung Quốc hay về nguyên tắc mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.

Bên ngoài các phương tiện truyền thông chính thống, thế giới trực tuyến tràn ngập những lời lên án giận dữ về sự bội tín của Trung Quốc. Những lời này được tiếp thêm bởi thiểu số chống đối ít ỏi, cố gắng sử dụng tình cảm phản đối Trung Quốc trong quần chúng để dựng cầu nối với xã hội nói chung. Tuy nhiên, cho đến nay, giới chức trách đã thành công trong việc giữ cho tầng lớp chống đối chủ nghĩa cộng sản thiểu số này không ảnh hưởng đến quan điểm chính thống.

Các cuộc tranh luận về chính sách đối ngoại xảy ra bên trong Bộ Chính trị và Ban chấp hành trung ương Đảng, nhưng những cuộc thảo luận này không bao giờ được đưa tin chính thức và thông tin nhìn chung chỉ bị rò rỉ khi nó có lợi về mặt chính trị: kỷ luật đảng rất nghiêm. Một cách để xem xét cuộc tranh luận là quan sát hành động của các bên tham gia trong ban lãnh đạo cấp cao. Những người ở bên chính phủ của hệ thống – đặc biệt là thủ tướng và bộ trưởng ngoại giao – thường là những người đứng ra giao thiệp với các nước phương Tây. Những người ở phía đảng – đặc biệt là Tổng bí thư và Thường trực Ban bí thư – được sử dụng để giao tiếp với Trung quốc, khối Liên Xô trước đây, và các nước “xã hội chủ nghĩa”.

Các nhà quan sát chỉ có thể giả định rằng nhà nước-đảng triển khai những người này vì họ có khả năng chia sẻ thế giới quan với những người họ gặp gỡ. Đáng lưu ý là khi các đại diện “sai” gặp gỡ ở thế giới bên ngoài. Vào đỉnh điểm của vụ bế tắc giàn khoan dầu năm 2014, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh được cử làm đại diện gặp gỡ Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì để thảo luận về tình hình căng thẳng tại Hà Nội. Ngay sau đó, việc cử Ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị tới Washington là một dấu hiệu cho thấy Bộ Chính trị đã dồn các nhà tư tưởng thân Trung Quốc của mình vào chân tường và có thể dẫn đến một dạng định hướng lại chính sách nào đó. Đó là một lời cảnh báo được Trung Quốc xem xét rất nghiêm túc.

Bằng cách mở các cuộc đối thoại chiến lược và quốc phòng với Washington và cho phép các quan chức quân sự cấp cao Mỹ đọc các bài phát biểu có tầm ảnh hưởng ở trong nước, ĐCSVN đang ra tín hiệu cho thấy họ tin Mỹ sẽ là một bên tham gia chủ chốt ở Đông Nam Á trong thời gian tới. Đồng thời, họ đang quan tâm đến việc tỏ ra tôn kính đối với Bắc Kinh, ít nhất là về bề ngoài. Chiến lược dẫn dắt của Việt Nam là tránh phải đưa ra những sự lựa chọn khó khăn.

Đa dạng hóa các mối quan hệ

Cách thứ hai ĐCSVN dùng để cố gắng duy trì nền độc lập của mình là tìm kiếm các nguồn hỗ trợ quốc tế khác. Kể từ khi Ban chấp hành trung ương đảng phê duyệt một sự tái định hướng trong chính sách đối ngoại năm 2003, số nước Việt Nam có thỏa thuận quốc phòng đã tăng gấp 4 lần. Đến năm 2009, nước này đã có các tùy viên quốc phòng bố trí ở 31 quốc gia. Nước này đặc biệt đã vươn tới 3 nước: Nhật Bản, Ấn Độ và Nga.

Việt Nam đã chính thức hóa quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản vào năm 2006 và nâng cấp lên mức quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng vào tháng 3/2014 – cả hai thỏa thuận đều được ký khi Shinzo Abe là Thủ tướng Nhật Bản. Năm 2007, hai nước đã nhất trí thiết lập một Ủy ban hợp tác chung có gặp gỡ hàng năm, và năm 2011 là một đối thoại chính sách quốc phòng. Năm 2014, Nhật Bản nhất trí cung cấp cho Việt Nam 6 tàu – hai tàu tuần tra cũ của Cơ quan đánh bắt cá Nhật Bản và 4 tàu đánh cá thương mại cũ – cho lực lượng bảo vệ bờ biển và Lực lượng kiểm ngư của Việt Nam. Là một đồng minh của Mỹ với những mối bận tâm tương tự như Việt Nam về Trung Quốc, quan hệ Việt Nam-Nhật Bản có thể trở nên ngày càng quan trọng. Việt Nam, Nhật Bản và Ấn Độ được cho là đã bí mật nhất trí phối hợp các chính sách an ninh của họ theo một khuôn khổ ba bên.

