10/05/2014
Tin về Biển Đông từ ngày 1 đến 8 tháng 5
+ RFI, VOA - 29/4, 1/5: Mỹ sẽ có phản ứng mạnh nếu Trung Quốc lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông. Tờ Wall Street Journal ở Mỹ trích dẫn các nguồn tin trong CP Mỹ cho biết, Mỹ sẽ có phản ứng mạnh nếu Trung Quốc lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông. Phản ứng đó bao gồm việc phái tàu sân bay hạt nhân tới Biển Đông, Biển Hoa Ðông và Eo biển ĐL. Ngoài ra, quân đội Mỹ cũng sẽ phái máy bay chiến đấu B-52 bay vào vùng nhận dạng phòng không để chứng tỏ quyết tâm của Mỹ trong việc bảo vệ các đối tác an ninh của mình.
Các giới chức cấp cao của Mỹ trong thời gian gần đây đã có thái độ cứng rắn hơn trước những hành động của Trung Quốc trong các vụ tranh chấp chủ quyền biển đảo ở Đông Á. Kết thúc vòng công du CÁ tại Philippines vào ngày 29/4, TTh Mỹ Obama đã nhắc lại lập trường xuyên suốt của Mỹ theo đó không một quốc gia nào được quyền dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp chủ quyền. Phát biểu trước các binh sĩ Mỹ và Philippines tại Manila, ông đã bày tỏ thái độ hết sức quan ngại trước các tranh chấp lãnh hải ngày càng gay gắt giữa Bắc Kinh và các đồng minh của Washington trong khu vực. Ông khẳng định: “Các tranh chấp phải được giải quyết một cách hòa bình chứ không phải là bằng các hành động hăm dọa hay sử dụng vũ lực”.
Tuyên bố trên đây không có gì mới so với quan điểm từng được Mỹ nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhưng mang một ý nghĩa đặc biệt mạnh mẽ khi được chính TTh Mỹ nói lên và ngay tại Philippines vốn đang bị Trung Quốc chèn ép tại Biển Đông.
Ông Obama cũng trấn an thêm đồng minh Philippines khi xác định trở lại rằng Washington sẽ sát cánh bên cạnh Manila trong trường hợp bị nước khác tấn công, đúng theo khuôn khổ Hiệp ước Phòng thủ chung Mỹ-Philippines năm 1951. Ông nói: ““Hiệp ước này có nghĩa là hai quốc gia chúng ta cam kết, và tôi trích dẫn, “quyết tâm chung của chúng ta để bảo vệ nhau trước các cuộc tấn công vũ trang đến từ bên ngoài”…Bất kỳ một kẻ xâm lược tiềm tàng nào không nên có ảo tưởng rằng một trong hai nước sẽ đơn độc. Nói cách khác, lời cam kết bảo vệ Philippines được bọc trong thép. Mỹ sẽ tôn trọng cam kết đó vì các đồng minh sẽ không bao giờ phải đơn thân độc mã”. Điểm duy nhất trong tuyên bố đanh thép trên đây của ông Obama có thể khiến nước chủ nhà thất vọng, đó là việc TTh không đề cập cụ thể đến khả năng giúp đỡ Philippines nếu xung đột xảy ra trong khu vực Biển Đông đang tranh chấp, trái với mong muốn của Manila.
+ Tin từ Bắc Kinh, Hongkong, VOA - 4/5: Việt Nam phản đối Trung Quốc đưa giàn khoan “khủng” tới Biển Đông. Ngày 4/5, hai ngày sau khi trang mạng của Cục Hải Sự Trung Quốc đăng tải cảnh báo về việc giàn khoan khổng lồ của Trung Quốc mang tên Hải dương 981 đến “tác nghiệp” tại Biển Đông từ ngày 2/5 - 15/8, phía Việt Nam đã lên tiếng phản đối hành động trên của Trung Quốc. NPN/BNG Việt Nam Lê Hải Bình tuyên bố hành động của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông. Theo phía Việt Nam, giàn khoan Trung Quốc xâm phạm vào Lô 143 trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Trong một tin khác, Báo Văn hối, Mạng Đại công báo, Mạng Đài Hải đưa tin, những ngày gần đây một chùm ảnh mới nhất về bãi Xích Qua (mà Việt Nam gọi là bãi Gạc Ma) đã được đưa lên mạng internet. Những bức ảnh cho thấy Trung Quốc đang tiến hành công trình lấp biển với quy mô lớn tại bãi Gạc Ma với sự xuất hiện của nhiều tầu trọng tải lớn tham gia tác nghiệp. Có ý kiến cho rằng, hiện nay bãi Gạc Ma đã lấn ra biển khoảng 300 mét với diện tích khoảng 0,09 km2 và nhiều khả năng các công trình liên quan trên đảo cũng đã được bắt đầu xây dựng. Có tin là Trung Quốc chuẩn bị xây sân bay tại đây. Được biết, tầu tên lửa hộ vệ Miên Dương 528 cũng đang neo đậu cảnh giới bên cạnh khu vực thi công.
Hải quân Việt Nam đang tiến hành quan sát tại các bãi xung quanh. Theo phân tích, trong số 7 đảo bãi Trung Quốc đang khống chế thực tế tại quần đảo Trường Sa gồm bãi Xích Qua (Gạc Ma), bãi Mỹ Tế (Vành Khăn), bãi đá Vĩnh Thử (Chữ Thập), bãi Chử Bích (Xu Bi), bãi Hoa Dương (Châu Viên), bãi Đông Môn (Bình Khê), bãi Nam Huân (Gia Ven) thì hiện chỉ có bãi Gạc Ma với vị trí trung tâm là thích hợp cho việc lấp biển với diện tích lớn. Ngoài ra, từ đây có thể dễ dàng chi viện, tiếp tế cho 6 đảo bãi còn lại, đồng thời dễ dàng giám sát các đảo bãi xung quanh hiện do Việt Nam, Philippines đang khống chế. Cũng có ý kiến nhận định, bãi Gạc Ma có khả năng sẽ xây dựng sân bay, cầu cảng cỡ lớn để trở thành trung tâm quân sự, hành chính tại Trường Sa, bãi Vành Khăn, bãi Chữ Thập, bãi Xu Bi, bãi Châu Viên sẽ là những căn cứ vệ tinh, với vị trí gần hơn, bãi Bình Khê, bãi Gia Ven cần trở thành căn cứ cung cấp hậu cần, bãi Bình Khê do gần bãi Gạc Ma nhất có thể trở thành trung tâm dân dụng.
Về việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam (ABC News, Businessspectator, News, Viện Lowy, một số trang mạng khác của Australia 7-8/5): Hành động của Trung Quốc sẽ thúc đẩy các nước khu vực tiếp tục tăng chi phí quốc phòng, thách thức TTh Obama. Mỹ có thể phản đối áp đặt và đe dọa nhưng không thể hỗ trợ Việt Nam vì giữa hai nước không có hợp tác quốc phòng hiệu quả. Nếu Mỹ không gây đủ sức ép với Trung Quốc, uy tín của Mỹ sẽ bị giảm sút. Trung Quốc đã cẩn thận lựa chọn vụ việc này để khoét sâu khoảng cách giữa hiện thực và những lời nói hoa mỹ của TTh Obama.
Việt Nam đã công bố hình ảnh và clip cho thấy tàu Trung Quốc đã đâm và phun vòi rồng vào các tàu tuần tra của Việt Nam. Một số tàu Việt Nam đã bị phá hỏng và ít nhất 6 người Việt Nam đã bị thương. Trong khi đó, tại BĐ, Philippines đã bắt giữ 11 ngư dân Trung Quốc vì đánh bắt rùa quý hiếm, có thể làm BK càng giận dữ và gia tăng căng thẳng khu vực. Việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của gần toàn bộ diện tích BĐ làm kinh ngạc giới học giả luật pháp quốc tế. Song, việc Trung Quốc đưa giàn khoan cùng các tàu hộ tống có trang bị vũ khi được coi là một trong những bước đi khiêu khích nhất của Trung Quốc trong chiến dịch lâu dài khẳng định chủ quyền tại BĐ. Nếu các bên không đưa ra tín hiệu kiềm chế, căng thẳng có thể dẫn đến khả năng xung đột nghiêm trọng hơn. Hà Nội, vốn không có hy vọng đối đầu với quân đội Trung Quốc, tuyên bố muốn có giải pháp hòa bình và không giống Trung Quốc, Hà Nội không cử tàu hải quân đến khu vực có giàn khoan. Tuy nhiên, một quan chức cấp cao HN cảnh báo rằng mọi sự kiềm chế đều có giới hạn. Phản ứng trước tuyên bố của Washington cho rằng hành động của Trung Quốc mang tính khiêu khích và không có lợi cho ổn định khu vực, NFN BNG Trung Quốc cho rằng Mỹ không có quyền đưa ra các bình luân khinh suất về quyền chủ quyền của Trung Quốc.
Việt Nam có khả năng giới hạn trong việc đối phó với người láng giềng khổng lồ, song có thể dựa vào các quan hệ đối ngoại để kêu gọi sự ủng hộ của khu vực chống lại hành động của Trung Quốc. Chuyên gia về Việt Nam Jonathan London từ ĐH Hồng Kông cho rằng Trung Quốc dường như đang cố tình góp mặt trong vùng biển tranh chấp và buộc Hà Nội phải phản ứng. Những hành động của Trung Quốc xuất hiện tại thời điểm quan trọng… Chính sách của Trung Quốc, mà theo tất cả mọi người, trừ Trung Quốc, là không có cơ sở pháp lý, gây nên tình trạng căng thẳng này”.
Theo giáo sư Carld Thayer, Học viện Quốc phòng Australia, việc Trung Quốc ngang nhiên đem giàn khoan vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam phải gọi đó là hành động khiêu khích, xâm phạm vùng biển đặc quyền của Việt Nam theo luật pháp quốc tế. Việc đưa cả tàu chiến của Hải Quân Quân đội Nhân dân Trung Quốc là hành động leo thang nghiêm trọng, cho thấy Trung Quốc cương quyết muốn chứng tỏ sự hiện diện lâu dài của mình trên vùng biển này. Trung Quốc không phải chỉ khiêu khích riêng đối với Việt Nam mà đã từng làm đối với các nước trong khu vực. Quan hệ của Trung Quốc với Indonesia, Malaysia đã có vấn đề. Trung Quốc đã khiêu khích, xâm lấn vùng biển của Philippines, làm nước này vận động đồng minh và nỗ lực cải thiện năng lực quốc phòng. Đường chín đoạn mà Trung Quốc vẽ nằm chồng lên tất cả các nước trong khu vực cho các nước thấy kế hoạch lâu dài và là một ý đồ lớn nhằm áp đặt chủ quyền trên BĐ. Việc tiếp tục hoạt động giàn khoan sẽ làm các thành viên cốt lõi của ASEAN thống nhất hơn trong cố gắng thuyết phục Trung Quốc từ những hành động quyết đoán như vậy. Trung Quốc hành động trong thời điểm này vì chính quyền Obama hiện được xem là yếu thế và thiếu khả năng phản ứng. Việt Nam không có nhiều lựa chọn. Việt Nam có thể dựa vào ASEAN nhưng kết quả sẽ là một tuyên bố trên giấy lên án sử dụng vũ lực và đe dọa nhưng không chỉ đích danh Trung Quốc. Việt Nam cũng có thể vận động các quốc gia biển khác trong đó có Mỹ và NB. Song, không nước nào sẽ đến Việt Nam để hỗ trợ trực tiếp. Việt Nam có thể sử dụng các kênh ngoại giao. Việt Nam sẽ thất bại nếu cố gắng sử dụng lực lượng quân sự; khi đó, Trung Quốc sẽ tuyên truyền Việt Nam như một nước hiếu chiến.
