27/08/2014
Nhật Bản đang có những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại để khẳng định vị thế và bảo vệ quyền lợi của mình trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều biến động sâu sắc. Bài viết trên tạp chí “Tin toàn cầu” mới đây có một số phân tích về vấn đề này, nội dung như sau:
1. Sự phát triển “vùng xám” trong quan hệ Nhật-Mỹ xung quanh quyền phòng vệ tập thể
Việc diễn giải mới nhất về Điều 9 “chống chiến tranh” trong Hiến pháp 1947 của Nhật Bản, được Chính quyền Shinzo Abe thông qua ngày 1/7/2014, đã trở thành một trong những sự kiện quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Sự kiện này sẽ định hình bản đồ chính trị khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Động thái này của Chính phủ Nhật Bản sẽ điều chỉnh hình thức hợp tác Mỹ-Nhật về chính trị và quân sự. Chúng ta đang nói về một sự điều chỉnh lớn trong cơ cấu tứ giác chiến lược xuất hiện ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Điều quan trọng cần phải chú ý ở đây là tâm điểm của vấn đề nằm ở trọng tâm trong quan hệ Mỹ-Nhật. Hiệp ước đầu tiên về tăng cường hợp tác giữa hai nước được thông qua vào năm 1951, một năm trước khi ký kết Hiệp ước hòa bình San Francisco sau chiến tranh Thái Bình Dương vào cuối năm 1960. Do đó, nội dung cơ bản trong liên minh quân sự-chính trị song phương đã không thay đổi, và trong một chừng mực nhất định nào đó có thể được gọi bằng công thức đơn giản: “người bảo vệ-Mỹ” và “người được bảo vệ-Nhật Bản”.
Cấp độ trong mối quan hệ này được điều chỉnh bằng hai xu thế quan trọng trong nửa cuối những năm 1990. Xu thế thứ nhất là tầm quan trọng về vai trò của Mỹ trong bối cảnh tình hình thế giới bị suy giảm, cùng với sự nảy sinh vấn đề về sự phụ thuộc về an ninh của các đồng minh chủ chốt vào Mỹ. Xu thế thứ hai là quá trình “bình thường hóa” của chính Nhật Bản. Cả hai xu thế trên đều được thể hiện trong mô hình đổi mới dạng thức liên minh Mỹ-Nhật đã được nêu ra trong cái gọi là “Định hướng hợp tác quốc phòng Nhật-Mỹ” năm 1997.
Quyền hạn sử dụng Lực lượng Phòng vệ (SDF) trong khuôn khổ phòng vệ tập thể mà Nhật Bản thông qua ngày 1/7 dù khá hạn chế nhưng hành động này của Chính phủ Nhật Bản thể hiện một bước đi quan trọng theo hướng tự chủ hơn của Tokyo trước các mối quan ngại về an ninh quốc gia. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã hoan nghênh động thái này của Chính phủ Nhật Bản. Không có phản ứng nào khác nữa từ giới lãnh đạo Bộ Quốc phòng Mỹ kể từ khi Lầu Năm Góc yêu cầu đồng minh “tăng cường đóng góp vào sự phòng vệ chung” trong 15 năm qua. Lời kêu gọi này đặc biệt phù hợp trong những năm gần đây khi sự suy giảm trong nền kinh tế Mỹ bắt đầu đòi hỏi phải giảm dần chi tiêu ngân sách quốc phòng của Nhà Trắng.
Tuy nhiên, các vấn đề trong chính sách của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương từ lâu đã vượt ra khỏi phạm vi phòng thủ đơn thuần, vì trong 15 năm qua, đã có sự thay đổi đáng kể về việc xác định các mối đe dọa đến sự ổn định. Những mối đe dọa đó là cội nguồn của tiến trình “bình thường hóa” của Nhật Bản và là bản chất của sự tác động lên quan hệ Trung-Nhật. Vấn đề này ngày càng trở nên liên quan do sự thay đổi nhất định trong chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc.
Liệu Mỹ sẽ phải gánh chịu “hậu quả tất yếu” do (các nghĩa vụ với đồng minh) việc tham gia chiến tranh thế giới xuất phát từ những “mâu thuẫn không mấy quan trọng” (theo quan điểm của Mỹ) hay không? Một ví dụ về mâu thuẫn là sự đối đầu không lường trước trong quan hệ Trung-Nhật về việc sở hữu một nhóm các đảo không có người sinh sống ở biển Hoa Đông. Sự bất ổn của một triển vọng như vậy lý giải cho những phản ứng hạn chế của giới chuyên gia, báo chí Mỹ về bước đi quan trọng tiếp theo của Chính phủ Nhật Bản đối với việc bình thường hóa của nước này.