Lịch sử đóng một vai trò quan trọng trong hai quan hệ đối tác khác. Việt Nam đánh giá cao vai trò lịch sử của Ấn Độ như là nhà quán quân trong phong trào không liên kết và là một nước cổ vũ cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc của Việt Nam trong những năm 1960 và 1970. Hiện tại, hai nước cùng chia sẻ những mối quan ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ấn Độ là đối tác chiến lược kể từ năm 2007 và hai giới lãnh đạo đã trao đổi một số cuộc viếng thăm trong những năm gần đây. Công ty năng lượng quốc doanh ONGC Videsh của Ấn Độ đã thực hiện một số khoản đầu tư vào các lô dầu ngoài khơi Việt Nam, phần lớn là không thành công – nước này đã rút khỏi lô dầu 128 tại Việt Nam vào tháng 5/2012 – và trong tháng 7/2013, Ấn Độ đã đề nghị cung cấp cho Việt Nam một khoản vay tín dụng trị giá 100 triệu USD để mua 4 tàu tuần tra.

Hợp tác quân sự cũng rất quan trọng. Ấn Độ bắt đầu huấn luyện thủy thủ tàu ngầm của Việt Nam vào năm 2013, và trong năm 2014 cũng đã đề nghị huấn luyện phi công lái máy bay chiến đấu Sukhoi của Việt Nam. Tháng 5/2015, hai nước đã ký một tuyên bố Tầm nhìn chung trong vòng 5 năm. Nhiều cuộc đàm phán đang diễn ra về việc liệu Ấn Độ sẽ xuất khẩu các tên lửa hành trình chống hạm siêu âm Brahmos cho Việt Nam hay không. Tên lửa này được hợp tác sản xuất với Nga, có báo cáo cho rằng Trung Quốc đã vận động hành lang để không bán loại tên lửa này cho Việt Nam. Tháng 8/2014, một tàu khu trục nhỏ của Ấn Độ đã diễn tập với các tàu đối tác của Việt Nam trên Biển Đông.

Việt Nam cũng đã tăng cường quan hệ với Nga. Bất chấp việc nhất trí một quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2001, quan hệ ngoại giao của Hà Nội với Moskva đã suy giảm dần đến mức gần như không còn thích hợp, đặc biệt sau việc Nga rút khỏi căn cứ của mình tại vịnh Cam Ranh vào năm 2002. Tuy nhiên một sáng kiến mới nhằm xây dựng lại quan hệ này đã được đi tiên phong bởi “những người trung thành với hệ thống” trong nội bộ ĐCSVN: những người nghi ngờ nhất đối với Mỹ nhưng lại đã mất đi lựa chọn theo đuổi quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc sau sự cố giàn khoan dầu. Những thế hệ cũ trong số các nhà lãnh đạo chính trị có chung với Moskva sự nghi ngờ về ý thức hệ đối với những ý đồ của Mỹ và ký ức về tình đồng chí trong thời chiến. Tuy nhiên, điều đó đóng một vai trò quan trọng trong tính toán an ninh của Việt Nam. Nga cung cấp khoảng 90% việc mua sắm vũ khí của Việt Nam và chi phối ngành công nghiệp dầu lửa ngoài khơi – nơi công ty liên doanh dầu khí VietSovPetro đã đi vào hoạt động kể từ giữa những năm 1980.

Tháng 7/2012, giới lãnh đạo hai nước đã lập lại quan hệ song phương của hai nước như một “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” – mức cao nhất trong ngôn ngữ ngoại giao của Việt Nam. Đây một phần là kết quả của chính sách “trở lại châu Á” của Tổng thống Vladimir Putin và một phần nhờ những nỗ lực của Việt Nam trong việc đa dạng hóa các nguồn hỗ trợ quốc tế của mình. Một động lực thứ ba có thể là việc Việt Nam mong muốn có một tiếng nói trong quan hệ của Nga với Trung Quốc và cố gắng ngăn Nga đi theo chương trình nghị sự của Trung Quốc trong những lĩnh vực có tác động tiêu cực đến Việt Nam. Tháng 11/2013, trong chuyến thăm của Tổng thống Putin đến Hà Nội, chính phủ hai nước đã ký 17 thỏa thuận bao gồm quốc phòng, dầu lửa và năng lượng hạt nhân. Một công ty Nga dự định xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam ở tỉnh Ninh Thuận, tiếp giáp với vịnh Cam Ranh.

