nhat-ban.jpg

Tóm tắt

Bài viết nói về những sự kiện xảy ra gần đây tại Biển Đông và việc bắt đầu xem xét đơn kiện của Phi-líp-pin đối với Trung Quốc tại Tòa án trọng tài thường trực phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về luật Biển 1982 (UNCLOS 1982). Quá trình chuẩn bị cho vụ án diễn ra đã hơn hai năm, bất chấp việc Trung Quốc dứt khoát từ chối hợp tác với tòa án. Tháng 7/2015 tại La Hay đã bắt đầu giai đoạn cuối cùng - tố tụng giữa các bên. Cho đến thời điểm hiện tại, dưới những hình thức khác nhau, nhưng cả nguyên đơn lẫn bị đơn (với văn bản bổ sung không công nhận thẩm quyền xét xử của tòa án) đều giới thiệu cho dư luận thấy những lập luận chi tiết của mình về nội dung của những đòi hỏi trong đơn kiện đã đệ trình và văn bản chống lại chúng. Chúng đại diện cho những lợi ích căn bản đối với tất cả những ai có liên quan đến những sự kiện diễn ra tại khu vực này.

Vòng tranh chấp mới ở Biển Đông

Những sự kiện ở Trung Đông và cuộc khủng hoảng U-crai-na đôi lúc đã làm lu mờ cuộc xung đột khi thì bùng cháy, khi thì lắng dịu ở Biển Đông. Nhưng quá trình phát triển sự kiện tại phía tây khu vực châu Á - Thái Bình Dương này đang ngày càng trở nên nguy hiểm với cộng đồng thế giới. Người ta nhận thấy vào các quý 2 và quý 3 hàng năm, nghĩa là thời kỳ từ tháng 4 đến tháng 9, mâu thuẫn và tranh chấp tại đây lại tiến đến đỉnh điểm. Điều này có thể liên quan tới thời tiết (mùa khô) cũng như khí hậu chính trị chung trong khu vực. Người ta còn lưu ý tới tính chu kì trong chính sách của Trung Quốc, trong đó cứ 3 đến 4 tháng gây căng thẳng lại tiếp đến chừng ấy tháng lắng dịu.

Từ đầu năm 2015, việc Trung Quốc bành trướng lãnh thổ trên những rạn san hô và bãi cạn trong quần đảo Trường Sa, biến chúng thành những đảo nhân tạo với ý đồ xây dựng đường băng cho các loại máy bay cất và hạ cánh, bến tàu, kho bãi cùng nhiều công trình khác đã làm dấy lên đợt khủng hoảng mới, nhưng lần này có sự tham gia tích cực của Mỹ - quốc gia vốn không thể nào chấp nhận được việc Biển Đông sẽ trở thành một tỉnh hải đảo của Trung Quốc. Trên các phương tiện truyền thông xuất hiện vô số những ảnh chụp từ vệ tinh, cho thấy có những công trình xây dựng qui mô lớn. Người ta ngày càng nói nhiều đến ý đồ của Trung Quốc định xây dựng một “tàu sân bay không thể chìm” ở Biển Đông, trên đó có thể bố trí đường băng cất hạ cánh, thiết bị ra-đa và cảng biển cho tàu đánh cá và tàu quân sự. Những căn cứ này có thể tiếp nhận máy bay ném bom chiến lược N-6 của Trung Quốc có bán kính hoạt động đến 6000 km và có thể bay đến bất kì điểm nào của phía bắc Ô-xtrây-li-a với trang bị tên lửa có thể phá hủy những căn cứ của Mỹ ở Ô-xtrây-li-a và kiểm soát mọi hành động tại eo biển Malacca. Trung Quốc rõ ràng đang chuẩn bị triển khai sức mạnh quân sự của họ ngay từ trung tâm khu vực lên khắp các vùng khác của khu vực.

Người Mỹ rõ ràng lo ngại, trước tiên là trước qui mô bồi đắp chưa từng có của những công trình này, chúng có thể làm đảo lộn toàn bộ tình hình trong khu vực. Theo nhiều số liệu, Trung Quốc đã mở rộng lãnh thổ biển của mình lên khoảng 800 hecta hay gấp bốn lần so với diện tích tổng cộng của các đảo mà những nước khác có yêu sách tại Biển Đông.[1] Vào tháng 5/2015, máy bay trinh sát của Mỹ đã thực hiện một số chuyến bay trên những đảo nhân tạo này, chở theo nhóm phóng viên ảnh của CNN và họ đã chụp được tất cả những công trình đã và đang được xây dựng, ghi lại lời yêu cầu dọa dẫm từ tàu chiến Trung Quốc “hãy lập tức rời khỏi lãnh hải của Trung Quốc”. Hậu quả là một vụ bê bối ầm ĩ đã nổ ra xung quanh lời đe dọa này. Vấn đề đã được đưa lên trang đầu của những tờ báo lớn nhất thế giới. Những lời lẽ hiếu chiến vang lên trên các phương tiện truyền thông và tuyên bố của các bên xung quanh vụ việc này, đặc biệt là ở Mỹ và Trung Quốc.

Các học giả và giới truyền thông Trung Quốc khẳng định trong luật pháp quốc tế không có điều khoản nào cấm việc mở rộng lãnh thổ nhân tạo và họ nêu ví dụ thành phố Thượng Hải, cảng hàng không Nhật Bản ở Nagasaki, Hồng Kông và Dubai. Nhưng không ví dụ nào ở đây có thể so sánh được với những gì đang diễn ra ở Biển Đông. Việc mở rộng lãnh thổ ở đây diễn ra không phải nhằm cải thiện điều kiện sống trên những hòn đảo bị tàn phá bởi tác động của thiên tai hay do hoạt động của con người. Trung Quốc lấy hàng ngàn tấn cát từ đáy biển đổ lên những rạn san hô với mục đích xây dựng đảo nhân tạo. Việc này không chỉ làm thay đổi tận gốc rễ tình hình chung, mà còn làm thay đổi toàn bộ hệ sinh thái đang bảo đảm nguồn cá rất đáng kể, có ý nghĩa quan trọng, sống còn đối với các nước ven biển. Ở đây phải thấy một điều rằng họ đang muốn đánh lạc hướng khi khẳng định Trung Quốc mở rộng vùng lãnh thổ mà trên đó họ có toàn bộ chủ quyền. Họ xây dựng những công trình nhân tạo cả trên những bãi đá nhỏ nhô lên khỏi mặt nước, mà theo Công ước Liên Hợp Quốc về luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) thì không thể đòi hỏi chủ quyền trên những kiến tạo này. Không thể dựa vào chúng để thiết lập cả lãnh hải với không phận ở phía trên chúng, lẫn vùng đặc quyền kinh tế xung quanh chúng nữa. Trong điều 56, 60 và 80 của UNCLOS 1982 đã ghi rõ điều này. Quyền chủ quyền đối với chúng chỉ thuộc về quốc gia ven biển mà chúng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia đó.

