Trong những năm gần đây, cuộc đấu tranh giành quyền bá chủ ở Biển Đông đã leo thang. Chỉ vài ngày sau khi cơ quan nghiên cứu có trụ sở tại Washington công bố bản báo cáo kèm hình ảnh vệ tinh cho thấy những diễn biến mới tại một số đảo ở Trường Sa, Trung Quốc đã cho máy bay chiến đấu hạ cánh ở đảo Phú Lâm -một hòn đảo nằm trong quần đảo Hoàng Sa. Đáng lo ngại hơn, Trung Quốc đã đưa hai khẩu đội tên lửa đất đối không HQ-9 ra đảo Phú Lâm, tạo thêm năng lực cho quân đội Nhân dân Trung Hoa (quân đội Trung Quốc) đặt các máy bay ở không phận tranh chấp trên Biển Đông vào tầm ngắm.

Rõ ràng, việc này dấy lên những suy đoán về mục đích “chiến lược” của Trung Quốc ở Biển Đông. Hành động đưa tên lửa ra lãnh thổ tranh chấp của Bắc Kinh được xem là nhằm tăng cường uy thế trên biển - không chỉ vì mối đe dọa trực tiếp do các tên lửa này tạo ra đối với hoạt động hàng không của các nước khác ở Biển Đông, mà còn vì vũ khí mới này là sự bổ sung cho năng lực phòng không hiện tại của quân đội Trung Quốc ở đảo Phú Lâm. Đối với các nhà quan sát khu vực,việc các tên lửa ở đảo Phú Lâm đủ sức hỗ trợ hoạt động của máy bay chiến đấu J-11 là một dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh đang mưu toan tăng cường kiểm soát chính trị và quân sự ở Biển Đông. Chính vì vậy, không ngạc nhiên khi Washington mô tả động thái của Trung Quốc là một hành động hung hăng nhằm củng cố lãnh thổ đã chiếm giữ và thúc đẩy yêu sách lãnh thổ ở những vùng biển tranh chấp. Trong khi đó, các nhà phân tích Trung Quốc cho rằng việc điều các thiết bị quân sự ra Hoàng Sa là biện pháp phòng thủ để bảo vệ các cơ sở quân đội Trung Quốc trên đảo khỏi các bên tranh chấp khác.

Có bốn lý do giải thích tại sao những diễn biến mới này lại tác động đến lợi ích của Ấn Độ. Thứ nhất, bất chấp các yêu sách và tranh cãi giữa Trung Quốc và Mỹ diễn ra như thế nào, một điều rõ ràng là Bắc Kinh đang hành xử dựa trên sức mạnh ở Biển Đông thông qua sự kiểm soát thực tế đối với một số đảo quan trọng ở khu vực. Trung Quốc đã cho Mỹ và đồng minh của Mỹ thấy rằng điều quan trọng trong các tranh chấp lãnh thổ và biển là việc “chiếm hữu” thực tế các đảo và chừng nào quân đội Trung Quốc còn nắm quyền kiểm soát các thực thể, Trung Quốc sẽ tận dụng tối đa vị trí của mình để củng cố và mở rộng yêu sách lãnh thổ. Đối với Ấn Độ, nước luôn lo lắng về an ninh của các dòng chảy thương mại và lợi ích năng lượng ở Biển Đông, việc Trung Quốc đưa tên lửa ra Phú Lâm có thể là một tín hiệu ngầm. Việc tăng cường quân sự hóa các đảo tranh chấp đồng nghĩa với việc tự do hàng hải của các tàu chiến nước ngoài ở Biển Đông sẽ bị hạn chế, nhất là khi phạm vi các hoạt động “được phép tiến hành” giờ sẽ do Trung Quốc quy định. Thậm chí, các tàu thuyền thương mại đi qua có thể còn phải xin sự chấp thuận của Trung Quốc.

Thứ hai, Trung Quốc hay áp dụng biện pháp kiểm soát gián tiếp để khẳng định quyền hành đối với các lãnh thổ tranh chấp trên biển. Ngay sau khi thiết lập hệ thống ra-đa mới ở Trường Sa và đưa tên lửa ra đảo Phú Lâm, có thể Bắc Kinh sẽ thiết lập khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông để đảm bảo sự thống trị của quân đội nước này đối với các vùng biển và không phận xung quanh. Hiện tại, khả năng thiết lập ADIZ có thể chỉ giới hạn ở các vùng ven biển Thái Bình Dương nhưng cũng không loại trừ khả năng ADIZ có thể xuất hiện ở các vùng biển khác, nơi mà Trung Quốc có lợi ích chiến lược - bao gồm những khu vực trọng yếu ở Ấn Độ Dương.