Trong bài viết trên trang mạng viện Lowy, Australia, học giả Dirk van der Kley đưa ra 3 yếu tố trong vụ việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào gần bờ biển Việt Nam. Thứ nhất, đây là lần đầu tiên Trung Quốc khoan dầu tại vùng biển mà Việt Nam yêu sách; vụ việc này nghiêm trọng hơn những vụ việc va chạm giữa hai nước trước đây, có thể kéo dài hàng tháng và lâu hơn. Thứ hai, không nhất thiết có sự liên hệ giữa chuyến thăm châu Á của TTh Obama và vụ việc giàn khoan HD-981. TTh Obama không đến Hà Nội. Mặt khác tập trận hải quân chung Trung Quốc và Nga tại Biển Hoa Đông có thể được xem là phản ứng của hai nước trên đối với chuyến thăm NB của TTh Obama. Thứ ba, Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNOOC), với ảnh hưởng mạnh tại BK, có thể là nhân tố khởi đầu đằng sau quyết định hạ đặt giàn khoan vào khu vực tranh chấp. CNOOC đã có lịch sử thăm dò và khai thác dầu tại các vùng biển tranh chấp trên BĐ. Chủ tịch CNOOC Wang Yilin tuyên bố giàn khoan biển sâu là vũ khí quốc gia chiến lược cơ động để phát triển công nghiệp khai thác dầu khí xa bờ của Trung Quốc.
Học giả Sam Roggeveen viết trên trang mạng viện Lowy cho rằng thời điềm Trung Quốc đẩy mạnh tính quyết đoán trong tranh chấp biển hoàn toàn là quyết định tỉnh táo của lãnh đạo Trung Quốc. Việc tăng chi phí quân sự đi đôi với các hành động quyết đoán tại khu vực có thể làm suy giảm quyền lực của Mỹ tại khu vực
+ Tin từ Mỹ, Trung Quốc, BBC, RFA, VOA - 5/5: Về việc Trung Quốc đưa giàn khoan đến tác nghiệp tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt nam. Một số tờ báo lớn và hãn thong tấn lớn như AP, Bloomberg, Wall Street Journal ngày 5/5 đưa tin: BNG Việt Nam đã lên tiếng phản đối việc Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 của CNOOC vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Trong khi đó, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã gửi thư tới Chủ tịch và Tổng GĐ của CNOOC phản đối hành động của Trung Quốc và yêu cầu CNOOC dừng ngay các hoạt động và rút giàn khoan ra khỏi vùng biển của Việt Nam.
Đáp lại, Trung Quốc tăng phạm vi cấm tiếp cận giàn khoan 981 thêm 2 hải lý nữa. Trong cuộc họp báo ngày 5/5 ở Bắc Kinh, NPN BNG Trung Quốc, bà Hoa Xuân Oánh đã lên tiếng bác bỏ những cáo buộc phía Việt Nam đưa ra, nói rằng giàn khoan của Hoa Lục hoạt động trong vùng lãnh hải của Trung Quốc.
Một số phân tích đánh giá Trung Quốc đang tiến hành chiến lược từ từ gây sức ép cho các đòi hỏi chủ quyền trên biển bằng cách xem liệu Trung Quốc có thể đi đến đâu, cho rằng các nước láng giềng nhỏ hơn không thể hoặc không sẵn sàng ngăn chặn Trung Quốc. Ian Storey của Viện Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore cho biết đây là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang khẳng định quyền thăm dò và khai thác tài nguyên trong đường chín đoạn của mình cho dù nguồn tài nguyên đó có nằm trong EEZ của quốc gia khác hay không. Sự kiện này có thể dẫn tớ́i một đợt bùng phát căng thẳng mới về chủ quyền Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc mà trong năm 2013 dường như đã lắng xuống đáng kể. Trước đây, các hoạt động trong khu vực tranh chấp thường liên quan đến các tàu thăm dò, lần này là giàn khoan thăm dò cho thấy sự leo thang. Việt Nam sẽ có cơ hội phản đối mạnh mẽ hơn nếu như Philippines thắng trong vụ kiện Trung Quốc tại Tòa Trọng tài quốc tế. Bob Manning của Atlantic Council đánh giá đây là hành động tương tự như những gì Trung Quốc đã làm nhưng sự việc này diễn ra vào thời điểm Trung Quốc dường như đang có bước lùi lại. Tuy nhiên có thể đây là hành động riêng của CNOOC.
Được biết, giàn khoan 981 đã được đưa xuống Biển Đông từ năm 2011, gây quan ngại cho các nước trong khu vực. Khi đó các chuyên gia Việt Nam đã cảnh báo về ý đồ dần dần chiếm hữu Biển Đông thông qua hoạt động dầu khí của Trung Quốc, nhất là khi vị trí đặt giàn khoan nằm trong vùng EEZ của các nước xung quanh. Trong một bài viết năm 2011, nhóm Nghiên cứu Biển Đông cho rằng việc Trung Quốc mang giàn khoan xuống Biển Đông là cách thức “thực hành chiếm cứ biển và từ đó khẳng định sự chiếm hữu thật sự Biển Đông qua hình lưỡi bò”. Nó còn đặt ra một tiền lệ mới “ai đến trước, được hưởng trước” đối với các tài nguyên không tái tạo tại Biển Đông và từ đó Trung Quốc sẽ dần dần ép buộc các quốc gia Biển Đông phải tuân theo chiến lược “gác tranh chấp, cùng khai thác” theo kiểu Trung Quốc.
Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, thời điểm Trung Quốc chọn để đưa giàn khoan đến khu vực thuộc chủ quyền Việt Nam là khá bất ngờ, đó là khi Việt Nam đang say sưa nghỉ lễ và chào đón chiến thắng Điện Biên Phủ. Có nhiều suy đoán: Đây có thể là hành động đáp trả lại chuyến đi châu Á vừa rồi của TTh Mỹ Obama - tín hiệu phản ứng trước chính sách chuyển dịch sang châu Á của chính phủ Mỹ. Hướng suy đoán thứ hai là bên trong nội bộ Trung Quốc đang có nhiều vấn đề, thí dụ như mới nhất là các cuộc “khủng bố” Tân Cương, nên chính phủ nước này đang muốn hướng dư luận về phía khác. Về phía Việt Nam, thì cũng có thể gần đây do Việt Nam đã cho hợp đồng khai thác một số lô dầu, và có tin là Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) cũng muốn nhảy vào nhưng không được Việt Nam cấp phép. Thông tin này cũng cần kiểm chứng nhưng đây cũng có thể là một trong các nguyên nhân trực tiếp.
Dường như Trung Quốc có nhiều mặt trận và họ xoay chuyển các mặt trận khác nhau. Lúc thì hướng về Philippines, lúc thì NB, và nay là hướng về Việt Nam. Trong trường hợp này cần phải khẳng định rằng Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế một cách rõ ràng. Họ cho rằng vị trí giàn khoan thuộc chủ quyền của Trung Quốc, nhưng là chủ quyền nào? Thứ nhất, cấu trúc địa lý mà Việt Nam gọi là Tri Tôn không phải đảo mà chỉ là một bãi ngầm thôi và không có vùng đặc quyền kinh tế đi kèm. Thứ hai, dù thế nào đi chăng nữa Việt Nam cũng khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Vì vậy Việt Nam có thể khẳng định chủ quyền đầy đủ và rõ ràng tại đây. Nếu là vùng biển tranh chấp Trung Quốc cũng không thể có hành động đơn phương như kéo giàn khoan ra như vậy.
Giàn khoan của Trung Quốc hiện đang trôi lập lờ, và để cố định giàn khoan cho nó hoạt động trên vùng biển đó thì phải mất 5-7 ngày. Và trong giai đoạn đó Việt Nam sẽ phải bằng mọi cách ngăn không cho Trung Quốc đặt giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vì nếu Trung Quốc đạt được thì điều này sẽ trở thành tiền lệ và Trung Quốc sẽ tiếp tục lấn tới. Trước mắt là phản đối ngoại giao, kêu gọi tiếng nói của dư luận. Tuy nhiên nếu Trung Quốc vẫn tiếp tục thì Việt Nam sẽ phải có các phương án khác, trong đó có phương án như đã từng làm khi Trung Quốc ký hợp đồng với công ty Creston hoạt động ở bãi Tư Chính, các tàu hải quân của Việt Nam cũng đã ra bao vây và kêu gọi, mặc dù giữ hòa bình và không nổ súng. Trường hợp này, lực lượng hải quân của Việt Nam cũng cần sẵn sàng để làm nhiệm vụ tương tự như vậy.
Vấn đề là Trung Quốc sẽ phản ứng thế nào? Nếu Trung Quốc cứ kiên quyết đặt giàn khoan vào thì chắc chắn sẽ có xung đột.
Trong khi đó, theo nguyên Vụ trưởng Ban Biên giới CP - PGS. TS. Hoàng Ngọc Giao thì động thái mới về giàn khoan của Trung Quốc “nghiêm trọng hơn” rất nhiều vụ cắt cáp tàu Bình Minh trước đây và ông khẳng định đây là thời điểm thích hợp cho một vụ kiện độc lập. Nếu như hành động cắt cáp tàu Bình Minh chỉ là sự khiêu khích thì hành động mới này đang tạo nên một tiền lệ để củng cố cho sự hiện diện dần dần của Trung Quốc xuống phía Nam Biển Đông để thôn tính Trường Sa, cũng như một số vùng giàu tài nguyên nằm trên vùng thềm lục địa của Việt Nam. Ông Giao cũng cho rằng cần có các hành động mạnh mẽ, dứt khoát hơn, mà trong đó phải sử dụng các đường dây điện thoại nóng để trao đổi thẳng thắn trên tư cách nhà nước với nhà nước, với Trung Quốc mà không nên dùng cách đối thoại “doanh nghiệp - doanh nghiệp.”