Yêu sách khăng khăng đòi quyền chủ quyền của Trung Quốc trong hoàn cảnh như vậy, theo ý kiến của chuyên gia nổi tiếng người Ô-xtrây-li-a về vấn đề Đông Nam Á (ĐNÁ), ông Carl Thayer, đó là “một trong những hình thức của thuật giả kim về pháp lý, tức là họ dựa vào nó để mưu biến những bãi cạn hay tảng đá ngập nước thành những hòn đảo hình thành một cách tự nhiên.”[2]

Xung đột về chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông dường như đã bước sang giai đoạn mới, mà đặc trưng là việc tranh chấp không chỉ bùng lên giữa Trung Quốc với các nước láng giềng ở ĐNÁ, mà cả giữa Trung Quốc với các cường quốc khác như Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ. Xung đột này trở thành trung tâm sự chú ý của cuộc Đối thoại Shangri - La ở Xinh-ga-po diễn ra từ ngày 28-30/5/2015, vốn được coi là phiên bản châu Á của Diễn đàn an ninh hàng năm ở Munich (Đức). Nguy cơ khủng hoảng ngày càng trầm trọng ở Biển Đông đã được các nhà lãnh đạo các cường quốc phương Tây hàng đầu nhìn nhận tại cuộc họp cấp cao G7 diễn ra tại Đức tháng 6/2015 vừa rồi. Các nhà lãnh đạo nhấn mạnh về sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình và bảo đảm quyền của tất cả các quốc gia được tự do sử dụng đại dương thế giới mà không bị bất kỳ sự cản trở nào. Đồng thời, họ cực lực phản đối việc đe dọa và gây sức ép bằng vũ lực, cũng như chống lại bất kì hành động đơn phương nào, như kiểu mở rộng lãnh thổ qui mô lớn và xây dựng các đảo nhân tạo làm thay đổi nguyên trạng khu vực. Tuy không nêu đích danh Trung Quốc, nhưng người ta hoàn toàn có thể hiểu được các nhà lãnh đạo phương Tây đang ám chỉ ai và muốn nhằm vào ai. Trước đó các cường quốc hàng đầu châu Âu giữ thái độ trung lập trước những hành động của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông, nhưng giờ đây họ đứng về phía Mỹ và Nhật Bản.

Như vậy là các thế lực bên ngoài đã bước lên sân khấu. Trong tình hình như vậy, Trung Quốc cũng như trước đây, lên tiếng cực lực phản đối việc quốc tế hóa cuộc xung đột và sự can thiệp của các cường quốc khác vào công việc mà họ cho là “trên những hòn đảo thuộc về họ”. Còn bản thân những bên yêu sách khác trong các nước ASEAN thì về cơ bản đa số họ vẫn muốn đứng sau hậu trường, tỏ thái độ nước đôi đối với sự can dự từ bên ngoài. Họ một lần nữa cho thấy hoàn toàn không muốn đứng về phía ai, cả Trung Quốc lẫn Mỹ, bởi trong cả hai trường hợp đều đầy rẫy những hậu quả hoàn toàn không mong muốn đối với họ. Thêm vào đó nhân tố bên ngoài cũng không làm mất đi vấn đề chính trong cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc với các bên liên quan  khác.

Biển chỉ có một, nhưng có tới bảy bên có yêu sách

Biển Đông là con đường ngắn nhất từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương, một trong những tuyến đường hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới đi qua. Eo biển Malacca là eo biển tấp nập nhất thế giới, có đến hơn một nửa tải trọng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển hàng năm của thế giới đi qua eo này. Cả trữ lượng cá và hải sản phong phú của Biển Đông và cả dầu mỏ đã và sẽ khai thác cũng có vai trò lớn ở Biển Đông.

Tình trạng thiếu một quy chế pháp lý cho Biển Đông đã dẫn tới những vụ tranh chấp về pháp lý, xung đột ngoại giao và đụng độ nguy hiểm liên tiếp diễn ra. Tranh chấp biểu hiện trên ba vấn đề: ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; chủ quyền đối với các đảo; tự do đi lại trên Biển Đông và đến các quần đảo.

Lãnh thổ tranh chấp trên Biển Đông bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như một dãy đảo nhỏ và rạn san hô Scarborough nằm ở đông - bắc quần đảo Trường Sa (gần Phi-líp-pin) là đối tượng tranh chấp tay đôi giữa Trung Quốc với Phi-líp-pin. Còn quần đảo Hoàng Sa là đối tượng tranh chấp tay đôi giữa Trung Quốc và Việt Nam, tuy nhiên có cả Đài Loan cũng là một bên yêu sách đối với quần đảo này. Tại quần đảo Trường Sa có Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan yêu sách chủ quyền toàn bộ, còn Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a và Bru-nây đòi chủ quyền một phần.

Tình hình tại quần đảo Trường Sa, theo Cơ quan Trinh sát Địa vũ trụ Quốc gia Mỹ từ năm 2004, có thể tóm tắt như sau: (i) Việt Nam có 21 đảo, trong đó có 5 đảo tự nhiên và 4 bãi đá hoặc bãi cát nhô trên mặt biển. Tính cả thảy không quá 17 đảo có thể có một qui chế lãnh thổ nào đó. Còn lại là những dải đá không lớn nhô khỏi mặt nước hoặc bị nước bao phủ. Việt Nam còn có khoảng 10 trạm quan sát trên những nơi khác trong vùng biển tranh chấp; (ii) Phi-líp-pin chiếm giữ 9 đảo, trong đó có 5 đảo, 3 dải đá nhô khỏi mặt nước và một rạn đá ngầm; (iii) Trung Quốc chiếm giữ 7 đảo, mà một trong số đó có đá Chữ thập (Fiery Cross Reef) luôn luôn nhô khỏi mực nước biển với độ cao đủ lớn, 6 địa điểm còn lại cho đến gần đây có thể coi là nhô khỏi mặt nước với độ cao không đáng kể. Bây giờ thì cả 7 địa điểm đó đều được biến thành những đảo nhân tạo có kích thước khá lớn; (iv) Ma-lai-xi-a chiếm giữ 5 địa điểm, mà một trong số đó là dải đá. Những địa điểm còn lại có thể là những phần đất liền nhô khỏi mặt nước, nhưng vẫn chưa có ảnh chụp khẳng định điều này; (v) Đài Loan chiếm giữ một địa điểm, nhưng là hòn đảo lớn nhất: Ba Bình và kiểm soát toàn bộ những bãi đá nhô lên gần đó; (vi) Bru-nây không có đảo nào, nhưng lại có yêu sách vùng đặc quyền kinh tế dành cho họ, trong đó có nhiều giàn khoan dầu khí thuộc về họ; (vii) In-đô-nê-xi-a cũng không tham gia tranh chấp đảo, nhưng lại yêu sách vùng đặc quyền kinh tế dành cho họ, trùng với khu vực mà Trung Quốc cũng đòi chủ quyền.