Những lo ngại tương tự cũng chi phối nội dung các cuộc đàm phán song phương về dự thảo mới Định hướng hợp tác quốc phòng Nhật-Mỹ vốn không thay đổi gì kể từ năm 1997. Những cuộc đàm phán này được Thứ trưởng Quốc phòng hai nước tổ chức và bắt đầu tại Tokyo từ ngày 15/7. Vấn đề nằm ở sự bất lực của các bên trong việc xác định nghĩa vụ của nhau về cái gọi là “vùng xám” của một cuộc xung đột có nhiều khả năng xảy ra, điều không bao hàm cái cớ “tự động thực hiện nhiệm vụ” từ một bên của đồng minh. Đối với Nhật Bản, điều quan trọng là nhận được sự ủng hộ (trang bị vũ khí khi cần thiết) của Mỹ trong trường hợp SDF phải đối mặt với một nhóm vũ trang nhỏ “không rõ quốc tịch” có thể đổ bộ lên đảo Senkaku/Điếu Ngư. Nhưng điều này đã được Mỹ tuyên bố rõ ràng (như đã đề cập ở trên) nếu chúng ta để ý một chút rằng Washington không có ý định tham gia kịch bản này.
Trong khi đó, Mỹ muốn được quyền sử dụng lực lượng SDF trong cuộc xung đột giả định ở khu vực vô cùng quan trọng đối với Mỹ, ví dụ như ở Vùng Vịnh. Ở những khu vực xa xôi đó, Nhật Bản sẵn sàng tham gia nhưng với sự hạn chế tối thiểu, rất nhỏ. Nhìn chung, Nhật Bản không mấy sẵn sàng triển khai SDF trong những cuộc xung đột nghiêm trọng ở quá xa nước này. Đáng chú ý là sự diễn giải không rõ ràng về “ba điều kiện mới” trong việc triển khai SDF đã được Chính phủ Nhật Bản công bố hôm 1/7 đã gây nên sự xáo trộn ở Nhật Bản. Ngay trước thềm bầu cử địa phương bắt đầu vào mùa Xuân tới thì đảng Dân chủ Tự do cầm quyền tìm cách tránh né những cuộc tranh luận trên toàn quốc về chủ đề không được ủng hộ liên quan đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của SDF.
Cơ quan lập pháp cung cấp mọi câu trả lời cho tất cả các vấn đề nảy sinh trong xã hội hiện tại do việc áp dụng quyền phòng vệ tập thể chỉ có thể đưa ra trong phiên họp Quốc hội tới, bắt đầu vào tháng 1/2015. Các chuyên gia Nhật Bản không loại trừ khả năng việc diễn giải khác nhau về nghĩa vụ liên quan giữa hai bên, giống như Nhật Bản sở hữu vấn đề diễn giải một số thuật ngữ mới trong triển khai SDF, có thể trì hoãn các cuộc đàm phán nói trên giữa giới chức quốc phòng hai nước. Điều này khiến cho triển vọng dự thảo một phiên bản mới của Định hướng hợp tác Nhật-Mỹ có thể kéo dài đến cuối năm nay theo như kế hoạch mà lãnh đạo hai nước đã dự tính sẽ phải hoãn lại.
Cuối cùng, cần phải chú ý rằng vấn đề diễn giải xuất hiện trong quan hệ Nhật-Mỹ có thể được nhìn thấy trong một số lĩnh vực, kể cả các vấn đề chính trị và kinh tế. Ví dụ, những vấn đề đó đã tái xuất hiện trong các cuộc đàm phán khó khăn về kết luận trong các thỏa thuận về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương. Tất cả các điều này về bản chất chỉ là Nhật Bản đang muốn trở thành một cường quốc thế giới vì lợi ích của riêng mình mà không phải lúc nào cũng trùng với lợi ích của Mỹ, trong khi cuộc chơi chính trị ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới ngày càng trở nên phức tạp.
2. Hoạt động trên thực địa: Nhật Bản tham gia tập trận quân sự Mỹ-Ấn
Từ ngày 25/7-1/8, Nhật Bản đã tham gia cuộc tập trận hải quân chung với Mỹ và Ấn Độ với tên gọi “Tập trận Malabar”. Sự kiện này đã thu hút sự quan tâm chú ý của cả giới phân tích quân sự lẫn chính trị, đặc biệt là đánh giá về tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng như tại Ấn Độ Dương.