TS Vũ Cao Phan, Phó chủ tịch hội Hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc, nguyên cán bộ giảng dạy Học viện Quân sự Cấp cao thuộc Học viện Quốc phòng, BQP nêu ra những điều khiến Trung Quốc ngày càng xem thường Việt Nam dẫn tới kết quả của ngày hôm nay: Quan hệ của Việt Nam Trung Quốc lâu rồi luôn luôn có trạng thái không bình thường. Có thể thấy hôm nay một đoàn cấp cao của Trung Quốc ký được một thông báo chung về quan hệ giữa hai nước với những điều khoản, thông báo mang cho người ta hy vọng, nhưng ngay chỉ ít lâu sau thì lại có những hành động phủ định việc đó. Quan hệ Việt-Trung vần đề lớn nhất hiện nay là cách ứng xử của Việt Nam như thế nào để Trung Quốc có thể tôn trọng Việt Nam. Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc có thể tốt nhưng phải trên cơ sở bình đẳng. Có một câu ngạn ngữ: “Đành để người ta ghét, chớ để người ta khinh”. Tôi không muốn chúng ta phải tỏ ra một cách cực đoan về vấn đề Trung Quốc nhưng phải làm sao cho Trung Quốc thấy rằng không thể trong quan hệ với Việt Nam mà hôm nay nói thế này mai lại làm thế khác được.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên ĐS Việt Nam tại Trung Quốc thì cho rằng: CP/Việt Nam phải phản đối quyết liệt và các tài liệu của chúng ta phải đưa ra quốc tế để cho thế giới người ta thấy rõ là Trung Quốc sai trái vì có những hành động bất hợp pháp nhưng tôi tiếc là CP ta không làm được những việc như thế mà cứ im lặng. Tất nhiên im lặng thì Trung Quốc càng lấn tới. Ta không chủ động hành động quân sự nhưng phải kiện ra tòa án quốc tế.
Đại tá Phạm Xuân Phương từng công tác trong Cục Chính trị trước khi nghỉ hưu thì cho rằng: chuyện này phải phản đối ở mức cao hơn nữa ở mức CP chứ không phải ở BNG nữa. Đem cảnh sát biển ra thì cũng là một lực lượng vũ trang tuy phạm vi nó hẹp hơn nhưng chưa chắc giải quyết được vấn đề gì mà không khéo thì lại rơi vào cái bẫy của họ. Có ý kiến cho rằng, vận động kiều bào khắp thế giới lên tiếng tố cáo hành vi này của Trung Quốc là cách hay nhất trong lúc này.
+ Tin từ Trung Quốc - 5/5: Trung Quốc - Philippines: Biển Đông. Mạng Tân Hoa xã ngày 4/5 dẫn nguồn tờ Philippines Star đưa tin, ngày 3/5, không quân Philippines tiếp tế đường không cho chiếc tàu đổ bộ BRP Sierra Madre của Philippines “mắc cạn” ở bãi đá “Nhân Ái” đã phát hiện khu vực phụ cận bãi đá “Nhân Ái” xuất hiện 5 chiếc tàu của Trung Quốc, bao gồm tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10, tàu hộ vệ Giang Hồ và 3 tàu hải cảnh. Phóng viên báo Philippines Star đã tham gia lần tiếp tế đường không lần này.
+ Tin từ Philippines - 5/5: Philippines - Mỹ bắt đầu cuộc diễn tập chung Balikatan 2014 (Philippinese Star, Inquirer - 5/5). Ngày 5/5, Philippines và Mỹ đã bắt đầu cuộc tập trận thường niên quy mô lớn mang tên Balikatan (Vai kề vai) năm 2014 dự kiến diễn ra từ ngày 5 - 16/5. Tham gia diễn tập gồm 5.500 binh sỹ (2.500 binh sỹ Mỹ và 3.000 binh sỹ Philippines). Nội dung cuộc diễn tập bao gồm: tiến hành diễn tập bắn đạn thật, tìm kiếm cứu nạn và thực hành các kịch bản ứng phó nhân đạo tại một số địa điểm ở Philippines. Ngoài ra, còn có diễn tập giám sát hàng hải và đổ bộ bờ biển tại tỉnh Zambales, phía Bắc thủ đô Manila và đối diện với Biển Đông.
NT Philippines Albert del Rosario tuyên bố cuộc tập trận này là cần thiết để đối phó với ý đồ “thay đổi hiện trạng” của các nước láng giềng “hung hăng.” Trọng tâm của cuộc tập trận là nâng cao “năng lực hàng hải” của Philippines nhằm “ứng phó với các thách thức” ngày càng gây căng thẳng ở khu vực CÁ-TBD bắt nguồn từ những tuyên bố chủ quyền và lãnh hải.
Cuộc diễn tập diễn ra chỉ vài ngày sau khi TTh Barack Obama tuyên bố ủng hộ “mạnh mẽ” Manila trong cuộc tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc và tái khẳng định cam kết của Washington đối với chính quyền Manila trong Hiệp ước phòng thủ chung 1951. Washington và Manila cũng vừa đạt được một thỏa thuận hợp tác quốc phòng mới ngay trước chuyến công du Philippines của TTh Obama hồi tuần trước.
+ Tin từ ASEAN - 6/5: Hiệp định quân sự Mỹ-Philippines và ảnh hưởng đến trật tự khu vực ASEAN (Jakarta Post). Dễ thấy việc Mỹ ký Hiệp định Hợp tác Quân sự Tăng cường với Philippines là một bước trong chiến lược tái cân bằng của Mỹ ở Đông Á. Đằng sau hành động này cùng những động thái thắt chặt hợp tác quân sự của Mỹ với các đồng minh và đối tác trong khu vực là sự cạnh tranh Mỹ-Trung ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh này, nhiều lo ngại cho rằng trật tự khu vực ĐNA đang bị chi phối bởi một nền chính trị vũ lực hay sự cân bằng quyền lực theo cách cổ điển.
Điều này khiến người ta nghi ngờ về tương lai trật tự Đông Á và liệu cách tiếp cận của ASEAN, dựa trên các nguyên tắc và xây dựng thể chế, có đảm bảo được hòa bình, và ổn định cho khu vực hay sẽ sớm bị gạt ra ngoài lề?
Còn quá sớm để cho rằng cách tiếp cận của ASEAN không còn hữu dụng. ASEAN cho rằng khu vực Đông Á luôn bị ảnh hưởng bởi ba kiểu trật tự: (i) trật tự hiện thực dựa trên vai trò của các nước lớn và sự tranh giành quyền lực; (ii) trật tự trên dựa nền tảng các nguyên tắc chung; và (iii) trật tự dựa trên các thể chế. Trật tự thể chế này thể hiện qua các cơ chế mà ASEAN đóng vai trò trung tâm như ARF, APT và EAS.
Thách thức đặt ra cho ASEAN là làm sao để trường phái hiện thực không trở thành xu thế áp đảo, làm sao để ba kiểu trật tự nói trên củng cố lẫn nhau, chứ không triệt tiêu nhau. Để làm vậy cần hai tiền đề:
1/ ASEAN và các nước lớn cần chấp nhận việc 3 trật tự này liên hệ mật thiết với nhau. Trật tự theo quy chuẩn, dựa trên thể chế không thể tồn tại nếu thiếu sự cân bằng quyền lực ổn định giữa các nước lớn, đồng thời, trật tự hiện thực chỉ dựa trên cạnh tranh quyền lực sẽ dẫn đến nguy cơ xung đột. Theo đó, các nước lớn có lợi ích trong việc ủng hộ và thúc đẩy trật tự thể chế (do ASEAN đóng vai trò trung tâm);
2/ Các nước trong khu vực cần xóa bỏ nỗi sợ hãi về sự trỗi dậy của Trung Quốc vì sự sợ hãi này thúc đẩy họ chọn chính sách “cân bằng” hoặc “phù thịnh”. Đáng tiếc, ngày càng có nhiều nước chọn chính sách “cân bằng” hoặc “liên minh” chống lại Trung Quốc. Những hành động quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở biển Đông là nguyên nhân chính cho sự lựa chọn này.
Do đó, nỗi e sợ Trung Quốc có thể được giải tỏa nếu vấn đề Biển Đông được xử lý một cách hoà bình bằng việc sớm thông qua Bộ Quy tắc Ứng xử (CoC) giữa ASEAN và Trung Quốc.
+ Tin từ Bắc Kinh, Thượng Hải, Mỹ, Ấn Độ, BBC, RFA, Reuters - 6, 7/5: Về vụ Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam. Một số trang mạng của Trung Quốc nói rằng, Việt Nam lần này hết sức hung hăng, đang tìm cách bao vây giàn khoan CNOOC 981. Một số tàu lớn của cảnh sát biển Việt Nam đã được điều ra ngăn chặn giàn khoan Trung Quốc. Còn Trung Quốc cũng đã huy động số lượng lớn tàu chiến để chống lại, bao gồm cả các tàu chiến mà Trung Quốc sử dụng để hộ tống tàu sân bay Liêu Ninh trước đây cũng được triển khai đến hiện trường. Hiện hai bên chưa nổ súng, mà chỉ đâm húc để cản đường nhau. Vị trí mà cảnh sát biển hai bên đối đầu nhau được cho là cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa khoảng 17 hải lý, khá gần với vị trí giàn khoan Trung Quốc triển khai.
Ngày 6/5, trong cuộc điện đàm với Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì, PTg, BTNG Việt Nam Phạm Bình khẳng định: “Việt Nam không thể chấp nhận và kiên quyết phản đối việc làm này của Trung Quốc; yêu cầu Trung Quốc rút hết giàn khoan và tất cả các tàu hộ tống ra khỏi khu vực. Việt Nam sẽ đưa ra các biển pháp cần thiết và phù hợp để bảo vệ lợi ích và quyền lợi chính đáng của Việt Nam”. Trong khi đó, ngày 6/5, lãnh đạo Bộ Công Thương Việt Nam khẳng định Việt Nam sẽ có biện pháp bảo vệ lãnh thổ và quyền kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp Việt. Trước đó, Bộ Công thương Việt Nam đã chỉ đạo Petro Vietnam có ý kiến chính thức với CNOOC, yêu cầu đưa giàn khoan HD981 ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Giới quan sát cho rằng Việt Nam đang ở trong tình thế khó xử vì không thể không phản ứng nhưng cũng không thể để xảy ra xung đột vũ trang với Trung Quốc.
Về phía Trung Quốc, ngày 6/5, Thời báo Hoàn của Trung Quốc đăng bài xã luận tựa đề "Trung Quốc cần tỏ thái độ cứng rắn với Hà Nội", theo đó cáo buộc gần đây nhà chức trách Việt Nam đã "sách nhiễu nghiêm trọng giàn khoan nước sâu của Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc". Tờ báo nhấn mạnh: "Người ta tin rằng chính phủ Trung Quốc sẽ không bao giờ thỏa hiệp vì sự khiêu khích của Việt Nam. Không chỉ vì vị trí của giàn khoan nằm trong đường chín đoạn, mà còn vì nó nằm gần Hoàng Sa mà Trung Quốc nắm giữ chủ quyền". Việt Nam đã chọn thời điểm hiện nay, khi Trung Quốc đang có xung đột với NB và Philippines, đồng thời Mỹ đang chuyển hướng sang châu Á, để gây hấn buộc Trung Quốc nhượng bộ. Nếu Việt Nam có thêm hành động, mức độ phản công của Trung Quốc sẽ được tăng lên…Trung Quốc cần cân nhắc liệu Việt Nam có hung hăng hơn cả Philippines hay không. Nếu vậy, Trung Quốc cần thay đổi chính sách đối với Việt Nam và dạy cho Hà Nội một bài học thích đáng. Tờ báo tuyên bố việc khoan thăm dò sẽ không dừng lại vì nếu dừng lại, đây sẽ là “thất bại lớn trong chiến lược Biển Đông của Trung Quốc”.