Tất cả các bên tham gia tranh chấp đều đã ký và phê chuẩn UNCLOS 1982 về luật Biển. Trước ngày 13/5/2009, họ đều phải đệ trình lên Ủy ban đặc biệt Liên Hợp Quốc đề nghị của mình về vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và ranh giới thềm lục địa. Việt Nam, Phi-líp-pin và Ma-lai-xi-a thực hiện việc này đúng thời hạn nêu ra. Tuyên bố của họ ngay sau đó liền bị Trung Quốc phản đối trong công hàm đề ngày 14/4/2009. Đồng thời, phía Trung Quốc đưa ra một bản đồ, trong đó họ vẽ lên những đường chấm chấm thành hình chữ U (Việt Nam gọi là đường “lưỡi bò”) chiếm 80% vùng nước của Biển Đông, bao gồm toàn bộ các đảo trong đó (xem Hình 1). Như đã thấy, đường này cắt xén vùng EEZ của Việt Nam, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a và Bru-nây, biến chúng thành những dải lãnh hải rất hẹp.

Cho đến tận bây giờ vẫn chưa hề có một tọa độ chỉ độ lớn và độ dài, cũng như không có một định danh nào cho đường này: cũng chẳng có lời tuyên bố nào như Ủy ban Liên Hợp Quốc yêu cầu, tất cả chỉ là lời phản đối trước tuyên bố mới ra của Phi-líp-pin, Việt Nam và Ma-lai-xi-a. Năm 2009 trên trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đường chữ “U”[3] được mô tả là ranh giới “biển lịch sử” của Trung Quốc.

Hình 1: Yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc tại Biển Đông

 

Yêu sách của Trung Quốc; vùng EEZ 200 hải lý theo Công ước 1982; các đảo tranh chấp

Nguồn: http://amti.csis.org/atlas/2r

Theo tuyên bố của các học giả và giới truyền thông Trung Quốc, thì UNCLOS 1982 không liên quan gì đến khu vực Biển Đông, bởi trên thực tế cũng như về pháp lý, Biển Đông dường như đã thuộc quyền quản lý của Trung Quốc từ thời cổ đại xa xưa.

Yêu cầu khăng khăng đòi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc ngày càng trở nên kiên quyết hơn cùng với nhu cầu ngày càng tăng của nước này về nguồn năng lượng và hải sản và tăng cường cạnh tranh với Mỹ. Những năm 2009-2012 đã mở đầu chu trình chống đối thường xuyên của những đối thủ chính – Việt Nam và Phi-líp-pin – với Trung Quốc theo công thức: “hành động - phản hành động” (action - reaction). Năm 2012 Ban lãnh đạo Trung Quốc đã xếp hạng yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông vào “lợi ích dân tộc cốt lõi” ngang hàng với Tân Cương, Tây Tạng và Đài Loan, có nghĩa là họ ứng xử với Biển Đông như là với lãnh thổ có chủ quyền của Trung Quốc. Điều này đã làm tăng độ căng thẳng ở Biển Đông lên đến mức khá cao, mà đỉnh điểm là sự kiện mùa xuân năm 2012 tại vùng bãi cạn Scarborough giữa Trung Quốc và Phi-líp-pin.

Tháng 4 năm đó, không quân Phi-líp-pin phát hiện thấy một nhóm lớn tàu đánh cá Trung Quốc tại vùng biển thuộc về vùng EEZ của nước này. Đáp lại, họ đã phái đến chiếc chiến hạm lớn duy nhất của Phi-líp-pin. Các ngư dân Trung Quốc liền gọi rất nhiều tàu tuần tiễu bán quân sự của Trung Quốc đến chi viện. Cuộc đối đầu kéo dài suốt hai tháng và qua sự trung gian của Mỹ đã dẫn đến việc rút tàu chiến của cả hai nước. Thế nhưng chỉ sau một thời gian, tàu tuần tiễu Trung Quốc lại quay lại và hoàn toàn chặn đứng không cho người Phi-líp-pin tiếp cận khu vực này nữa.

Một năm sau, trung tâm của khủng hoảng lại là những hòn đảo ở biển Hoa Đông (Điếu Ngư/Senkaku) và việc Trung Quốc thiết lập vùng Nhận dạng phòng không (ADIZ). Nhưng đặc biệt căng thẳng là thời gian tháng 5 đến tháng 7 năm 2014 khi ngày 1/5 Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ thăm dò dầu khí HD 981 vào vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa nằm sâu đến 80 hải lý trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Biển Đông. Để bảo vệ giàn khoan này có hẳn một phân đội gồm 120 tàu hộ tống và hỗ trợ, có cả một số tàu chiến. Đây là trường hợp đầu tiên Trung Quốc công khai và đi quá xa trong việc phá hoại nguyên trạng ở Biển Đông. Ở Việt Nam đã diễn ra sự phản đối với qui mô và cường độ cao hơn rất nhiều so với hành động phản đối tương tự diễn ra trong cuộc tranh chấp Nhật Bản - Trung Quốc năm 2013.

Lãnh đạo Việt Nam hầu như giữ im lặng trong hai tuần đầu, thể hiện sự kiềm chế và tránh làm xấu thêm tình hình. Các tàu cảnh sát biển Việt Nam chỉ kiên trì yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan khỏi khu vực. Đã diễn ra một số vụ va chạm nguy hiểm với tàu Trung Quốc, nhưng không bên nào sử dụng lực lượng hải quân và không quân. Cũng không hề có một phát súng nào bắn ra, ngoại trừ việc Trung Quốc sử dụng rộng rãi loại súng bắn nước, gây thương tích cho không ít chiến sĩ cảnh sát biển của Việt Nam.

Tại Việt Nam, hành động của Trung Quốc đương nhiên gây bùng nổ làn sóng phẫn nộ trong dư luận, được tiếp sức bởi sức ép mạnh mẽ của người Việt ở ngoài nước, trong đó có cộng đồng người Việt tại Mỹ, Pháp và nhiều nước khác. Ngày 13-14/5 tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều đô thị khác trong nước đã diễn ra những cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc rầm rộ.

 Không có quốc gia nào ủng hộ hành động này của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Mỹ và Nhật Bản lên án gay gắt Trung Quốc. Hội nghị cấp cao ASEAN diễn ra tại Mi-an-ma đã lần đầu tiên nhất trí thông qua Tuyên bố mà thực tế là lên án Trung Quốc. Trung Quốc dù sao cũng đã buộc phải lùi một bước đầu tiên. Bắc Kinh chuẩn bị tổ chức Hội nghị cấp cao APEC vào tháng 11, nơi mà người ta đón Tổng thống Mỹ và các nhà lãnh đạo các quốc gia khác của khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tiếp tục xung đột trong điều kiện như vậy là không khôn ngoan, vì vậy ngày 16/7 giàn khoan HD-981 cùng toàn bộ đoàn hộ tống đã nhổ neo đi vào vùng lãnh hải của Trung Quốc.