Hai khu vực này ngày càng trở nên thống nhất làm một. Điều này được khuyến khích thêm bởi sự chuyển đổi sang vai trò cường quốc lãnh đạo hàng đầu thế giới của Ấn Độ, đặc biệt trong vấn đề lợi ích đang bắt đầu vượt ra khỏi phạm vi vùng biển Ấn Độ Dương, chủ yếu theo hướng Đông. Đồng thời Trung Quốc, Nhật Bản, những gã khổng lồ châu Á khác đang bắt đầu thể hiện sự quan tâm ngày càng tăng đến Ấn Độ Dương.
Địa điểm tổ chức cuộc tập trận quân sự lần này mới đáng phải chú ý. Tất cả các tàu chiến đều tập trung tại cảng Sasebo, ở quần đảo Kyushu, nằm tại cực Nam của 4 đảo chính của Nhật Bản. Cảng này là một trong những căn cứ chủ chốt của Hạm đội Hải quân đế quốc Nhật Bản và sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, Sasebo đã trở thành căn cứ của Hạm đội 7 hải quân Mỹ. Cảng Sasebo đóng vai trò tiếp tế về hậu cần cho Hải quân Mỹ trong Chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam cùng với các cuộc xung đột vũ trang ở Trung Đông trong những thập kỷ qua.
Hiện tại, Sasebo là một căn cứ quan trọng cho hải quân Mỹ và Nhật Bản. Và nếu giới quan sát cùng báo chí được mời tham dự cuộc tập trận quân sự năm nay đã quen với việc tàu chiến của Nhật Bản, Mỹ neo đậu tại hải cảng này, sự hiện diện của lực lượng hải quân Ấn Độ đã tạo cho họ một lý do để đưa ra nhận định rằng cuộc diễn tập đã không còn nằm trong khuôn khổ tập trận hải quân thông thường.
Thực tế, không chỉ Ấn Độ đã tham gia nhiều cuộc tập trận Mỹ-Nhật truyền thống mà Nhật Bản (lần thứ ba) cũng đã tham gia cuộc tập trận Mỹ-Ấn “Tập trận Malabar” được tổ chức thường niên kể từ năm 2005. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên cuộc tập trận được chuyển dịch từ khu vực vịnh Bengal ở Ấn Độ Dương sang khu vực phía Tây Thái Bình Dương.
Liên quan đến vấn đề này, giới phân tích không còn nghi ngờ vì về ngụ ý chống Trung Quốc trong cuộc tập trận vừa qua. Mặc dù kịch bản chính thức được đưa ra với những ngôn từ trung lập, giới hạn trong việc chống lại mối đe dọa “chủ nghĩa khủng bố và cướp biển trên các tuyến thương mại hàng hải quan trọng”. Tuy nhiên, trên thực tế, khu vực tập trận chống “khủng bố” hay “cướp biển” từ lâu chưa bao giờ xảy ra hiện tượng này. Đó chỉ là cách tiếp cận gián tiếp khu vực lãnh thổ tranh chấp ở biển Hoa Đông và Biển Đông.
Trong năm qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều lý do “đúng đắn về mặt chính trị” để chứng minh cho các hoạt động tập trận quân sự được các cường quốc thế giới tổ chức. “Tập trận Malabar” không liên quan đến những mối quan ngại thực sự đối với ai đó khi đưa ra những lý do chung chung “khủng bố”, “cướp biển”. Đối với những phần tử khủng bố, cướp biển thực sự, họ không đưa ra bất kỳ lời giải thích nào về nguyên nhân có thể gây hấn. Rõ ràng, những đối tượng này không biết được những thông tin trên, nhưng lòng tự trọng của họ sẽ tăng lên đáng kể nếu họ biết được rằng mình là nguyên nhân chính gây nên những cuộc tập trận cực kỳ tốn kém và quy mô lớn kiểu như trên.
Cùng giọng điệu như vậy, Ấn Độ cũng đưa ra hàng loạt lý do “đúng đắn về mặt chính trị” để thay đổi khu vực “Tập trận Malabar” từ Vịnh Bengal sang khu vực cách vài nghìn dặm về phía Đông. Điều đó đã xảy ra theo kiểu một tàu khu trục và chiến hạm của Ấn Độ đang thực hiện một cuộc tập trận chung “Indra” với các tàu chiến của Hạm đội Thái Bình Dương của Nga và trên đường trở về, họ dừng chân ở cảng Sasebo “mà không cần bất kỳ lý do rõ ràng nào”. Cảng biển này, như đã đề cập ở trên, là nơi tàu chiến của hải quân Mỹ và Nhật Bản neo đậu. Tại sao tàu hải quân Ấn Độ lại không đi theo tuyến đường và neo đậu ở nơi khác?