Về phía Mỹ, tại cuộc họp báo ngày 6/5, NPN BNG Mỹ cho biết: Mỹ đang tìm hiểu cẩn thận về vấn đề này. Xét đến lịch sử căng thẳng ở biển Đông, quyết định của Trung Quốc về việc vận hành giàn hoan dầu trong vùng biển tranh chấp là có tính chất khiêu khích và không có lợi cho duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực. Các sự kiện này cho thấy sự cần thiết các bên đòi hỏi chủ quyền phải làm rõ đòi hỏi chủ quyền phù hợp với luật pháp quốc tế và thống nhất về việc hoạt động nào được phép trong khu vực tranh chấp. Trong khi đó, một ngày trước khi đến công tác tại Việt Nam, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Đông Á - TBD Daniel Russel cho biết Washington đang xem xét sự việc, đồng thời cảnh giác cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc nên thận trọng. Trả lời báo chí Hongkong hôm 6/5, ông Daniel Russel nói mọi phía cần thận trọng và tự kiềm chế, kinh tế thế giới quá mong manh và nền ổn định khu vực rất quan trọng, không thể để phải chịu nguy cơ vì lợi ích kinh tế ngắn hạn. Được biết, ngày 7/5, ông Daniel Russel sẽ tới Hà Nội trong chuyến thăm hai ngày. Ông sẽ có tiếp xúc với các quan chức cao cấp của Việt Nam và tham gia Đối thoại CÁ - TBD Mỹ-Việt. Chủ đề căng thẳng Biển Đông được cho sẽ nằm trên nghị trình cuộc đối thoại.
Bình luận về sự việc, tạp chí Foreign Policy ngày 6/5 đăng bài viết "How do you say "Drill, Baby, Drill" in Chinese" của tác giả Keith Johnson, cho rằng: Trung Quốc đã châm ngòi cho leo thang căng thẳng nguy hiểm liên quan tranh chấp Biển Đông sau việc triển khai giàn khoan Hải dương Dầu khí 981 (HD-981) để khai thác dầu khí trong vùng nước thuộc tuyên bố chủ quyền của cả Trung Quốc và Việt Nam. Đây không phải là lần đầu tiên xảy ra chạm trán giữa Trung Quốc và các nước láng giềng khu vực liên quan việc tìm kiếm năng lượng, tuy nhiên bước đi này là một vấn đề lớn với nhiều lý do. Trung Quốc đã thực hiện các hoạt động thăm dò năng lượng tại các khu vực tranh chấp và ngăn cản các nước khác, trong đó có Việt Nam tiến hành các hoạt động thăm dò. Tuy nhiên, đây dường như là lần đầu tiên các công ty dầu mỏ Trung Quốc thực hiện hoạt động khoan giếng dầu tại vùng nước thuộc đòi hỏi của nước khác. Một điều đáng lưu ý là Trung Quốc và Việt Nam có lịch sử xung đột. Bước đi của Trung Quốc cũng như là một cái tát đối với TT Mỹ Obama mới trở về sau chuyến thăm châu Á để trấn an các đồng minh như NB, HQ, Philippines là Mỹ sẽ răn đe các hành động bắt nạt của Trung Quốc.
Các chuyên gia nhận định việc triển khai giàn khoan khó có thể dẫn tới một cuộc chiến nhưng có thể dần giúp Trung Quốc kiểm soát khu vực. Giàn khoan của CNOOC nằm trong khu vực 120 hải lý từ phía đông bờ biển Việt Nam, không xa khu vực mà các công ty quốc tế như Tập đoàn Exxon Mobil đã phát hiện lượng lớn khí gas dự trữ. Việc triển khai giàn khoan này dường như là một phần chiến lược của CNOOC để phục vụ “lãnh thổ quốc gia di động” để có thể mở rộng chủ quyền của Trung Quốc tới các vùng nước mở.
Holly Marrow, chuyên gia về Biển Đông tại Trung tâm Belfer, Đại học Havard nhận định cho dù lượng dầu có nhiều như thế nào cũng không đủ bù đắp được cho những thiệt hại do cách tiếp cận “nặng tay” của Trung Quốc; cái giá về ngoại giao cho những gì Trung Quốc đang làm là quá cao và do đó lớn hơn những lợi ích an ninh năng lượng đem lại.
Đưa Trung Quốc ra tòa, Việt Nam sẽ bị trả đũa? Đài BBC (Đêm 6/5). Sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào vùng gần Hoàng Sa và ngay trong EEZ Việt Nam cho thấy tham vọng của nước này trong việc dùng Hoàng Sa làm bàn đạp, kết hợp với yêu sách đường lưỡi bò để không chỉ chiếm đảo, mà còn tham vọng áp đặt quyền chủ quyền lên các vùng biển quanh Hoàng Sa của Việt Nam.
Hành động này nối tiếp việc bắt giữ, xua đuổi, đối xử vô nhân đạo với ngư dân Việt Nam hoạt động trong ngư trường truyền thống hàng trăm năm nay ở quần đảo Hoàng Sa. Để đối phó, đương nhiên Việt Nam cần các phản ứng tức thì như phản đối ngoại giao và trên thực địa. Tuy nhiên về trung và dài hạn, Việt Nam cần chính thức yêu cầu Trung Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra phân xử bởi một cơ quan trọng tài quốc tế. Rõ ràng việc giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán song phương như lâu nay không mang lại kết quả, vì Trung Quốc không chấp nhận có tranh chấp trên quần đảo này. Nếu để lâu hiện trạng như vậy sẽ càng ngày bất lợi cho Việt Nam và các hành động như trên sẽ càng ngày càng lặp lại.
Một câu hỏi quan trọng mà chúng ta cần phải trả lời là: Trung Quốc sẽ trả đũa về kinh tế như thế nào nếu Việt Nam thách Trung Quốc ra trọng tài quốc tế về vấn đề Hoàng Sa? Ngay sau khi Việt Nam tuyên bố yêu cầu Trung Quốc ra tòa về Hoàng Sa, có thể Trung Quốc sẽ có các trả đũa tức thì và ngắn hạn như việc ngưng nhập một số sản phẩm nào đó trong một khoảng thời gian. Một ví dụ tiêu biểu cho kiểu phản ứng này là trả đũa của Trung Quốc khi có căng thẳng giữa hai nước này và Philippines trong vòng hai tháng trên vùng biển quanh Bãi cạn Scarborough. Vào đỉnh điểm căng thẳng, tức giữa tháng 5/2012 và sau ngày bắt đầu căng thẳng một tháng, Trung Quốc tuyên bố ngưng nhập 1.200 côngtennơ trái cây của Philippines đang đậu ở các cảng. Đồng thời Trung Quốc cũng khuyến cáo ngừng du lịch vào Philippines. Việc này đã gây một số khó khăn cho nông dân Philippines và chính quyền Tổng thống Philippines. Tuy nhiên một điều thú vị là suốt thời gian căng thẳng này, mức độ ủng hộ của người dân và các đảng phái chính trị đối với Tổng thống Philippines đã lên cao. Toàn nước Philippines như đoàn kết lại một khối sau Tổng thống Aquino. Sau sự kiện này Philippines đã đệ đơn thưa Trung Quốc ra trọng tài lập bởi Công ước LHQ về Luật Biển.
Các trả đũa kiểu như trên là các điều mà Việt Nam từ chính phủ đến người dân phải chuẩn bị. Những đặc điểm bình thường là hạn chế của nền sản xuất công, nông nghiệp Việt Nam như nhỏ lẻ, hay xáo động, lại phần nào trở nên tích cực trong “thời chiến”, ví dụ như có khả năng thích ứng cao và tự điều chỉnh linh hoạt trong nhiều tình huống khó khăn. Và cũng như Philippines, người dân Việt Nam, một khi được đặt trước vấn đề chủ quyền dân tộc thường có phản ứng kiên cường và chấp nhận hy sinh. Vấn đề là chính phủ phải phản ứng rõ ràng, minh bạch và tạo được niềm tin trong dân chúng. Trung Quốc có thể tác động lên giao dịch thương mại, làm ngưng trệ giao thương, hợp tác, đầu tư giữa hai nước.Điều này trong ngắn hạn sẽ làm ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân Việt Nam. Tuy nhiên về trung hạn và dài hạn, các trả đũa này nếu kéo dài sẽ là liều thuốc quý để Việt Nam giải quyết dứt điểm các vấn đề, các điểm yếu trong mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc.
Thứ nhất, hiện nay Việt Nam đang là nước nhập siêu đối với Trung Quốc, giá trị nhập khẩu gấp khoảng 2-3 lần giá trị xuất khẩu và không có dấu hiệu thu hẹp. Các trả đũa về thương mại dưới bất cứ hình thức nào của Trung Quốc, nếu có, cũng chỉ có thể làm Việt Nam nhập khẩu ít đi từ Trung Quốc, thương mại hai nước sẽ đi đến cân bằng hơn.
Thứ nhì, các mặt hàng Việt Nam nhập từ Trung Quốc có nhiều hàng nông sản, 40% là các hàng hóa cơ bản, thâm dụng tài nguyên và công nghệ thấp. Căng thẳng thương mại với Trung Quốc sẽ buộc Việt Nam quay về với các sản phẩm nông sản và cơ bản của chính mình. Ngoài ra việc Việt Nam phải nhập các sản phẩm như sắt thép, máy móc thiết bị từ Trung Quốc một phần lớn là do các nhà thầu EPC Trung Quốc hay các dự án FDI từ Trung Quốc không tuân thủ các chỉ tiêu sử dụng sản phẩm và nhà thầu Việt Nam. Việt Nam hoàn toàn có thể cái thiện và giảm thiểu nhập khẩu từ Trung Quốc các dạng sản phẩm này nếu quản lý nghiêm chỉnh các dự án FDI, các việc chấm thầu EPC.
Thứ ba, do đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam không nhiều, chiếm tỷ trọng FDI nhỏ so với các nước khác như Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, trong trường hợp Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa, thì việc Trung Quốc (nếu có) cắt giảm các nguồn đầu tư cũng không thể tạo thành một sức ép đối với kinh tế Việt Nam.
Tuy đem đến Việt Nam không nhiều ngoại tệ, Trung Quốc lại có mức độ hưởng lợi cao hơn rất đáng kể so với các quốc gia khác. Các dự án FDI từ Trung Quốc thường đưa nhân công Trung Quốc tràn lan thành cả làng, cả phố Trung Quốc ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Các công ty Trung Quốc lại kéo theo những máy móc thiết bị công nghệ cũ, lạc hậu sang làm việc. “Căng thẳng” kinh tế nếu có với Trung Quốc sẽ buộc Việt Nam xử lý dứt điểm các vấn đề này, và đó là một điều tốt.
Trung Quốc là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam, nhưng không phải là đối tác thương mại duy nhất, và khó có thể là một đối tác tốt, ổn định, bình đẳng và tuân thủ các giá trị công bằng, bảo vệ môi trường, ít nhất nếu tình hình tiếp tục diễn tiến như hiện nay. Việc Trung Quốc trả đũa kinh tế nếu Việt Nam yêu cầu họ ra tòa sẽ cho thấy nước này nhập nhằng giữa kinh tế và chính trị, và đó là cơ hội để Việt Nam hướng đến những bạn hàng bình đẳng hơn, với cán cân thương mại thăng bằng hơn cho Việt Nam, ví dụ như Mỹ và EU, và giảm sự phụ thuộc về kinh tế của Việt Nam vào Trung Quốc.