Từ thời điểm đó quan hệ Việt Nam - Trung Quốc dường như lại bắt đầu quá trình bình thường trở lại. Phía Việt Nam đã có nhiều nỗ lực lớn thực hiện điều này, cố gắng ngăn chặn khủng hoảng mới trong vùng biển tranh chấp. Ngày 7-8/4/2015 đã diễn ra chuyến thăm thành công của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đến Bắc Kinh theo lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Nhưng việc này vẫn không ngăn cản được việc lính biên phòng và cảnh sát biển Trung Quốc vẫn theo cách hành xử cũ là đối xử thô bạo với ngư dân Việt Nam đánh bắt cá gần quần đảo Hoàng Sa.

Đơn kiện của Phi-líp-pin lên cơ quan trọng tài quốc tế

Sự kiện tại khu vực bãi cạn Scarborough là cái cớ để Phi-líp-pin vào ngày 22/1/2013 đệ đơn kiện Trung Quốc lên Tòa án trọng tài ở La Hay.[4] Họ đề nghị Tòa án trọng tài kết luận trên ba vấn đề: (i) Khẳng định của Trung Quốc về “những quyền lịch sử” đối với vùng nước, đáy biển và tài nguyên dưới đáy biển trong phạm vi “đường chữ U” ngoài giới hạn những gì được qui định cho họ theo UNCLOS 1982, là vô căn cứ và không có hiệu lực; (ii) Đòi hỏi của Trung Quốc về vùng EEZ và ranh giới thềm lục địa xung quanh những đảo đá nửa nổi nửa chìm và những rạn san hô là mâu thuẫn với UNCLOS 1982; (iii) Việc Trung Quốc thực hiện những đòi hỏi này là vi phạm quyền chủ quyền, pháp lý và tự do hàng hải của Phi-líp-pin.

Trung Quốc đã cực lực phản đối hành động này. Ngày 19/2/2013, phía Trung Quốc gửi công hàm cho chính phủ Phi-líp-pin, trong đó trình bày quan điểm của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, dứt khoát bác bỏ đơn kiện mà Phi-líp-pin đệ trình và từ chối hợp tác với tòa án, không công nhận tính pháp lý của nó. Đồng thời họ bắt đầu gây sức ép lên Phi-líp-pin trên tất cả các hướng và vận động những quốc gia ASEAN khác với mục đích bác bỏ đơn kiện của Phi-líp-pin.

Không nước nào trong số 10 nước ASEAN đồng ý với “đường lưỡi bò”, nhưng mỗi nước lại xây dựng theo cách riêng của mình mối quan hệ với Trung Quốc, vốn từ lâu là đối tác thương mại chủ yếu của ASEAN.[5] Họ phản ứng kiềm chế trước hành động của Phi-líp-pin vốn được thực hiện đơn phương và không tham khảo ý kiến trước với  họ. Và điều này cũng có nguyên nhân xác đáng. Thủ tục của tòa án trọng tài đòi hỏi mất đến vài năm (đã từng diễn ra như vậy) và không bảo đảm có được giải pháp cần thiết. Trong thời gian đó, Trung Quốc có thể củng cố thêm nữa vị thế của họ ở Biển Đông và thực tế họ đã làm được điều này. Sáng kiến của Phi-líp-pin phần nào đã gây khó cho cuộc đàm phán vốn đã không đơn giản về việc biến Tuyên bố về hành vi ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 thành bộ Qui tắc ứng xử (COC) có tính ràng buộc về pháp lý, mà các nước đặt rất nhiều hy vọng vào việc giữ gìn hòa bình và ổn định ở khu vực.

Tuy nhiên, thời gian vừa qua, theo đề nghị của Phi-líp-pin, tòa án trọng tài gồm 5 thành viên dưới sự chủ tọa của chánh án đến từ Ga-na Thomas A. Mensa đã hình thành. Việc xét xử của tòa án thực tế đã bắt đầu và tiếp tục mà không có đại diện của Trung Quốc tham gia, nhưng đây là điều được quy định trong qui chế của tòa án.

Đối thoại Washington - Bắc Kinh bằng văn bản

Tháng 12/2014 là tháng đầy ắp những sự kiện trên lĩnh vực này. Mỹ, Trung Quốc và Việt Nam gần như đồng thời bày tỏ quan điểm của mình về khía cạnh pháp lý của tranh chấp trên Biển Đông. Đầu tiên là Bộ Ngoại giao Mỹ công bố bộ tài liệu chuyên khảo trong một loạt công trình nghiên cứu về biên giới trên biển ngày 5/12. Họ chứng minh “đường chữ U” mâu thuẫn với luật quốc tế và không thể dùng làm cơ sở cho đường biên giới trên biển của Trung Quốc tại Biển Đông. Ở Washington người ta cho rằng Trung Quốc không thể chứng minh được những “quyền lịch sử” của họ thậm chí dựa trên những qui phạm luật pháp thông thường có trước UNCLOS 1982 và yêu sách của Trung Quốc đang gây nguy cơ đối đầu, phá hoại ổn định khu vực và ngăn cản con đường đi đến một giải pháp hòa bình.[6]

Như vậy Mỹ đã bước vào cuộc tranh luận pháp lý, bày tỏ thái độ phê phán trước đòi hỏi mà theo họ là bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông, mặc dầu trước đó các chính khách Mỹ ở tất cả các cấp luôn tuyên bố họ không ủng hộ bên nào trong vụ tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông.

Là đồng minh của Mỹ, Phi-líp-pin chờ đợi sự ủng hộ này. Trong số các chuyên gia có ý kiến cho rằng việc Phi-líp-pin đệ đơn kiện không phải không có sự gợi ý từ Washington. Và trong những người tham gia xét xử có một số luật gia Mỹ nổi tiếng đứng về phía Phi-líp-pin. Tổng thống B. Obama trong chuyến viếng thăm Phi-líp-pin tháng 4/2014 đã kiềm chế không đưa ra một bảo đảm đơn phương sẽ hỗ trợ quân sự cho Phi-líp-pin trong trường hợp xảy ra xung đột với Trung Quốc. Thay vào đó, Mỹ tìm kiếm một giải pháp cân bằng và rộng lớn hơn, khả thi hơn, cho phép duy trì quan hệ song phương ổn định với Trung Quốc và đồng thời xác nhận cam kết của mình trong liên minh quân sự với Phi-líp-pin thông qua những đồng minh khác. Cơ hội thành công cho trò chơi nước đôi kiểu này vẫn chưa được thể hiện nhiều.

Có thể đúc kết lợi ích của Mỹ tại Biển Đông thành ba điểm: (i) Duy trì hòa bình và ổn định, (ii) Bảo đảm tự do thông thương hàng hải và (iii) Giữ khả năng tiến hành các hoạt động quân sự (đặc biệt là trinh sát) tại vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác, trước hết là Trung Quốc. Hai điểm đầu không gây phản đối cho bất kì ai. Còn điểm thứ ba thì rất nhiều vấn đề. Trên 20 quốc gia đã không đồng tình với nó, trong đó có Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và Liên Xô cũ, đồng thời họ còn soạn một điều khoản bổ sung đặc biệt khi ký kết UNCLOS 1982 về luật Biển, theo đó tàu quân sự nước ngoài phải xin phép trước các quốc gia ven biển để được quyền đi qua vùng EEZ của họ. Chính trên cơ sở này, năm 2008 đã xảy ra vụ bê bối với tàu khu trục “Impecable” của Mỹ khi tiến hành do thám gần đảo Hải Nam của Trung Quốc.