Rõ ràng, mô hình tập trận quân sự đã được lên kế hoạch từ đầu năm nay và không phải ngẫu nhiên mà nó bị chi phối bởi những diễn biến tiến triển trong cuộc chơi chính trị ở khu vực. Kể từ khi Ấn Độ đứng đằng sau kế hoạch tập trận này, nước này đã quyết định mời Nhật Bản tham gia. Bước đi này đã được cựu Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe quyết định trong chuyến thăm New Delhi vào hồi tháng 1/2014.
Những năm gần đây, có nhiều đồn đoán cho rằng Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ có thể hình thành một cái gì đó giống như “liên minh kiềng ba chân ở châu Á” trực tiếp chống lại Trung Quốc. Hoạt động ở khu vực này và mô hình “Tập trận Malabar” có thể được các nhà hoạch định chính sách sử dụng để đem lại lợi thế cho họ.
Tuy nhiên, chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc thể hiện sự không mấy mặn mà trong việc tham gia cuộc đối đầu trực tiếp, đặc biệt khi nguyên nhân gây nên cuộc đối đầu kiểu này không mấy quan trọng. Điều này có thể giải thích cho thực tế rằng hải quân Trung Quốc đã tham gia cuộc tập trận hải quân RIMPAC năm nay, vốn thường được tổ chức hai năm một lần và do Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ chủ trì. Hoạt động của RIMPAC gần giống như mô hình của “Tập trận Malabar” năm nay.
Rõ ràng, Bắc Kinh cần chú ý hơn đến hai đối tác tham gia tập trận năm nay (Ấn Độ, Nhật Bản) khi vài năm qua hai nước này đã tái lập quan hệ toàn diện. Có thể Chính phủ Ấn Độ do Thủ tướng Narendra Modi đứng đầu đã tạo cho quá trình này một động lực mới.
***
Từ ngày 27/7-3/8/2014, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã thực hiện chuyến thăm 11 ngày tới 5 nước Mỹ Latinh gồm Mexico, Trinidad và Tobago, Colombia, Chile, Brazil nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế; hợp tác trong các lĩnh vực tài nguyên; phát triển năng lượng và hạ tầng. Hiện tại, Mỹ Latinh mới chỉ chiếm 5% kim ngạch xuất khẩu và 4% kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản, trong đó chủ yếu là nguyên vật liệu và nông phẩm. Trước đó, Tổng thống Nga Vladimir Putin và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng thực hiện chuyến thăm tương tự. Lãnh đạo các nước trên đã lên kế hoạch thực hiện chuyến thăm Mỹ Latinh trong thời gian tham dự Hội nghị thượng đỉnh BRICS tổ chức tại Brazil.
Do vậy, chỉ riêng trong tháng 7/2014, Shinzo Abe đã trở thành nguyên thủ thứ ba của các cường quốc hàng đầu thế giới nhận thấy cần phải thực hiện một cuộc hồi hương chính trị về khu vực Mỹ Latinh, vốn được các cường quốc xem là sân sau về chính trường, đặc biệt là Mỹ.
Quá trình kéo dài một thế kỷ biến Mỹ Latinh thành sân sau trong chính sách đối ngoại của Mỹ đã kết thúc vào đầu thế kỷ 20 khi khu vực ảnh hưởng giữa Anh và Mỹ đã bị chia tách. Tại thời điểm này, Anh đạt đến đỉnh cao quyền lực dù rằng sau đó nước này không có đủ khả năng để kiểm soát vùng lãnh thổ rộng lớn. Cũng vào thời điểm đó, một ứng cử viên mới cho vị trí lãnh đạo bắt đầu tăng cường hoạt động quân sự-chính trị và kinh tế của mình.
Đã có rất nhiều sự kiện diễn ra trong hàng trăm năm qua. Đó là hai cuộc chiến tranh đẫm máu lớn (Chiến tranh thế giới thứ Nhất, thứ Hai và một cuộc Chiến tranh Lạnh). Việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh khởi đầu cho một quá trình suy giảm về vai trò của Mỹ trên thế giới, đồng thời Trung Quốc nổi lên như một ứng cử viên mới cho vị trí lãnh đạo và hai quốc gia bại trận lớn nhất trong Chiến tranh thế giới thứ Hai, Nhật Bản và Đức đã quay trở lại chính trường thế giới.