Khác với căng thẳng Philippines và Trung Quốc diễn ra trong vòng hai tháng, việc Việt Nam đưa Trung Quốc ra tòa là một việc có thể diễn ra khá dài, vài tháng thậm chí vài năm. Trong trường hợp đó, phản ứng của Trung Quốc sau khi Philippines kiện Trung Quốc trước Tòa Trọng tài Luật Biển là một ví dụ cần xem xét. Điểm thú vị đáng lưu ý là từ khi Philippines đệ đơn kiện vào tháng 1/2013 đến nay, hầu như chúng ta không ghi nhận được một trả đũa kinh tế rõ ràng nào của Trung Quốc đối với Philippines, khác hẳn với trường hợp căng thẳng trong hai tháng trên Bãi cạn Scarborough.
Một ví dụ khác là phản ứng của Trung Quốc sau khi Việt Nam thông qua Luật Biển vào ngày 21/6/2012. Theo Carl Thayer, Trung Quốc đã biết về việc Việt Nam soạn thảo Luật Biển và đã nhiều lần can thiệp đề nghị Việt Nam dừng lại. Tuy nhiên, sau khi Việt Nam thông qua Luật Biển, gần như không có một động thái trả đũa kinh tế rõ ràng nào của Trung Quốc được ghi nhận. Các ví dụ trên cho thấy Trung Quốc không dễ dàng, hoặc không thể sẵn sàng sử dụng các biện pháp trả đũa kinh tế.
Các mối quan hệ kinh tế, thương mại giữa các quốc gia và giữa quốc gia và các tổ chức kinh tế ngày càng gắn kết, chặt chẽ, và đòi hỏi một sự ổn định, hợp lý, và nhất quán trong cư xử. Nhất là Trung Quốc hiện có kim ngạch thương mại đứng đầu thế giới, động thái nào của họ cũng đều được theo dõi và chỉ trích nếu quá đáng và kéo dài.
Đó là lý do Trung Quốc thường chọn cách tiếp cận gây sức ép chính trị ngấm ngầm, và cố gắng giữ sự việc trong tầm mơ hồ, xử lý nội bộ với nhau, trong khi đó vẫn tiếp tục các hành động lấn tới: chiếm đóng đảo, xua đuổi ngư dân, và đưa giàn khoan dầu vào thềm lục địa Việt Nam. Hiểu được điều này, Việt Nam hơn bao giờ hết cần sớm đưa vấn đề ra ánh sáng, ra công lý quốc tế, bằng cách chính thức yêu cầu Trung Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra xử lý bởi một trọng tài quốc tế. Vì chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa, vùng biển quanh đó, và vì tương lai của đất nước.
Trung Quốc làm leo thang căng thẳng với Việt Nam vì biết Mỹ sẽ không can thiệp? Reuters, Đài RFI, Đài TNHK (Hà Nội/Bắc Kinh 7/5)
Việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là một bước leo thang mới nhằm xác định chủ quyền trên Biển Đông. Phải chăng Bắc Kinh hành động như vậy vì họ tin rằng Mỹ sẽ không can thiệp vào vùng biển này?
Từ trước đến nay, Trung Quốc vẫn thường xuyên đưa các tàu tuần tra đến Biển Đông, nhưng đây là lần đầu tiên Bắc Kinh đặt một giàn khoan lớn đến như vậy. Giàn khoan HD-981 có kích thước gần như một hàng không mẫu hạm. Khác với những lần trước, lần này Việt Nam buộc phải hành động để bảo vệ lãnh hải, bởi nếu để yên cho Trung Quốc đặt cố định giàn khoan thì chẳng khác gì công nhận khu vực này thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Nhưng với tương quan lực lượng bất lợi như vậy, liệu Việt Nam có thể ngăn chặn được hành vi xâm lược này của Trung Quốc hay không khi nước này không có một cường quốc nào đứng sau lưng yểm trợ?
Ngay cả Philippines cũng khó trông chờ vào đồng minh Mỹ. Tháng trước, Manila tuyên bố rằng chiểu theo hiệp ước an ninh song phương, Mỹ có nghĩa vụ trợ giúp Philippines trong trường hợp lãnh thổ hoặc lực lượng vũ trang của nước này trên Biển Đông bị tấn công. Thế nhưng, cho tới nay, Tổng thống Mỹ Barack Obama chưa bao giờ tuyên bố dứt khoát là Mỹ sẽ can thiệp vào Biển Đông để trợ giúp Philippines. Theo hãng tin Reuters, hiện nay Washington không còn ủng hộ quan điểm của Manila rằng Mỹ có nghĩa vụ can thiệp nếu xảy ra xung đột trên Biển Đông. Còn Trung Quốc có lẽ sẽ cố giữ cho các tranh chấp trên Biển Đông ở một mức vừa đủ để Washington thấy rằng không đáng để họ phải can thiệp quân sự.
Tình hình Biển Đông khác với Biển Hoa Đông, nơi Trung Quốc đang tranh chấp với Nhật Bản về chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Chính quyền Obama đã nói rõ rằng quần đảo Senkaku nằm trong khuôn khổ hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật, tức là nếu quần đảo này bị Trung Quốc tấn công, Mỹ sẽ bảo vệ. Có lẽ vì thấy không thể làm được gì hơn ở vùng Biển Hoa Đông, nay Trung Quốc tập trung lấn chiếm Biển Đông vì nghĩ rằng Mỹ sẽ rất ngại ra tay hỗ trợ các nước Đông Nam Á.
Đài TNHK dẫn lời chuyên gia phân tích an ninh thuộc Đại học Quốc gia Australia ở Canberra, ông John Blaxland, cho rằng việc Trung Quốc đặt giàn khoan gần Hoàng Sa là một phần trong chiến dịch dài ngày của Trung Quốc nhằm khẳng định các đòi hỏi chủ quyền của họ tại Biển Đông. Ông John Blaxland nói: “Chắc chắn, Trung Quốc đang thực hiện một kế hoạch lâu dài mà họ đã đề ra từ lâu, đó là bảo đảm việc Trung Quốc nắm quyền kiểm soát vùng biển này ít nhất là trên thực tế, bất chấp những cố gắng của các nước như Philippines đòi mang vấn đề ra giải quyết trước tòa án trọng tài quốc tế, và bất chấp những lời kêu gọi của Việt Nam yêu cầu sự hậu thuẫn của quốc tế, đặc biệt của ASEAN và các tổ chức khu vực khác. Nói một cách đơn giản, Trung Quốc đang chậm rãi nhưng chắc chắn đòi thực hiện ý định của họ cho bằng được”.
Một chuyên gia về Việt Nam tại Đại học Hong Kong, Giáo sư Jonathan London, nhận định rằng Hà Nội đang phải đối mặt với một vấn đề nhạy cảm, đó là phải tìm cách đương đầu với Trung Quốc - đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Ông Jonathan nói: “Đây là một thời điểm rất quan trọng đối với Hà Nội. Việt Nam đang phải đối mặt với thực tế là phải có những bước đi cụ thể nhằm chống lại những hành động mà họ cho là xâm phạm khu đặc quyền kinh tế của quốc gia và xâm phạm chủ quyền của Việt Nam”.
Hãng Reuters cũng dẫn nhận định của hai chuyên gia thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế của Washington là ông Ernest Bower và ông Gregory Poling cho biết việc Trung Quốc đặt giàn khoan tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngay sau chuyến công du 4 nước châu Á của Tổng thống Barack Obama hồi cuối tháng 4 vừa qua cho thấy Bắc Kinh rõ ràng đang muốn thử thách quyết tâm của Việt Nam, của các nước láng giềng thuộc ASEAN và của Washington. Theo hai chuyên gia này, Bắc Kinh có lẽ đang cố gắng “làm thay đổi căn bản hiện trạng” khi thấy Washington còn phải bận tâm tới những diễn biến ở Ukraine, Nigeria và Syria.
Theo một quan chức ngành dầu khí của Trung Quốc, việc triển khai giàn khoan dường như là một quyết định có ý nghĩa chính trị hơn là thương mại. Vị quan chức đề nghị giấu tên này nói: “Nó thể hiện ý chí của chính quyền trung ương Trung Quốc và cũng liên quan tới chiến lược châu Á của Mỹ. Nó không mang động cơ thương mại. Không phải CNOOC (Tổng công ty Dầu khí Hải dương Quốc gia Trung Quốc) có kế hoạch khai thác lớn ở khu vực này”.
Ông Ngô Sỹ Tồn - Chủ tịch Viện Nghiên cứu Nam Hải (Biển Đông), một cơ quan cố vấn của chính phủ Trung Quốc - cho rằng Trung Quốc chưa chắc đã để ý tới những quan ngại của Việt Nam. Ông nói: “Nếu chúng tôi dừng công việc lại ngay khi Việt Nam phản đối, Trung Quốc sẽ không thể đạt được bất cứ điều gì ở Biển Đông. Chúng tôi đã để mất cơ hội quý giá cho việc khoan khai thác dầu khí ở Trường Sa. Lần này, chúng tôi khoan ở Tây Sa (Hoàng Sa) chứ không phải ở Nam Sa (Trường Sa), ở đây chẳng có tranh chấp lãnh hải gì hết. Tôi cho rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục kế hoạch của mình (ở Hoàng Sa), cho dù Việt Nam có nói và làm gì”.
Mỹ đã lên tiếng cảnh báo Trung Quốc rằng quyết định đặt giàn khoan của Trung Quốc tại các vùng biển đang tranh chấp là một hành động khiêu khích, không mang lại ích lợi gì và Mỹ đang theo dõi sát động thái của Trung Quốc. Ngày 6/5, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Jen Psaki nói: “Xét những căng thẳng trong thời gian gần đây ở Biển Đông, quyết định của Trung Quốc cho giàn khoan hoạt động trong các vùng lãnh hải đang tranh chấp là một hành động khiêu khích, không giúp ích gì cho việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực”.
Ngày 7/5, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đáp lại lời chỉ trích của Mỹ khi nói rằng Mỹ không liên quan gì tới hoạt động khoan dầu của Trung Quốc trong Biển Đông, và Washington không có quyền đưa ra những phát biểu "vô trách nhiệm" về các quyền tự quyết của Trung Quốc.
Về phía Ấn Độ, báo chí nước này đưa tin, CP ẤĐ tỏ ra bất ngờ trước hành động này của Trung Quốc trong vùng biển của Việt Nam. Các quan chức CP đặc biệt bất ngờ vì Trung Quốc đã có hành động này sau khi ONGC quyết định tăng cường sự hiện diện tại Việt Nam. Việt Nam đã mời chào ONGC Videsh (OVL) tham gia thêm 2 lô dầu khí sau khi đã mời tham gia 5 lô. Tất cả các lô này được mời chào mà không qua đấu thầu. Trong khi theo trang Zee News India, một viên chức trong ngành dầu khí của Trung Quốc nói rằng việc triển khai giàn khoan của CNOOC đến vùng biển gần Việt Nam giống như một quyết định chính trị hơn là thương mại. “Điều này khẳng định ý chí của chính quyền trung ương và liên quan cả đến chiến lược của Mỹ ở CÁ”.