Sự kiện thứ hai ngay lập tức trở nên quan trọng, đó là ngày 7-8/12/2014 Trung Quốc công bố Bị vong lục (Position paper) với 36 trang giải thích nguyên nhân vì sao tòa án trọng tài quốc tế không có tư cách pháp lý để xem xét đơn kiện của Phi-líp-pin. Ngày 31/1/2015, Chính phủ Trung Quốc, trong khi không hề có ý định tham gia xem xét 4000 trang chứng cứ và chứng minh của Phi-líp-pin đệ trình lên tòa án trọng tài, nhưng vẫn tìm mọi cách để năm vị quan tòa phải lưu ý đến lời phản đối của Trung Quốc đối với thẩm quyền xem xét đơn kiện này của họ. Sự trùng lặp giữa hai ấn phẩm này của Trung Quốc và Mỹ được tung ra vào giai đoạn mới của tòa trọng tài, rõ ràng không phải ngẫu nhiên. Ở mức độ nào đó, nó chứng tỏ cả Bắc Kinh lẫn Washington đều muốn giữ cho vụ tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông nằm trong phạm vi pháp lý và đồng thời gây ảnh hưởng lên tiến trình sự kiện theo cách có lợi cho mình.

Trong Bị vong lục nhắc lại toàn bộ những lời phản đối đã nói ở trên đối với việc xem xét tranh chấp theo ba lý do: Một là, UNCLOS 1982 không trao cho tòa án quyền tài phán để xem xét các vấn đề chủ quyền được nêu trong đơn kiện của Phi-líp-pin; Hai là, Trung Quốc đang thực hiện “chủ quyền không thể tranh cãi mà họ được thừa kế” đối với tất cả những hòn đảo trên Biển Đông, bao gồm cả những đảo nằm trong phạm vi vùng EEZ 200 hải lý của Phi-líp-pin; Ba là, chính Phi-líp-pin mới là người vi phạm những thỏa thuận đa phương và song phương đã kí kết trước đây, cụ thể là Tuyên bố 2002 (DOC), bằng cách lợi dụng thể thức trọng tài cưỡng chế theo UNCLOS 1982.

Đáng chú ý là Trung Quốc thậm chí không tìm cách bảo vệ “đường chữ U” của họ. Thay vào đó, họ chỉ chứng minh tính không có thẩm quyền của tòa án trọng tài. Ở đây chẳng có gì mới, chuyện này xảy ra trong hầu hết các trường hợp khi mà nước này hay nước kia bị người ta đâm đơn kiện lên tòa án quốc tế tìm cách từ chối tham gia. Về các vấn đề chủ quyền thì tòa án thực tế không có thẩm quyền, nhưng họ vẫn hoàn toàn có quyền bày tỏ ý kiến của mình đối với tính bất hợp pháp của “đường chữ U.”

Xuất phát từ luận điểm rằng quốc gia một khi đã trở thành thành viên tham gia UNCLOS 1982 thì quốc gia đó đã chấp nhận cam kết phải tuân thủ mọi điều kiện của nó và không thể yêu sách thêm bất kì những quyền và tư cách pháp lý nào không phù hợp với Công ước này. Trong ba lập luận của Trung Quốc chống lại quyền tài phán của trọng tài quốc tế thì hai lập luận đầu rất đáng ngờ, bởi Phi-líp-pin không hề đề nghị Tòa giải quyết vụ tranh chấp lãnh thổ hay xem xét lại đường biên giới. Còn lập luận thứ ba cho rằng Phi-líp-pin dường như đã đánh mất quyền kiện ra tòa án trọng tài quốc tế vì đã kí DOC năm 2002, cũng như không đủ sức thuyết phục xét trên quan điểm pháp lý, bởi vì, như bất kì tuyên bố nào, DOC 2002 không có hiệu lực bắt buộc và thường bị tất cả các bên vi phạm. Phi-líp-pin trình bày tất cả những điều nói trên trong văn bản giải thích của mình với các trọng tài và tỏ ý tin tưởng Tòa án công nhận tư cách pháp lý của mình trong vụ này.

Ngày 16/3/2015 Phi-líp-pin trình lên Tòa án trọng tài thường trực văn kiện bổ sung gồm 3000 trang phản bác tuyên bố của Trung Quốc cho rằng cơ quan này không có thẩm quyền xét xử cần thiết. Trung Quốc đã có một cơ hội để gửi ý kiến của họ về những phản đối này trước ngày 16/6/2015. Nhưng việc đó đã không diễn ra và Tòa án đã quyết định đến 17/7/2015 bắt đầu thủ tục tố tụng, đồng thời giải quyết luôn vấn đề về thẩm quyền xét xử. Dự kiến Tòa án sẽ đưa ra phán quyết của mình vào tháng 5/2016, mặc dù phiên tòa có thể diễn ra nhanh hơn.

Tòa án trọng tài có thể: a) Khước từ đơn kiện của Phi-líp-pin hay đi đến kết luận rằng họ không đủ thẩm quyền xét xử để xem xét đơn kiện này; b) Chấp nhận đơn kiện của Phi-líp-pin và đưa ra phán quyết có lợi cho nước này trên tất cả những vấn đề pháp lý mà nước này nêu ra; c) Chấp nhận đơn kiện của Phi-líp-pin, nhưng đưa ra phán quyết trên một số vấn đề có lợi cho Trung Quốc và một số vấn đề khác có lợi cho Phi-líp-pin.

Trong tất cả các phương án, Trung Quốc cho người ta thấy rằng họ không muốn thay đổi lập trường của mình ở Biển Đông. UNCLOS 1982 không tạo ra một cơ chế áp đặt trừng phạt nào cho quốc gia không chịu thực hiện phán quyết của tòa án trọng tài. Trong trường hợp phán quyết bất lợi cho mình, Trung Quốc có thể vẫn cứ tiếp tục gây tổn hại cho danh tiếng của mình cùng với chính sách “quyền lực mềm”. Nếu xét đến sức ép mạnh mẽ của các lực lượng dân tộc chủ nghĩa, thì Trung Quốc dường như một mặt, vẫn còn chưa “ngộ ra”, tức coi Tòa án Trọng tài Quốc tế là phương pháp chấp nhận được để giải quyết những vụ tranh chấp trên biển của mình, nhưng mặt khác, nếu ra tòa với vai trò là kẻ phá hoại trật tự khu vực, không công nhận các quy phạm luật quốc tế thì cũng là điều không mong muốn đối với Trung Quốc.