Một năm sau, vào tháng 11/2014, Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến thăm đáp lại Nga. Trong số những thỏa thuận phái đoàn của ông đã ký có một thỏa thuận cho phép các tàu chiến của Nga tiến vào vịnh Cam Ranh dễ dàng hơn. Nga đã thực hiện những chuyến bay đầu tiên từ căn cứ này vào năm 2014 để hỗ trợ máy bay ném bom Tu-95MS bay từ Nga đến căn cứ của Mỹ tại Guam ở Thái Bình Dương. Kể từ đó, Việt Nam và Nga đã ký kết nhiều thỏa thuận hơn nữa trong đó có một thỏa thuận vào tháng 4/2015 về ý đồ của Gazprom Neft mua 49% nhà máy lọc dầu đầu tiên và duy nhất của Việt Nam, đây là một sự thất vọng về mặt thương mại. Được những người bảo thủ trong ĐCSVN dẫn dắt, một nỗ lực nâng cấp quan hệ với Nga đã hình thành nên một chiến lược đa dạng hóa quốc tế nhằm giảm sự phụ thuộc vào Mỹ hoặc Trung Quốc.

Kết luận

Việt Nam sẽ hài lòng nếu tình hình an ninh hiện nay của nước này kéo dài mãi mãi. Những căng thẳng với Trung Quốc được xử lý thông qua việc trung lập hóa và lễ nghi, quan hệ với Mỹ đang ngày càng nghiêng về phía có lợi hơn cho họ, và ASEAN nhìn chung là một khu vực láng giềng vừa ý. Có những khó khăn trong tất cả các quan hệ này nhưng không có gì đe dọa sự cầm quyền của ĐCSVN. Hà Nội muốn giành lại quần đảo Hoàng Sa từ Trung Quốc và phần còn lại của Trường Sa từ các bên tuyên bố chủ quyền khác, nhưng giới tinh hoa ở Hà Nội dường như chấp nhận rằng điều này sẽ không bao giờ xảy ra. Điều họ tìm kiếm từ các nước tuyên bố chủ quyền khác là sự công nhận nguyên trạng, không phải là nguy cơ đánh mất lãnh thổ và sự bẽ mặt. Các nước tuyên bố chủ quyền ở Đông Nam Á đang nhất trí về điều này. Chỉ có Trung Quốc là không.

Không có sự công nhận từ Trung Quốc, Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo con đường hiện tại, xây dựng quan hệ với các cường quốc khu vực và toàn cầu, phát triển một sức mạnh ngăn chặn thông qua việc mua sắm các năng lực quân sự không cân xứng, và thường xuyên cho thấy khả năng theo đuổi quan hệ an ninh gần gũi hơn với Mỹ. Đồng thời nước này sẽ ủng hộ việc hình thành các liên minh ngoại giao hỗ trợ trong ASEAN và xa hơn ẩn sau chương trình nghị sự của mình tại Biển Đông trong khi tìm cách duy trì quyền tự do hoạt động về mặt ngoại giao của riêng mình.

Việc Trung Quốc quyết định triển khai giàn khoan dầu Hải Dương-981 vào tháng 5/2014 dường như đã gây ra một suy tính lại sâu sắc trong định hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam. Nó đã dẫn đến những thảo luận thẳng thắn hơn về vai trò của Trung Quốc trong khu vực và mở ra con đường dẫn tới can dự chính trị sâu sắc hơn và quan hệ quân sự với Mỹ. Việt Nam cũng quan ngại về việc bị thua thiệt trong bất kỳ cuộc thương lượng lớn nào giữa Bắc Kinh và Washington, bị hi sinh trong một “Yalta châu Á”. Một cách để khiến điều này ít có khả năng diễn ra hơn là trở thành một đối tác đáng tin cậy và hấp dẫn hơn đối với Mỹ.

Mỹ đang xúc tiến một chương trình nghị sự về việc can dự với Việt Nam trong hơn 2 thập kỷ. Quan hệ này đã tiến triển đáng kể nhưng hiện nay nó thiếu lòng tin chiến lược, chắc chắn là ở phía Việt Nam. Cách để Mỹ xây dựng lòng tin đó với Việt Nam là thể hiện, thông qua hành động của mình, rằng Mỹ thực sự tôn trọng quyền tự trị của nhà nước-đảng- Việt Nam và cam kết giúp nước này bảo toàn nền độc lập của mình. Cùng với thời gian quan hệ này có thể phát triển thành một quan hệ đối tác thực sự.

 

Bài viết tác giả Bill Hayton được đăng trên trang nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Mỹ thuộc Đại học Sydney, Úc.

Văn Cường (gt)