Trong khi đó, các chuyên gia quân sự khẳng định rằng Hải quân Trung Quốc sẽ sớm cho xây dựng một sân bay tại Đá Gạc Ma nhằm tăng cường khả năng chiến đấu tại Biển Đông.
Bình luận về sự kiện, chuyên gia phân tích an ninh thuộc Đại học Quốc gia Australia ở Canberra, ông John Blaxland nói rằng loan báo của Trung Quốc về việc đặt giàn khoan gần Hoàng Sa là một phần trong một chiến dịch dài ngày của Trung Quốc, khẳng định các đòi hỏi chủ quyền của họ tại Biển Đông.
Giáo sư Jonathan London từ Đại học Hong Kong, nói Hà Nội đang phải đối đầu với một vấn đề nhạy cảm, giữa lúc Hà Nội tìm cách đương đầu với Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam liên quan tới cuộc tranh chấp này. Ông nói: Đây là một thời điểm rất quan trọng đối với Hà nội. Có lẽ tình huống này đã được đoán trước từ khá lâu, nhưng giờ đây Việt Nam đang phải đối mặt với một tình huống, khi mà Hà Nội phải có những bước cụ thể để chống lại hành động mà họ cho là xâm phạm khu đặc quyền kinh tế của quốc gia, và xâm phạm chủ quyền của Việt Nam.
Tờ Les Echos của Pháp ngày 6/5 thì nhận định hành động của Trung Quốc thực sự không phải là một bất ngờ đối với Việt Nam. Theo tờ báo, hiện diện của giàn khoan 981 tại phía nam quần đảo Hoàng Sa để thăm dò tài nguyên là không xác đáng, cho rằng, dù trữ lượng thực tế như thế nào thì mục đích thực của Trung Quốc là kiểm soát vùng biển trung chuyển hơn 70% nhập khẩu dầu của Trung Quốc từ khu vực Trung Đông và châu Phi. Lấn dần từng bước để khẳng đinh Biển Đông là một "cái ao Trung Quốc" là một đòi hỏi cấp thiết về an ninh để phát triển một nền kinh tế quá phụ thuộc vào dầu nhập khẩu.
Chuyên gia về ĐNÁ Ian Storey từ Singapore nhận định, hành động mới của Trung Quốc là một “kịch bản tiềm tàng rất nguy hiểm” và nó đặt Việt Nam vào tình thế rất khó khăn. Cũng như các nước Châu Á khác có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc, các phương án của Việt Nam đối phó với cường quốc hàng đầu Châu Á này rất giới hạn, mặc dù gần đây Hà Nội đã tăng cường khả năng phòng thủ trên biển và đã củng cố quan hệ với Nga. Để ngăn cản Trung Quốc đặt cố định giàn khoan trên Biển Đông, Việt Nam đã huy động nhiều tàu của Cảnh sát biển và Cục Kiểm ngư, và đã không ngại đụng độ với tàu của Trung Quốc. Một chuyên gia Việt Nam về Biển Đông được hãng tin Reuters trích dẫn lưu ý đây là hành động mạnh mẽ nhất của Việt Nam kể từ năm 1992 đến nay.
Khác với những lần trước, lần này Việt Nam buộc phải hành động để bảo vệ lãnh hải, bởi vì nếu để yên cho Trung Quốc đặt cố định giàn khoan thì chẳng khác gì công nhận khu vực này là thuộc chủ quyền Trung Quốc. Nhưng với tương quan lực lượng bất lợi như vậy, liệu Việt Nam có thể ngăn chận được hành vi xâm lược này của Trung Quốc hay không, khi mà Việt Nam không có một cường quốc nào sau lưng để yểm trợ ?
Ngay cả Philippines cũng khó mà trông chờ vào đồng minh Mỹ. Cho tới nay, chưa bao giờ TTh Mỹ Barack Obama tuyên bố dứt khoát là Mỹ sẽ can thiệp vào Biển Đông để trợ giúp Philippines. Theo Reuters, Washington hiện nay không còn ủng hộ quan điểm của Manila cho rằng Mỹ có nghĩa vụ can thiệp nếu xảy ra xung đột trên Biển Đông. Còn Trung Quốc thì có lẽ sẽ cố giữ cho các tranh chấp trên Biển Đông ở một tầm mức vừa đủ để Washington thấy rằng không đáng để can thiệp quân sự.
Tình hình Biển Đông như vậy là khác với biển Hoa Đông. Chính quyền Obama đã nói rõ rằng quần đảo Senkaku là nằm trong khuôn khổ hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật, tức là nếu quần đảo này bị Trung Quốc tấn công, Mỹ sẽ bảo vệ. Có lẽ vì thấy là không thể làm được gì hơn ở vùng biển Hoa Đông, nay Trung Quốc tập trung lấn chiếm Biển Đông, vì nghĩ rằng Mỹ sẽ rất ngại ra tay hỗ trợ các nước Đông Nam Á.
Một loạt tờ báo và hãng thông tấn quốc tế như New York Times, AP, Reuters, The Economic Times, Free Press Journal India, The Indian Express, West Australias, The Australian, ABC, Skynews, DW đã đăng tải về sự việc
+ Tin từ Ấn Độ, Mỹ, RFA - 7/5: Philippines bắt giữ tàu cá Trung Quốc. New York Times và Washington Post ngày 7/5 đưa tin, ngày 6/5, cảnh sát Philippines đã bắt giữ một nhóm ngư dân 11 người trên tàu của Trung Quốc tại Bãi Trăng Khuyết trong khu vực tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines. Philippines cho biết, các ngư dân này sẽ truy tố về tội vi phạm luật pháp Philippines về đánh bắt loài rùa biển đang gặp nguy hiểm. Cảnh sát Philippines đã tìm thấy 350 con rùa trên tàu. Một nguồn tin thứ hai từ Philippines, một quan chức hải quân cấp cao, cũng cho biết lúc đó có 2 tàu Trung Quốc nhưng 1 tàu đã chạy thoát. BNG Philippines ra thông báo cho biết việc bắt giữ này là để thực thi luật pháp hàng hải và khẳng định quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Bãi Trăng Khuyết thuộc quần đảo Trường Sa và nằm cách miền nam Palawan 100 kilomet về phía tây.
Cùng ngày, phía Trung Quốc đã xác nhận việc tàu Trung Quốc bị tàu Philippines chặn bắt, yêu cầu phía Philippines phải thả ngư dân, tàu bị bắt và đưa ra lời giải thích và xử lý vụ việc này một cách thích đáng, cảnh báo Philippines không nên có hành động có tính chất khiêu khích. Phát biểu trong cuộc họp báo thường kỳ, NPN BNG Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi trên bãi Trăng Khuyết và kêu gọi phía Philippines phải ngừng ngay những hành động gây hấn.
NPN/BNG Mỹ cho biết, Mỹ kêu gọi cả hai bên cùng nhau giải quyết qua con đường ngoại giao; Mỹ lo ngại về việc dường như các tàu tham gia vào hoạt động săn bắt loài rùa biển đang gặp nguy hiểm.
+ Tin từ ASEAN - 7/5: Cần kỳ vọng vào quan hệ đồng minh mạnh mẽ hơn với Mỹ tại khu vực (Jakarta Post 6/5). Chuyến thăm Philippines vừa qua của TTh Obama được đánh dấu bởi Hiệp định Hợp tác Quốc phòng Tăng cường (EDCA) nhằm “làm sâu sắc quan hệ quốc phòng” giữa Mỹ và Philippines và “duy trì và phát triển năng lực cá nhân và tập thể”. EDCA không có nhiều khác biệt so với Hiệp ước quân sự chung (1951) và Hiệp định về lực lượng thăm viếng (1998) giữa Mỹ và Philippines. Nét mới ở đây là việc EDCA được thiết lập trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng có thái độ kiên quyết trong các vấn đề tại Biển Đông, Philippines cần Mỹ bảo đảm sẽ đứng về phía mình khi xung đột xảy ra.Tuy nhiên, khác cam kết với Nhật (Mỹ bảo đảm sẽ đứng về phía các đồng minh trước sự đe dọa của Trung Quốc),Washington vẫnchưathể hiện rõ cam kết hỗ trợ Philippines đến đâu.
Trung Quốc và Mỹ có cách tiếp cận vấn đề khác nhau. Trung Quốc luôn tìm cách tách biệt Philippines với các bên tranh chấp khác của ASEAN, ngăn chặn theo đuổi con đường của Philippines (đưa vấn đề Biển Đông lên trọng tài quốc tế). Một mặt, Trung Quốc tìm cách trấn an các nước ASEAN về sự “trỗi dậy hòa bình” của mình qua đề xuất “Con đường tơ lụa trên biển của thế kỷ 21”, nhấn mạnh triển khai hiệu quả DOC nhưng lại lảng tránh COC. Mặt khác, Trung Quốc không ngừng tìm cách định hướng EDCA và chiến lược tái cân bằng cuả Mỹ là để kiềm chế Trung Quốc, nhằm tách biệt ASEAN với Mỹ và biến Mỹ thành nhân tố tạo bất ổn ở khu vực. Mỹ, với việc ủng hộ Philippines đưa vấn đề Biển Đông lên trọng tài quốc tế, tìm cách vận động các quốc gia ASEAN theo đuổi con đường tương tự. Washington cố gắng làm rõ rằng việc từ chối giải pháp trên đồng nghĩa với việc xem nhẹ luật pháp quốc tế.
ASEAN đứng giữa sự lựa chọn ủng hộ hay phản đối giải quyết vấn đề theo luật pháp quốc tế, đồng nghĩa với việc ủng hộ hay phản đối Philippines. Ở khía cạnh nào đó, quyết định trên sẽ tạo ra những rạn nứt trong nội bộ ASEAN, điều mà Trung Quốc luôn mong muốn. Trong bối cảnh này, phản ứng của Indonesia là điều cần được bàn đến. Jakarta không nên hiểu sai về những mối quan hệ đồng minh với Mỹ đang mạnh lên tại khu vực cũng như cho rằng những mối quan hệ này sẽ gia tăng bất ổn tại đây. Càng không nên kỳ vọng vào bất cứ hình thức hợp tác khu vực nào có thể thay thế quan hệ đồng minh được xây dựng trên nền tảng vững chắc giữa Mỹ và Philippines.
Mặt khác, Jakarta cần xem xét vấn đề trên thực tế ASEAN là một tổ chức lỏng lẻo. Với vị trí địa chính trị và địa chiến lược, ĐNÁ không thể trốn tránh các thế lực chính trị, đôi lúc tạo nên những bất đồng hay thậm chí là đối đầu giữa các quốc gia thành viên. Đây chính là lúc thử lửa đối với sự trưởng thành của ASEAN (tính chất của một tổ chức). Sự trưởng thành đó không thể hiện ở khả năng đồng thuận trên các vấn đề cùng quan tâm, mà ở khả năng phối hợp giải quyết những khác biệt. Được công nhận là quốc gia đi đầu trong ASEAN, Indonesia cần đấu tranh vì ASEAN nếu không muốn mất dần ảnh hưởng vào tay các chủ thể ngoài khu vực.