Về những “quyền lịch sử” của Trung Quốc tại Biển Đông

Đa số các chuyên gia về luật biển, đương nhiên là trừ Trung Quốc, đều đánh giá khái niệm cái gọi là “biển lịch sử” là một điều vô lý về luật pháp và chắc gì nó được vận dụng nếu có lúc nào đó diễn ra vụ việc về phân định chủ quyền ở Biển Đông. Trung Quốc chưa bao giờ thực hiện chủ quyền một cách liên tục và không bị tranh chấp tại khu vực này. Còn Biển Đông – huyết mạch giao thông quan trọng nhất trong thương mại toàn cầu nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương – không phải là một cái vịnh, vũng biển hay một dạng vùng nước gần bờ để có thể phổ biến cái “quyền lịch sử” nào đó cho nó. UNCLOS 1982 mà Trung Quốc ký kết và phê chuẩn chỉ cho phép vận dụng có giới hạn nghiêm khắc “những nhân tố lịch sử” và những quyền rút ra từ chúng chỉ vào việc phân định lãnh hải của các quốc gia ven biển (nghĩa là trong bán kính 12 hải lý), nhưng trong công ước không hề có lời nào nói về “sự biện minh lịch sử” cho những đòi hỏi chủ quyền hay những đặc quyền nào đó ở một nơi cách đường bờ biển Trung Quốc xa tít tắp như trong trường hợp này. Nói tóm lại, đòi hỏi của Trung Quốc đã đi quá xa giới hạn, nếu như không muốn nói là hoàn toàn mâu thuẫn, với luật quốc tế hiện đại, đặc biệt là với UNCLOS 1982.

Ở phương Tây, như nhiều chuyên gia Trung Quốc quan niệm, định nghĩa chủ quyền được các luật gia dựa trên những đạo luật quốc tế của họ, do họ tự soạn ra cho mình. Theo cách hiểu luật quốc tế của họ (dường như họ có thể rất đông) có một số phương pháp thủ đắc chủ quyền khác nhau: chiếm hữu đất vô chủ, phát hiện, chiếm cứ, xâm lược, nhượng bộ, v.v... Trong số những phương pháp đó người ta hay vận dụng nguyên tắc Uti Possidetis, (có thể dịch là: “anh hãy giữ lấy cái anh đang có”). Người ta còn thường nói: “chiếm hữu – đó là 9/10 của quyền”, nghĩa là nếu anh đã sở hữu cái gì đó, thì sẽ vẫn tiếp tục chiếm hữu nó. Điều này cũng có nghĩa là trong trường hợp tồn tại một số kẻ có yêu sách mà hiệu lực của những đòi hỏi của họ ngang bằng nhau, thì kẻ nào đang chiếm hữu về mặt vật chất mảnh đất ấy sẽ vẫn tiếp tục chiếm hữu nó. Trong thực tế, một trong những lập luận chủ yếu của các luật gia Trung Quốc là theo hướng này.

Định nghĩa chủ quyền ở Biển Đông đã được suy diễn từ UNCLOS 1982. Điều 57 Công ước quy định một số quyền chủ quyền của các nước ven biển trong vùng EEZ với khoảng cách 200 hải lý từ đường cơ sở của bờ biển và còn tiếp tục như vậy dọc theo thềm lục địa gần bờ. Quy định quyền chủ quyền không có nghĩa là công nhận chủ quyền, nhưng nó xuất phát từ chủ quyền trên đất liền và do đó vùng EEZ không thể được xác định chừng nào mà chủ quyền của cơ sở xuất phát của nó là bờ biển chưa được xác định. Và điều này cũng được áp dụng cho các đảo, mà theo UNCLOS 1982 cũng dựa trên vùng EEZ và các quyền đặc biệt trên thềm lục địa. Trong trường hợp nếu vùng EEZ và quyền trên thềm lục địa của hai quốc gia chồng lấn lên nhau, thì các quyền này được xác định cho quốc gia ven biển nào gần hơn, hoặc các yếu tố khác tùy theo thỏa thuận giữa các bên liên quan.

Chủ nghĩa dân tộc vẫn là nhân tố quan trọng trong chính trị ở Đông Á và Trung Quốc không phải ngoại lệ. Việc Trung Quốc liên tục viện dẫn những “quyền lịch sử” của mình đang gây quan ngại sâu sắc ở không chỉ những bên có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, mà tất cả những nước láng giềng khác của Trung Quốc. Trung Quốc có lịch sử lâu đời, nhưng không hoàn toàn có thể khẳng định người Trung Quốc cổ đại là người đầu tiên phát triển và đặt tên cho nhiều đảo trên Biển Đông và những biển khác bao quanh đất nước họ. Thật vậy, chưa ai tìm ra dù là một bằng chứng cho sự việc này ở bất kì nơi nào. Hơn nữa, việc đặt tên và yêu sách chủ quyền là hai việc khác hẳn nhau. Điều quan trọng nữa là phải làm sao cho những tên gọi này được tất cả những nhà đi biển ở nhiều nước khác công nhận. Và chúng phải xuất hiện trên những bản đồ hàng hải được tất cả công nhận, dưới những tên gọi khác nhau do thuyền trưởng các tàu biển Bồ Đào Nha và Anh quốc đặt ra.

Lịch sử luôn luôn là đối tượng của nhiều cách diễn giải mà những diễn giải này lại có thể thay đổi khi phát hiện ra những sự kiện mới và có sự thay đổi lợi ích. Do đó việc viện dẫn lịch sử, như chúng ta đã biết, có thể dẫn dắt mối quan hệ giữa các bên đi rất xa và hoàn toàn không phải đi theo hướng mà họ muốn. Trong khi đó Trung Quốc rất hay bám lấy những cách diễn giải lịch sử của riêng mình. Và điều đó gây trở ngại rất lớn trên con đường làm dịu căng thẳng. Sau vài thập kỉ tuyên truyền ồ ạt, dân chúng Trung Quốc và bản thân giới lãnh đạo nước này dường như tin chắc rằng họ là chủ nhân hợp pháp của tất cả các hòn đảo và có thể, toàn bộ vùng nước biển cả giữa các đảo nữa. Cách nhìn như vậy hoàn toàn không được bất kì bằng chứng nào trong thế kỉ XX khẳng định, mặc dù Trung Quốc có ý định nêu lên để biện hộ cho yêu sách của mình.