Sự thay đổi cơ bản trong cuộc chơi toàn cầu, xuất hiện vào thời điểm kết thúc Chiến tranh Lạnh, là sự chuyển dịch trọng tâm chính trường từ khu vực châu Âu-Đại Tây Dương (là tâm điểm trong nhiều thế kỷ) sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong trường hợp này, ở cả hai lục địa Mỹ, hiện giờ đã hình thành đường ranh giới phía Đông của khu vực này trong đó các sự kiện chính trị lớn sẽ phải diễn ra. Tuy nhiên, vai trò của hai lục địa về cơ bản vẫn khác nhau.
Nếu lục địa Bắc Mỹ do Mỹ lãnh đạo (trong đó có Mexico, là quốc gia Mỹ Latinh điển hình tham gia hội nhập vào quan hệ kinh tế Bắc Mỹ thông qua tổ chức Khu vực Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), và là một trong những quốc gia chính trong cuộc chơi ở khu vực này) thì Nam Mỹ cũng là một chủ thể trong cuộc chơi này. Tuy nhiên, tầm quan trọng của chủ thể này trên chính trường quốc tế ngày càng tăng cường và điều đó lý giải cho sự quan tâm chú ý ngày càng lớn mà các cường quốc thế giới đang tập trung vào lục địa này.
Hai cường quốc dành sự quan tâm đặc biệt cho châu lục này phải kể đến Trung Quốc, Nhật Bản, vốn đang cố gắng liên tục tìm cách qua mặt nhau ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và cuộc chơi này sẽ quyết định phần lớn đến toàn bộ cục diện chính trị tại khu vực. Cho đến thời điểm hiện tại, có thể chứng kiến rõ ràng cuộc chơi ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, điều hoàn toàn không ngờ tới là các nước trên lại nhằm đến Bán đảo Triều Tiên và giờ đây là Mỹ Latinh.
Trong chừng mực nào đó, bản chất của sự cạnh tranh Trung-Nhật tương tự như tình hình trên sân bóng đá nơi tiền vệ tấn công nguy hiểm, chủ công được dành sự “quan tâm chăm sóc đặc biệt” từ thành viên đội bóng đối thủ. Trong suốt trận đấu, cả hai đội đều có thể chạy lặng lẽ bên nhau. Lãnh đạo hai cường quốc Trung-Nhật “im lặng” trong việc tìm cách áp đặt sự thống trị của mình khi họ không thể giải quyết mọi vấn đề rắc rối song phương trong quan hệ hai nước từ nhiều năm qua. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, “sự quan tâm chăm sóc đặc biệt” được nhìn thấy không chỉ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Rõ ràng, Nhật Bản đang theo đuôi Trung Quốc ở Tây Âu và dường như cả ở Nga.
Có một số kết quả quan trọng mà Thủ tướng Shinzo Abe đã ghi điểm ở Mỹ Latinh. Một trong số đó là cam kết của Thủ tướng Nhật Bản đối với các nước trong khu vực trong cuộc gặp với Cộng đồng Caribbean (CARICOM - một tổ chức tập hợp 15 quốc gia có chủ quyền và các khu vực phụ cận với mục đích thúc đẩy hội nhập kinh tế, hợp tác giữa các thành viên để đảm bảo cho quyền hội nhập, chia sẻ công bằng và phối hợp chính sách đối ngoại). Khi đến thăm Trinidad và Tobago, Shinzo Abe tuyên bố ông sẽ hỗ trợ tài chính cho 14 quốc gia Caribbean. Sự kiện này khiến giới phân tích nhớ lại sự kiện một năm trước đây, các nước Caribbean cũng đã cố gắng tìm cách tổ chức một cuộc gặp gỡ với Tập Cận Bình khi ông thăm Trinidad và Tobago.
Tại Colombia, Shinzo Abe tuyên bố kế hoạch của Nhật Bản phát triển quan hệ kinh tế với một nhóm các nước, thành lập cái gọi là “Liên minh Thái Bình Dương” vẫn không thay đổi. Khối thương mại tập hợp các nước Chile, Colombia, Mexico và Peru đã được thành lập vào năm 2012. Các bên liên quan đã ra quyết định tăng cường quá trình đám phán để hoàn thiện Hiệp định thương mại giữa Nhật Bản và các nước thành viên trong khối thương mại.