+ Tin từ ASEAN - 7/5: Về kế hoạch Tập trận chung Trung - Nga tại Hoa Đông (TheNY Times). Trung Quốc và Nga dự kiến sẽ tập trận chung với tên gọi “Hợp tác hàng hải 2014” vào khoảng 10 ngày cuối tháng 5 với 20 tàu, trong đó có tàu tuần dương tên lửa phòng thủ, tên lửa hủy diệt phòng thủ, tàu hỗ trợ tên lửa phòng thủ cũng như các “tàu ngầm truyền thống” ở phía “Tây Bắc” các đảo Điếu Ngư/Senkaku (Jinghua Times trích lời Bộ Quốc phòng Trung Quốc). Hành động này có thể đẩy căng thẳng khu vực lên cao.
Về phía Nga, TTh Putin dự kiến đến Thượng Hải ngày 20/5 để dự Hội nghị về các biện pháp xây dựng kết nối và lòng tin ở châu Á, sau đó sẽ thực hiện chuyến thăm cấp nhà nước đến Bắc Kinh (21/5). Một điểm trong chương trình nghị sự được mong đợi lâu nay nhiều khả năng là thỏa thuận về đầu tư năng lượng với Trung Quốc.
Ông Li Jie, nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu hải quân Trung Quốc nhận định tuyên bố tập trận chung Trung-Nga được đưa ra sau khi Obama rời châu Á và lựa chọn vị trí gần các đảo tranh chấp không phải là điều ngẫu nhiên. Các cuộc tập trận quân sự, trong đó có tập trận chung thể hiện quyết tâm của Trung Quốc khẳng định chủ quyền và là lời cảnh báo và ngăn chặn Mỹ.Các cuộc tập trận trên cũng có ý nghĩa quan trọng đối với Nga trong bối cảnh quan hệ với Mỹ và EU suy giảm sau vấn đề Crưm và bất ổn ở Ucraina. Vào thời điểm này, Nga sẽ tìm đến Trung Quốc nhằm tăng cường hợp tác chiến lược và quân sự.
Tại sao Trung Quốc đặt giàn khoan tại vùng biển Việt Nam? Báo “The Economic Times” ngày 8/5 đăng bài viết cho biết Trung Quốc đã kéo một giàn khoan nước sâu cùng các tàu hộ tống tới khu vực cách bờ biển Việt Nam chỉ khoảng 120 hải lý. Tàu Trung Quốc đã đâm vào tàu Việt Nam và sử dụng vòi rồng để chống lại tàu Việt Nam, làm tình hình căng thẳng giữa hai nước tăng lên mức cao nhất trong những năm qua.
Tại sao Trung Quốc hành động như vậy? Trung Quốc tuyên bố chủ quyền hầu như toàn bộ Biển Đông và bắt đầu triển khai kế hoạch khoan để tìm dầu-khí dưới đáy biển này. Hành động đó cũng có thể hiểu là một “phép thử” về khả năng của Việt Nam và sự khẳng định tự do hàng hải của Washington trên Biển Đông. Trung Quốc đã định vị giàn khoan cách bờ biển Việt Nam chỉ khoảng 120 hải lý, nơi Hà Nội đã xác định để thăm dò song chưa mời chào công ty dầu mỏ nào của nước ngoài. Việt Nam tuyên bố khu vực này rõ ràng nằm trong phạm vi thềm lục địa của mình. Hành động của Trung Quốc có vẻ ngược với tinh thần Công ước Liên hợp quốc và những thỏa thuận mà Bắc Kinh đã ký với các nước Đông Nam Á, theo đó kêu gọi các quốc gia không đơn phương tiến hành hoạt động làm leo thang bất đồng. Tuy nhiên, các thỏa thuận này mơ hồ, không thể thực thi và Trung Quốc đã phớt lờ những cam kết trước đây, trong khi bác bỏ lời kêu gọi về vai trò trung gian quốc tế.
Trung Quốc nói việc triển khai giàn khoan là hoạt động thường ngày và kết quả logic của chương trình thăm dò dầu mỏ lâu dài. Tuy nhiên, sự triển khai giàn khoan sau chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Barack Obama tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó ông Obama đã chỉ trích hành động của Trung Quốc ở Biển Đông và tái khẳng định sự ủng hộ của Mỹ đối với đồng minh Nhật Bản trong một cuộc tranh chấp lãnh hải khác ở Biển Hoa Đông. Hành động của Trung Quốc cũng diễn ra trước hội nghị cấp cao của ASEAN vào cuối tuần này. Trước đây, Bắc Kinh từng bị cáo buộc đã can thiệp, chủ yếu nhằm đẩy mạnh chiến lược ngăn chặn ASEAN đoàn kết chống lại các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc. Mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc là ngăn chặn Mỹ trở thành thế lực quân sự chi phối khu vực và thu hút các nước láng giềng của Trung Quốc vào quỹ đạo kinh tế và văn hóa của Washington…
Hà Nội đang cố gắng tập hợp sự ủng hộ của quốc tế để chống lại Trung Quốc, nước được coi như kẻ xâm lược. Nhưng Việt Nam thiếu sự liên minh vững chắc với Mỹ như các nước Nhật Bản và Phillippines để đối phó với Trung Quốc. Hiện nay, Hà Nội có thể cùng Manila phản đối các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại một tòa án quốc tế, song chưa rõ liệu khả năng này có đủ để buộc Trung Quốc rút giàn khoan hay không.
Bóng đen Trung Quốc ám ảnh hội nghị cấp cao ASEAN tại Myanmar - Đài RFI (Đêm 8/5) Trong hai ngày 10-11/5/2014, Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ có Hội nghị Cấp cao lần thứ 24 tại Naypyidaw, Myanmar, trong bối cảnh quan hệ của số quốc gia thành viên với Trung Quốc trở nên căng thẳng do tranh chấp chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông. Ngày 7/5, chính quyền Hà Nội đã tổ chức họp báo quốc tế để tố cáo Trung Quốc đưa giàn khoan dầu khổng lồ vào vùng biển của Việt Nam và các tàu của Trung Quốc tấn công các tàu kiểm ngư của Việt Nam.
Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về châu Á, được hãng tin AFP trích dẫn, nhận định: “Hành động của Trung Quốc diễn ra trước Hội nghị ASEAN ở Myanmar sẽ đưa vấn đề Biển Đông lên thành ưu tiên trong chương trình nghị sự”.
Vẫn theo chuyên gia Thayer, Bắc Kinh đã có thái độ “quyết đoán hung hăng” qua việc đưa giàn khoan dầu, cùng với nhiều tàu hộ tống, vào vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền và hành động này của Trung Quốc có thể là nhằm đáp trả chuyến công du châu Á vừa qua của Tổng thống Mỹ Barack Obama. Trong chuyến đi này, nguyên thủ Mỹ đã khẳng định sự ủng hộ của Washington đối với hai đồng minh là Nhật Bản và Philippines, cả hai đều đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc.
Tại Biển Đông, Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Đài Loan và bốn nước thành viên ASEAN là Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Cho đến nay, Bắc Kinh vẫn tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ diện tích Biển Đông và chỉ muốn giải quyết các bất đồng với từng bên liên quan, trong khuôn khổ đàm phán song phương. Thế nhưng, một số nước ASEAN đòi đàm phán đa phương.
Giáo sư Thayer cho rằng tại hội nghị cấp cao sắp tới, “ASEAN có thể sẽ không lên án đích danh Trung Quốc và sẽ dùng lại các công thức cũ như tôn trọng luật pháp quốc tế, bác bỏ dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, và kêu gọi nhanh chóng ký kết một bộ luật ứng xử mang tính ràng buộc”. Thế nhưng, “sự phản đối của ASEAN sẽ không làm Trung Quốc suy chuyển một ly nào”.
Sau 10 năm đàm phán, năm 2002, tại Phnom Penh, các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký được Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Vấn đề hiện nay đối với ASEAN là ký được với Bắc Kinh một Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC), mang tính ràng buộc. Vấn đề này cũng như các diễn biến vừa qua tại Biển Đông chắc chắn sẽ được đề cập đến trong hội nghị lần này, nhưng theo bình luận của chuyên gia Ian Storey thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore thì “các cuộc thảo luận sẽ còn kéo dài” và ít có khả năng đạt được đồng thuận về COC.
Tháng 7/2012, lần đầu tiên trong lịch sử ASEAN, Hội nghị Ngoại trưởng của khối này tại Phnom Penh không ra được thông cáo chung, do bất đồng giữa các nước trong việc lên án thái độ hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông và sức ép của Trung Quốc đối với Campuchia, nước đảm nhiệm chức Chủ tịch luân phiên khi đó. Năm 2014, lần đầu tiên, kể từ khi gia nhập ASEAN vào năm 1997, Myanmar đứng ra đảm trách chức Chủ tịch khối này, sau khi phải từ bỏ năm 2006. Mối quan hệ hữu hảo giữa Myanmar và Trung Quốc, đồng minh lâu đời, kể cả trong thời kỳ chế độ độc tài quân sự, có nguy cơ đặt chính quyền Naypyidaw vào tình thế tế nhị, khi hồ sơ Biển Đông được nêu lên trong hội nghị cấp cao. Chính vì vậy, theo giới quan sát, hội nghị lần này ở Myanmar sẽ là một phép thử về sự đoàn kết của ASEAN trước thái độ hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng lại là một đối tác kinh tế quan trọng của tổ chức này.
Giáo sư Carl Thayer: Trung Quốc thách thức chủ quyền của Việt Nam. Ngày 7/5, "Nhật báo Người Việt" tại Mỹ đã phỏng vấn Giáo sư Carl Thayer - chuyên gia về Việt Nam thuộc Học viện Quốc phòng Australia, Đại học New South Wales - liên quan đến việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Theo Giáo sư Carl Thayer, việc Trung Quốc đưa giàn khoan dầu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông "đang trực tiếp thách thức chủ quyền của Hà Nội ở Biển Đông cũng như thách thức chủ quyền của Việt Nam đối với các nguồn tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế. Hành động đơn phương của Trung Quốc là một mối đe dọa nghiêm trọng không chỉ đối với Việt Nam mà cả các quốc gia ven biển khác như Philippines, Malaysia và Indonesia". Ngoài ra, qua hành động này, "Bắc Kinh cũng muốn tái khẳng định rằng họ sẽ tìm cách dần dần mở rộng sự hiện diện của Trung Quốc cho đến khi họ hoàn toàn thống trị toàn bộ Biển Đông". Giáo sư Carl Thayer nhận định, sở dĩ Trung Quốc "ra tay" vào thời điểm này là vì Bắc Kinh cho rằng chính quyền của Tổng thống Mỹ Barack Obama đang "yếu".