Các nhà quan sát Ấn Độ cần suy đoán về lập trường của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương và đánh giá hành vi chiến lược của Bắc Kinh sau khi quân đội nước này thiết lập được chỗ đứng vững chắc tại các nước quan trọng ở Ấn Độ Dương. Ví dụ, liệu quân đội Trung Quốc có thể đóng vai trò trong việc hỗ trợ Sri Lanka, Pakistan hoặc Maldives đảm bảo an toàn cho các vùng biển và không phận trọng yếu ở Ấn Độ Dương? Động thái như thế sẽ mang đến những hệ lụy gì cho Ấn Độ? Là một nhà bảo hộ an ninh quan trọng ở Ấn Độ Dương, New Delhi nhận thức rõ sự cần thiết về một môi trường ổn định ở khu vực. Nhưng liệu Ấn Độ có thể chấp nhận một vai trò lớn hơn của Trung Quốc trong việc bảo đảm an ninh tại những khu vực quan trọng thuộc lợi ích của Ấn Độ hay không?

Về điểm này, các nhà phân tích Ấn Độ đồng thời cần phải lưu ý chiến thuật của Trung Quốc ở Biển Đông. Bất kể Trung Quốc triển khai quân sự ở các đảo tranh chấp như thế nào, lực lượng chính “tiến hành” các hành động xâm lược thực tế trên Biển Đông là dân quân biển. Đầu tháng này, Phó Đô đốc Joseph Aucoin, chỉ huy Hạm đội 7 của Mỹ chỉ trích việc Trung Quốc sử dụng các lực lượng bán quân sự trong tranh chấp lãnh thổ, gây phức tạp cho những nỗ lực của Mỹ nhằm tránh bạo lực xảy ra ở các khu vực tranh chấp. Theo nguồn tin từ hải quân Mỹ, sự hiện diện của các tàu phi quân sự của Trung Quốc, bao gồm các hạm đội hải cảnh và tàu cá, đã đe dọa các hoạt động hải quân ở khu vực vì các tàu đó không thuộc phạm vi điều chỉnh của các thỏa thuận như Bộ Quy tắc ứng xử về các chạm trán bất ngờ trên biển (CUES). Vì các lực lượng phi truyền thống của Trung Quốc thường phản ứng hung hăng hơn trước các thách thức mà họ nhận thấy ở khu vực nên các nhà phân tích của Mỹ chỉ ra khả năng gia tăng rủi ro về một cuộc xung đột không chủ đích.

Trong khi đó, dân quân biển không phải là những đơn vị tự chủ mà là các tổ chức do trung ương kiểm soát, phối hợp hoạt động với nhau để thực thi mệnh lệnh của Bắc Kinh ở các vùng biển gần. Việc các lực lượng này thường xuyên được triển khai để thống trị không gian biển là chỉ dấu đáng chú ý cho các nhà quan sát Ấn Độ. Với việc Trung Quốc ngày càng mở rộng hoạt động ở Ấn Độ Dương, sự hiện diện của các tàu phi quân sự ở khu vực này có lẽ sẽ tăng lên nhưng sẽ không đến mức độ như đang chứng kiến ở Đông Nam Á. Mặc dù vậy, chỉ sự gia tăng nhỏ cũng làm phức tạp tình hình an ninh ở khu vực ven biển Nam Á. Hiện nay, các đội tàu cá xa bờ của Bắc Kinh đang lớn nhất thế giới và nhận được rất nhiều trợ cấp. Và việc Trung Quốc trở thành một cường quốc đánh bắt cá có mối liên hệ chặt chẽ với những tham vọng địa chính trị của nước này. Với sự hiện diện ngày một tăng của các lực lượng bán quân sự của Trung Quốc ở Vịnh Bengal, các cơ quan biển của Ấn Độ phải đứng trước nhiệm vụ phải kiểm soát hoạt động biển. Trong khi Mỹ đang kêu gọi xây dựng một bộ quy tắc mới về các chạm trán bất ngờ trên biển, để điều chỉnh cả các cơ quan biển khác của nhà nước, Ấn Độ cũng có thể cần đến một bộ luật lệ mới để đối phó với sự hiện diện phi quân sự ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương.