Điểm dừng chân cuối cùng trong chuyến thăm Mỹ Latinh của Shinzo Abe là Brazil. Kết quả các cuộc đàm phán thành công với Tổng thống quốc gia lớn nhất Mỹ Latinh Dilma Rousseff là một số thỏa thuận trong lĩnh vực hợp tác kinh tế đã được ký kết, trong đó có thỏa thuận hợp tác ở các nước thứ ba. Nhật Bản và Brazil cũng nhất trí về một số thỏa thuận trong nhiều lĩnh vực như y tế và sức khỏe cộng đồng, khoa học đại dương, truyền phát kỹ thuật số và phòng chống thiên tai. Nhật Bản nhấn mạnh sẽ chú trọng đầu tư vào lĩnh vực năng lượng của Brazil, đồng thời sẽ hỗ trợ Brazil xây dựng đường sá, cảng biển và các cơ sở hạ tầng khác nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản.
Sự quan tâm chú ý đặc biệt của giới truyền thông đã được thể hiện qua tuyên bố mà lãnh đạo hai nước đưa ra về sự cần thiết phải cải tổ Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Nhật Bản, Brazil là những nước tiếp tục nêu lên chủ đề từ lâu đã được các cường quốc thế giới nêu ra như Ấn Độ, Đức.
Một số nhà bình luận cho rằng chuyến thăm của Thủ tướng Nhật Bản đã đạt được một số thành quả nhất định. Nhằm trao đổi để thúc đẩy phát triển kinh tế với các nước Mỹ Latinh, Shinzo Abe muốn tranh thủ lá phiếu ủng hộ của những nước này trong cuộc bỏ phiếu tại Liên hợp quốc vào năm tới về đề xuất Nhật Bản có được chiếc ghế thành viên không thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cũng như tranh thủ thêm sự ủng hộ trong cuộc tranh chấp với Trung Quốc xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.
Nếu Nhật Bản có thể dựa vào sự ủng hộ của các nước Mỹ Latinh để trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thì trong vấn đề thứ hai, lãnh đạo các nước Mỹ Latinh, dù rằng nhiệt liệt hoan nghênh lợi ích kinh tế được phía Nhật Bản cung cấp, nhưng cũng tuyên bố rõ ràng họ sẽ không thể hiện quan điểm ưu tiên khi ai đó đề cập đến tranh chấp với Trung Quốc.
Cuối cùng, kết quả quan trọng đạt được trong chuyến công du Mỹ Latinh của Thủ tướng Shinzo Abe là sự khẳng định về xu thế mới nhất trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản, trong đó hàm ý nỗ lực để đạt được sự độc lập lớn hơn khỏi đồng minh chủ chốt của nước này là Mỹ. Trên cơ sở những thành công mới nhất của Nhật Bản trong việc thúc đẩy quan hệ với các tổ chức hợp tác kinh tế để quan hệ với các nước châu Âu, châu Phi và giờ đây là Mỹ Latinh, sự thành công trong việc thành lập “Đối tác xuyên Thái Bình Dương” đến nay một lần nữa vẫn chưa đạt được./.
Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông là chuỗi hội thảo thường niên do Học viện Ngoại giao (DAV) tổ chức, với mục tiêu thúc đẩy đối thoại chuyên sâu, cởi mở và thẳng thắn về những diễn biến đa chiều liên quan đến Biển Đông.
Ngày 1 tháng 7 năm 2022, Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao đã tổ chức kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Viện. Ngày 12 tháng 7 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định thành lập Viện Biển Đông, trực thuộc Học viện Ngoại giao, là đơn vị chuyên nghiên cứu về các vấn đề bảo vệ biển, đảo,...
Nhằm đẩy mạnh phong trào nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề liên quan đến Biển Đông cũng như tình hình khu vực và thế giới trong sinh viên đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng, Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông ban hành Quy định về Chương trình Học bổng Thắp sáng Đam mê Nghiên cứu Biển Đông.
Bất kể lo ngại về cam kết của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nước Mỹ dưới Chính quyền Joe Biden thực sự đã “quay lại”.
Chỉ trong vòng 1 tuần từ ngày 28/7 đến ngày 4/8, Cục Hải sự tỉnh Hải Nam và tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) liên tục ra 10 thông báo về các cuộc tập trận quân sự trên biển. Đáng chú ý nhất trong số đó là cuộc tập trận phạm vi lớn nhất trên Biển Đông kéo dài từ ngày 6-10/8. Các chuyên gia của Trung Quốc...