Theo các học giả Trung Quốc, lịch sử Trung Quốc tại Biển Đông bắt đầu từ trước thời kì cận đại và vẫn còn tiếp tục không gián đoạn cho đến thời kỳ hiện đại và dân tộc Trung Hoa có quyền bảo vệ chủ quyền của mình trước bất kì kẻ can thiệp nào. Thế nhưng lịch sử còn lâu mới đứng về phía những đòi hỏi của Trung Quốc. Vào thời gian những triều đại cổ đại và trung đại Trung Quốc nhìn chung không tồn tại khái niệm chủ quyền. Khái niệm này chỉ xuất hiện ở châu Âu liên quan đến Hiệp ước Westfalia 1648. Trước đó, tất cả các đế quốc và vương quốc từng tồn tại không bao giờ cố định đường biên giới của mình và cũng không duy trì chúng. Các nhà sử học Trung Quốc đơn giản là đánh tráo khái niệm chủ quyền với mẫu quốc mà các nhà cầm quyền Trung Quốc sử dụng và đây là hai sự việc hoàn toàn khác nhau. Thêm nữa, họ thậm chí không ít lần gọi những những nhà cầm quyền các triều đại Nguyên - Mông và Mãn Châu là “người Trung Quốc” và tương ứng toàn bộ những vùng đất mà họ chiếm được là “đất đai ngàn đời” của mình. Ban lãnh đạo Trung Quốc không bao giờ từ chối, chẳng hạn, tham vọng lấy lại những lãnh thổ của đế quốc nhà Thanh mà ngày nay chúng nằm cách đường biên giới hiện đại của Trung Quốc rất xa. Vì vậy, đối với Biển Đông, các học sinh phổ thông và sinh viên Trung Quốc cho đến nay vẫn được dạy rằng đất nước của họ có những “quyền lịch sử” trên toàn bộ khu vực trong giới hạn “đường chữ U” vô căn cứ của họ.

Việt Nam có bước đi tích cực

Ngày 8/12/2014 Việt Nam bước vào cuộc tranh chấp pháp lý sau khi trình bày quan điểm của mình lên tòa trọng tài La Hay. Lần này Việt Nam đã bày tỏ ủng hộ đơn kiện của Phi-líp-pin, đặt câu hỏi nghi ngờ về tính xác đáng của “đường chữ U” và gửi lời đề nghị “hãy bày tỏ sự quan tâm cần thiết đến những quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam”. Bước đi này của Việt Nam thực ra không thể ảnh hưởng đến việc xem xét đơn kiện, nhưng nó mang ý nghĩa chính trị nhất định. Cùng với Phi-líp-pin và Mỹ, những nước đã mở màn cuộc tranh cãi pháp lý với Trung Quốc, Việt Nam quyết định nêu quan điểm của mình đối với vấn đề và nhấn mạnh quyền của mình được sử dụng những công cụ pháp lý sẵn có để giải quyết những vụ tranh chấp lãnh thổ tiềm tàng có nguy cơ bùng nổ. Việt Nam cần tòa án lắng nghe những lập luận của mình và đã thực hiện việc này với hình thức đối mặt trực diện với Trung Quốc.

Trong những điều kiện hết sức phức tạp hiện nay, Việt Nam chưa chắc đã sẵn sàng đi đến cùng với Phi-líp-pin trong vụ tranh chấp pháp lý với Trung Quốc. Vị thế hai nước quá khác nhau, nhưng cũng không loại trừ việc Việt Nam bị buộc phải thể hiện tình đoàn kết với Phi-líp-pin và có quan điểm cứng rắn đối với vấn đề vì phải chịu sức ép mạnh mẽ của dư luận xã hội trong nội bộ của mình đòi hỏi phải bảo vệ quyền và lợi ích tích cực hơn nữa ở Biển Đông. Như  GS. C.Thayer, chuyên gia hàng đầu người Ô-xtrây-li-a về các vấn đề Đông Nam Á nhận xét rất thích đáng rằng quyết định của Hà Nội bày tỏ quan điểm của mình vừa không chính thức kích động thủ tục trọng tài chống Trung Quốc và cũng vừa không vào hùa với đơn kiện của Phi-líp-pin, chính là “phương cách thích hợp” để tham gia cuộc chơi một cách khôn ngoan.

Những nước Đông Nam Á như Việt Nam và Phi-líp-pin, nằm giữa hai gọng kìm của hai siêu cường quốc là Mỹ và Trung Quốc, dĩ nhiên phải đặt hy vọng chống lại các mưu đồ của Trung Quốc vào khả năng ủng hộ nào đó từ phía Mỹ. Không phải ngẫu nhiên, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang trong chuyến thăm Mỹ tháng 7/2013 đã tuyên bố ủng hộ chính sách “xoay trục” của Mỹ về phía châu Á - Thái Bình Dương. Và Chuyến thăm Mỹ vào tháng 7/2015 của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng cũng nhằm mục đích thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.

Ba kịch bản cho Biển Đông

Ngày 16/6/2015 Bộ Ngoại Giao Trung Quốc tuyên bố quá trình xây dựng các đảo trong loạt đá ngầm của quần đảo Trường Sa sẽ hoàn thành theo đúng kế hoạch đã định trong thời gian tới. Bắc Kinh, như tờ báo “Global Times” của Trung Quốc nhận xét, đã chống đỡ được sức ép mạnh mẽ do việc thực hiện những công trình này. Họ tỏ rõ khả năng thực hiện những dự án của mình trong những hoàn cảnh phức tạp nhất. Họ cũng tỏ rõ “quyết tâm bảo vệ chủ quyền và lợi ích của mình trên biển cả và cũng tỏ ý sẵn sàng giúp đỡ cộng đồng quốc tế.”[7] Nhiều nhà quan sát coi việc xây dựng những đảo nhân tạo này là bước đi có chủ định trước nhằm chống lại bất kỳ phán quyết nào có thể có của tòa án trọng tài. Đây là mưu đồ của Trung Quốc muốn khẳng định “sự chiếm hữu hiệu quả” trước khi tòa án La Hay đưa ra phán quyết nào đó về vụ việc này. Trung Quốc thay đổi tình hình tại chỗ và đặt khu vực trước chuyện đã rồi. Họ không mở rộng lãnh thổ mà chỉ xây dựng những căn cứ điểm tựa tiền tiêu trên các hòn đảo nhân tạo cho đội tàu đánh cá, cho các tàu thăm dò dầu mỏ và khí đốt và các tàu tuần tiễu có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật. Tất cả những việc trên đều nhằm tăng cường và kiện toàn lời khẳng định vô điều kiện về “chủ quyền không thể chối cãi” của Trung Quốc trên toàn bộ Biển Đông. Tóm lại, thuật giả kim pháp lý nào đó đã đem lại thành công cho Trung Quốc, biến UNCLOS 1982 thành “luật quốc tế mang bộ mặt Trung Quốc”.

Tất cả những đảo nhân tạo với cấp độ tin cậy cao sẽ được Trung Quốc tuyên bố là một bộ phận lãnh thổ hợp pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cùng với việc thiết lập vùng lãnh hải 12 hải lý và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, vùng không phận quốc gia đóng cửa với máy bay nước ngoài. Việc này mở ra con đường trực tiếp biến Biển Đông thành “ao nhà” của Trung Quốc.

Đối với quá trình phát triển tình hình ở Biển Đông có thể dự kiến ba kịch bản: (i) Xung đột Mỹ - Trung Quốc; (ii) Chiến tranh Trung Quốc với Việt Nam; (iii) Trung Quốc củng cố vai trò thống trị trên toàn bộ vùng nước của Biển Đông.