Thứ ba, các nhà hoạch định chính sách biển Ấn Độ có thể nhận rõ rằng một khi Trung Quốc cảm thấy mình có lợi thế trên biển, những tương tác ngoại giao sẽ chỉ còn tác dụng là công cụ mặc cả. Điều này thể hiện qua việcTrung Quốc đưa tên lửa ra đảo Phú Lâm một ngày trước khi diễn ra cuộc gặp giữa Tổng thống Barack Obama và các nhà lãnh đạo ASEAN tại California, nơi các lãnh đạo tìm kiếm sự đồng thuận cho một giải pháp hoà bình tại Biển Đông và sự cần thiết phải có những quy chuẩn và luật lệ hành xử chung. Các nhà phân tích Hoa Kỳ cho rằng các động thái quân sự mới đây của Trung Quốc là một nỗ lực rõ ràng cho thấy nước này đang cố gắng “bình thường hóa” việc Trung Quốc đưa các thiết bị quân sự và phòng thủ tiên tiến ra lãnh thổ tranh chấp.

Điều này càng cho thấy bản chất tranh chấp trong các vùng biển tại châu Á. Các nhà quan sát khu vực không thể không chú ý đến một điểm rằng Trung Quốc và Mỹ đang chơi tròvừa hợp tác vừa xung đột trên biển. Ví dụ, chỉ vài ngày sau khi khu trục hạm USS Curtis Wilbur thực hiện các cuộc tuần tra tự do hải lần thứ hai ở khu vực gần đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, Tham mưu trưởng hải quân Hoa Kỳ đã có cuộc tham vấn với người đồng nhiệm Trung Quốc về Bộ Quy tắc ứng xử đối với các cuộc chạm trán ngoài ý muốn trên biển. Cả hai quan chức này đều có vẻ hài lòng về việc thực hiện bộ quy tắc này. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau đó, Trung Quốc đưa tên lửa ra đảo Phú Lâm. Đô đốc Harry Harris, Tổng tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương lên tiếng tuyên bố rằng tình hình an ninh đã trở nên xấu tới mức hải quân Mỹ phải tính đến việc đẩy mạnh các hoạt động tự do hàng hải. Theo đó, các nhà quản lý hàng hải Ấn Độ cần phải tính tới nhân tố không chắc chắn về chiến lược cũng như hành động trong các hoạt động an ninh tương lai.

Cuối cùng, Ấn Độ cần cân bằng giữa các nhu cầu an ninh biển ở Ấn Độ Dương với lập trường pháp lý về tự do hàng hải mà các quốc gia sử dụng biển được hưởng trong lãnh hải. Tình thế tiến thoái lưỡng nan thực sự của New Delhi đó là mặc dù phản đối sự xâm lược của Trung Quốc ở Biển Đông, Ấn Độ cũng không đồng tình với cách diễn giải của Mỹ về luật biển và quyền tự do của tàu chiến nước ngoài trong các vùng nước ven biển. Đặc biệt, Ấn Độ không đồng tình với Mỹ trong việc tuyên bố “quyền qua lại không bị gián đoạn” trong vùng nước ven biển mà không cần phải xin phép trước các quốc gia ven biển - đặc biệt là trong các khu vực thuộc lãnh hải của quốc gia đó. Trên thực tế, quan điểm của New Delhi về vấn đề này hầu như tương đồng với Bắc Kinh - đặc biệt là trong việc yêu cầu các tàu chiến nước ngoài phải có thông báo về việc qua lại vô hại trước khi đi vào lãnh hải của quốc gia ven biển hoặc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các quốc gia đó.

Đối với Ấn Độ, việc đi qua lãnh hải hoặc EEZ mà không báo trước -kể cả “qua lại vô hại” hoặc “tự do hàng hải”- là phi đạo lý (thậm chí nếu không muốn nói là phi pháp). Mặc dù Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) quy định cho phép qua lại liên tục và nhanh chóng trong vùng nước ven biển - do nhu cầu di chuyển - nhưng cũng không cho phép việc tiến hành các hoạt động trên biển vì mục đích chính trị. Do đó, Ấn Độ bảo lưu việc ủng hộ các hoạt động hải quân của Mỹ ở Biển Đông vì việc này có thể kích động hải quân Trung Quốc có động thái tương tự tại biển Andaman.

Abhijit Singh

Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả và không phản ánh quan điểm của IDSA hoặc của chính phủ Ấn Độ. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên trang IDSA.

Người dịch: Duy Thực, Thu Huyền, Hồng Hà

Bản dịch thuộc bản quyền Nghiên cứu Biển Đông. Đề nghị chỉ được dẫn đường link bài viết, không đăng lại khi chưa có sự đồng ý của Ban Biên tập.