Trong ba kịch bản này thì kịch bản thứ nhất ít có khả năng xảy ra nhất, bởi tác động của mức độ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế hết sức cao giữa hai quốc gia Trung - Mỹ, bởi tính chất nguy hại và thảm họa của nó nếu xảy ra chiến tranh nhiệt hạch thế giới. Trong thực tế, cả Mỹ lẫn Trung Quốc đều không muốn bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh như vậy. Và vì thế cho đến thời gian gần đây vị thế thống trị của Mỹ trên mặt biển trong khu vực đang bị xói mòn và Mỹ tất yếu phải cân nhắc đến cả lợi ích của Trung Quốc nữa.

Khả năng chiến tranh mới giữa hai quốc gia Xã hội Chủ nghĩa láng giềng - Trung Quốc và Việt Nam - cũng khó có khả năng xảy ra. Sự gần gũi về ý thức hệ của hai đảng cầm quyền và điểm chung về chế độ chính trị và xã hội đã đặt dấu ấn sâu sắc lên tính chất của quan hệ Việt - Trung, tuy vậy vẫn không khắc phục được những mâu thuẫn về lợi ích dân tộc. Sự méo mó trong quan hệ giữa hai nước láng giềng có thể hiểu được nếu lưu ý đến so sánh lực lượng thực tế, cũng như triết lý Khổng giáo trong chính sách đối ngoại, trước tiên là với Trung Quốc và phần nhiều với Việt Nam cũng thế. Triết lý này, như người ta biết, được xây dựng trên sự kết hợp của các mặt đối lập, trên sự hài hòa của những điều mà, theo quan điểm chúng tôi, không thể hài hòa với nhau được. Trong khung cảnh đó, Việt Nam, vốn là quốc gia yếu hơn, đã nhiều năm vận dụng sách lược nổi tiếng ở phương Đông từ xa xưa: biết kẻ mạnh hơn (Trung Quốc) mong được người khác phải tôn trọng mình, người yếu hơn (Việt Nam) sẵn sàng bày tỏ điều đó, nhưng đồng thời cũng muốn quyền tự chủ của mình phải được người khác (Trung Quốc) tôn trọng. Đối với một nước lớn và hùng mạnh, điều cốt tử là phải gây được ảnh hưởng lên nước láng giềng nhỏ hơn, tương ứng như vậy điều tự nhiên đối với nước nhỏ yếu hơn là luôn tìm mọi phương cách chống lại ảnh hưởng này và giữ gìn nền độc lập của mình cho đến khi cả hai bên đạt được một qui chế cùng chấp nhận được - một kiểu công ước (modus vivendi) nào đó.

Như vậy phương án thứ ba xem ra có khả năng diễn ra nhiều hơn cả. Cách đây không lâu, Sách trắng quốc phòng Trung Quốc công bố về học thuyết quân sự mới của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nói lên quyết tâm của Trung Quốc thiết lập sự có mặt quân sự của mình ở biển khơi vùng nước phía tây Thái Bình Dương, nơi họ nhất quyết phải chiếm địa vị chủ đạo.

Ở Trung Quốc, dường như người ta đã đi đến kết luận rằng có thể thực hiện lợi ích của mình ở Biển Đông mà không cần chiến tranh. Trong khi bảo vệ những đòi hỏi theo kiểu giành lợi ích tối đa của mình ở Biển Đông, Bắc Kinh đồng thời cũng không phải không có cơ sở chứng minh rằng Mỹ đang đặt quan hệ liên minh quân sự tay đôi của mình với một số nước ASEAN cao hơn lợi ích an ninh tập thể trong khu vực. Tương tự như chiến lược “Việt Nam hóa” chiến tranh bị thất bại cách đây 40 năm ở Việt Nam, Mỹ mưu toan lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước láng giềng trong khu vực với Trung Quốc để duy trì sự kiểm soát của mình tại tuyến giao thông quan trọng chiến lược đối với họ. Nhưng những hiệp định của Mỹ với các đồng minh châu Á yếu hơn nhiều so với đối tác trong NATO. Do đó hoàn toàn có thể xảy ra tình huống Washington cuối cùng sẽ ngả theo hướng chấp nhận những kế hoạch của Trung Quốc ở Biển Đông thay vì ủng hộ các đồng minh nhỏ bé của mình đối đầu với cường quốc hạt nhân đang nổi lên ganh đua chỉ vì những vụ tranh chấp lãnh thổ khá manh mún đối với họ.

Rõ ràng, vì lợi ích của Trung Quốc thì kiểm soát xung đột tốt hơn là thổi phồng nó lên đến mức độ toàn cầu. Tình hình tiếp tục xấu đi ở Biển Đông chưa chắc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những kế hoạch đồ sộ phục hồi “Con đường tơ lụa trên biển” của nước này. Và một điều nữa sẽ hết sức tốt cho tất cả, nếu như những đấu thủ chính trong khu vực học được cách tuân thủ tinh thần và câu chữ của luật pháp quốc tế trong thực tế giải quyết những vụ tranh chấp giữa họ với nhau./.

Tác giả TS. G.M. Lokshin là Nghiên cứu viên cao cấp Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và ASEAN thuộc Viện Viễn Đông, Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 4 (103), tháng 12/2015.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. www.thediplomat.com, June 11, 2015.

2. Carl Thayer. “No, China Is Not Reclaiming Land in the South China Sea”, www.thediplomat.com, June 07, 2015.

3. http://www.pca-cpa.org/showpage.asp?pag_id= 1529).

4. http://PacNet #87- Beijing’s & Washington’s dueling South China Sea papers, by Gregory B. Poling. Dec 9, 2014.

5. www.globaltimespublished, 17/6/2015.                                                                          



[1] www.thediplomat.com, June 11, 2015.

[2] Carl Thayer. “No, China Is Not Reclaiming Land in the South China Sea”, www. thediplomat.com, truy cập: 07/6/2015.

[3] Đường chữ U lần đầu tiên xuất hiện năm 1947 trên những bản đồ do chính quyền Tưởng Giới Thạch công bố để giải thích những yêu sách lãnh thổ đối với Nhật Bản. Mỹ và các nước khác tham gia Hội nghị ở San - Francisco năm 1951 không công nhận yêu sách này của Trung Quốc. Quần đảo Hoàng Sa được trả lại cho Việt Nam (khi đó đang dưới chính quyền của hoàng đế Bảo Đại), còn Trường Sa vẫn nằm trong thành phần thuộc địa Cokinshin của Pháp. Sau tất cả những thay đổi lịch sử của thế kỉ XX, theo lôgic cũng như theo pháp lý, chúng phải được Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam kế thừa. Nhưng điều đó đã không diễn ra, còn đường chữ U về sau không ít lần được tái hiện trên những bản đồ do Trung Quốc ấn hành, nhưng không gây cho người xem nhiều chú ý đặc biệt lắm.

[4] http://www.pca-cpa.org/showpage.asp?pag_id= 1529

[5] Việt Nam cũng giới hạn bằng tuyên bố rằng mỗi nước có thể sử dụng bất kỳ biện pháp hòa bình nào để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc.

[6] PacNet #87, Beijing’s & Washington’s dueling South China Sea papers, by Gregory B. Poling. Dec 9, 2014.

[7] www.globaltimespublished, truy cập ngày 17/6/2015.