Nhận định về cách ứng phó của Việt Nam, Giáo sư Carl Thayer nói: "Việt Nam hiện không có nhiều lựa chọn. Họ có thể kêu gọi sự ủng hộ của các nước ASEAN, song kết quả của việc làm này có lẽ sẽ chỉ là một tuyên bố chung lên án việc sử dụng vũ lực và cưỡng chế, nhưng lại không dám nêu đích danh Trung Quốc". Việt Nam cũng có thể tập trung nỗ lực vận động các cường quốc hàng hải (trong đó có Mỹ và Nhật Bản) để tranh thủ sự ủng hộ của các nước này". Tuy nhiên, theo Giáo sư Carl Thayer, "điều đáng tiếc là có lẽ sẽ không nước nào trực tiếp ra tay hỗ trợ Việt Nam". Và do vậy, Hà Nội "chỉ còn cách dùng phương pháp ngoại giao để ứng biến, vì nếu dùng biện pháp quân sự, họ chắc chắn sẽ phải đón nhận sự thất bại, đồng thời còn tạo cơ hội cho Trung Quốc tuyên truyền rằng Việt Nam có hành động xâm lược".
Trong bối cảnh này, hai quốc gia khác trong khu vực là Malaysia và Indonesia cũng đã có những bước đi củng cố vị thế quân sự để có thể kiểm soát khu vực hàng hải của mình. Giáo sư Carl Thayer cho rằng hành động trên của Trung Quốc sẽ khiến cho các nước này cũng như Philippines và Việt Nam "ngao ngán hơn" về khuynh hướng bành trướng của Bắc Kinh. Do vậy, "tất cả các nước trong khu vực, kể cả Singapore, sẽ dành nhiều ngân sách hơn cho quốc phòng". Có thể nói, Trung Quốc đã đặt Mỹ vào một tình huống khó xử. Động thái trên của Bắc Kinh, theo quan điểm của Giáo sư Carl Thayer, "mang tính thách thức Washington", rằng "nếu Mỹ thực sự hỗ trợ Việt Nam hay các nước châu Á khác trong khu vực thì hãy chứng minh bằng hành động cụ thể". Thực tế cho thấy Mỹ có thể lên tiếng phản đối về việc dùng những biện pháp cưỡng chế và những lời đe dọa để giải quyết tranh chấp lãnh thổ, song Mỹ sẽ không thể hỗ trợ Việt Nam bởi giữa hai nước chưa có sự hợp tác quốc phòng hiệu quả.
Giáo sư Carl Thayer kết luận: "Nếu Mỹ bày tỏ sự phản đối mà không gây được áp lực hiệu quả, uy tín của nước Mỹ sẽ bị suy yếu. Thực tế là Trung Quốc đã tính toán rất kỹ trước khi đưa giàn khoan dầu vào vùng biển đang tranh chấp với Việt Nam. Một phần mục đích của họ là muốn làm lộ ra thế kẹt và khoảng cách giữa thực tế với những lời tuyên bố của chính quyền Obama".
Giới hạn trong chính sách đối với Trung Quốc - Đài TNHK (Đêm 8/5) Các biến cố gần đây cho thấy Việt Nam đang tiến đến gần nguy cơ đối đầu với Trung Quốc. Nhưng tại sao là Trung Quốc? Câu trả lời rất đơn giản. Đó là quốc gia duy nhất có nhiều tham vọng lấn chiếm Việt Nam. Ít nhất trên Biển Đông.
Tham vọng của Trung Quốc đã được nhiều người phân tích: Lâu dài, nếu không trở thành siêu cường quốc số một thế giới, thay thế vị trí của Mỹ hiện nay, thì ít nhất cũng trở thành đối trọng của Mỹ, đóng vai một trong hai thủ lĩnh của thế giới. Trước mắt, trong khi chưa thực hiện được tham vọng trên, họ nhắm đến việc trở thành bá chủ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong cả hai tham vọng ấy, họ đều có một địch thủ chính: Mỹ.
Để hiện thực hóa hai tham vọng trên, trong mấy thập niên vừa qua, Trung Quốc tập trung thật nhiều ngân sách và kỹ thuật cho việc phát triển quân đội; trong quân sự, họ đặc biệt chú ý đến hải quân: Với họ, cuộc đối đầu với Mỹ có thể sẽ diễn ra trên nhiều lĩnh vực, từ các trận địa thật đến trận địa trên không gian ảo (cyber); trong trận địa thật, ưu tiên hàng đầu sẽ nằm trên… biển. Trên biển, hai mặt trận chính sẽ nằm ở biển Hoa Đông và biển Nam Hải (tức Biển Đông theo cách gọi của Việt Nam). Ở biển Hoa Đông, đối thủ chính của họ là Nhật và Hàn Quốc. Ở Nam Hải, đối thủ chính của họ bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan. Việc chiếm lĩnh cả hai vùng biển này là tham vọng lâu dài của Trung Quốc không những về phương diện quân sự và chính trị mà còn về phương diện kinh tế.
Giữa biển Hoa Đông và Nam Hải, Hoa Đông rõ ràng là khó gặm nhất. Có hai lý do chính: Một, Nhật là cường quốc, về nhiều phương diện, mạnh hơn hẳn Trung Quốc; hai, do sự thỏa thuận giữa hai nước, Mỹ sẽ bảo vệ Nhật trong trường hợp bị tấn công. Xin lưu ý là, giữa Nhật và Philippines, cam kết của Mỹ với Nhật mạnh mẽ hơn hẳn đối với Philippines. Nếu Philippines bị tấn công, Mỹ có thể đắn đo; nhưng nếu Nhật bị tấn công, Mỹ không thể từ chối tham chiến.
Ở Nam Hải, tuy Trung Quốc sẽ phải đối đầu với nhiều quốc gia hơn, nhưng, một là, tất cả đều nhỏ và yếu; hai là, giữa các nước ấy cũng có nhiều tranh chấp với nhau; và ba là, trừ Philippines, không có nước nào có quan hệ chặt chẽ và thật tin cậy với Mỹ để có thể kéo Mỹ vào cuộc tranh chấp quân sự với Trung Quốc. Ở vùng biển này, nước có diện tích tranh chấp lớn nhất với Trung Quốc là Việt Nam. So với các nước khác trong khu vực, Việt Nam có một ưu điểm: đó là quốc gia mạnh nhất về phương diện quân sự nhưng lại có một khuyết điểm: đó cũng là quốc gia bị lệ thuộc vào Trung Quốc nhiều nhất.
Trung Quốc có thể hóa giải ưu điểm và khai thác khuyết điểm kể trên của Việt Nam bằng chính sách tằm ăn dâu: Chiếm từ từ, dần dần. Lấn được đằng chân mới lân đằng đầu. Trước hết là khẳng định đường lưỡi bò trên diễn đàn Liên hợp quốc. Kế tiếp, cấm ngư dân Việt Nam đánh bắt cá trong phạm vi đường lưỡi bò ấy; ai vi phạm thì bắt đòi tiền chuộc hoặc đâm chìm tàu của họ. Sau, xây dựng và mở rộng căn cứ quân sự trên đảo Gạc Ma thuộc cụm Sinh Tồn nằm trong quần đảo Trường Sa, vốn đã bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1988. Gần đây nhất, đưa giàn khoan dầu khổng lồ HD-981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Một lúc nào đó, không sớm thì muộn, thế nào họ cũng sẽ công bố quyết định thành lập vùng nhận dạng phòng không tương ứng với đường lưỡi bò ấy. Việc công bố chắc chắn sẽ ảnh hưởng không những tới Việt Nam mà còn nhiều quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Điều đó khiến họ phải cân nhắc. Nhưng dù cân nhắc đến đâu, chuyện ấy sớm muộn gì cũng xảy ra. Lúc ấy, Trung Quốc sẽ làm chủ cả vùng biển lẫn vùng trời trên Biển Đông.
Chắc chắn giới lãnh đạo Việt Nam thừa kinh nghiệm để thấy tất cả những kế hoạch ấy. Vấn đề là: họ sẽ đối phó ra sao? Có thể dễ dàng hình dung là họ có ba sách lược chính: Một, đầu tư và phát triển vũ khí cho hải quân; hai, tìm đồng minh các nơi trên thế giới; và, trực tiếp thương lượng với Trung Quốc. Hai sách lược đầu chắc chắn không có hiệu quả. Trong cuộc chạy đua vũ trang, dù có huy động hết nguồn lực, Việt Nam cũng không thể theo kịp Trung Quốc. Về quan hệ quốc tế, cho đến nay, Việt Nam chỉ chạy theo bề rộng chứ không theo chiều sâu: Họ liên kết với hết nước này sang nước khác, nhưng thứ nhất, không có một nước nào đủ mạnh để chấp nhận đương đầu với Trung Quốc; và thứ hai, cũng không có nước nào đưa ra những cam kết thật sâu sắc và đáng tin cậy. Quốc gia duy nhất có thể giúp Việt Nam trong thế trận với Trung Quốc là Mỹ thì Việt Nam vẫn còn lấp lửng.
Còn biện pháp cuối cùng, trực tiếp thương lượng với Trung Quốc, chỉ có thể dẫn đến một kết quả duy nhất cho Việt Nam: trắng tay. Về phương diện chính trị quốc tế, đàm phán không phải là cãi nhau bằng lý. Mà là bằng sức mạnh ở đằng sau bàn họp. Cái sức mạnh ấy, Việt Nam hoàn toàn không có. Bởi vậy, biện pháp duy nhất là Việt Nam bắt buộc phải nhường nhịn hết yêu sách này đến yêu sách khác.
Nhưng nhường nhịn đến mức nào?
Trên nguyên tắc, Việt Nam có thể nhường nhịn đến mức tối đa để Trung Quốc có tất cả những gì họ muốn. Nhưng ở đây lại có vấn đề: Chắc chắn dân chúng Việt Nam không chấp nhận điều đó. Bởi vậy, dù muốn hay không, chính quyền Việt Nam phải vạch ra một đường đỏ như là giới hạn cuối cùng của sự nhường nhịn.Trong vụ giàn khoan HD-981? Chính quyền Việt Nam không thể mặc kệ được. Thứ nhất, giàn khoan ấy quá lớn khiến dân chúng không thể không quan tâm. Thứ hai, việc thừa nhận sự tồn tại của giàn khoan ấy sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy khác liên quan đến chủ quyền lãnh hải của Việt Nam. Có thể nói việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 đã đẩy Việt Nam đến giới hạn cuối cùng.
Dư luận Nhật Bản về vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển Việt Nam
Sau khi Bộ Ngoại giao Việt Nam mở cuộc họp báo tại Hà Nội liên quan đến vụ việc trên, các hãng tin và báo chí lớn ở Nhật như Kyodo, Jiji, Yomiuri, Asahi, Sankei, Nikkei… đều đồng loạt đăng tải và liên tục cập nhật các diễn biến nóng xung quanh căng thẳng Việt-Trung.
Bản tin của "Yomiuri" còn đặt dòng tít mô tả rõ hành động: “Tàu Trung Quốc uy hiếp, phun vòi rồng và đâm vào tàu Việt Nam”. "Yomiuri" dẫn nguồn tin Chính phủ Việt Nam cho biết 2-3 tàu Trung Quốc tiếp cận, uy hiếp, phun vòi rồng và đâm thẳng vào một tàu tuần tra Việt Nam khiến 6 người bị thương. Tờ báo cho biết ngay từ những ngày đầu tháng 5/2014, hai nước lâm vào tình trạng đối đầu sau khi phía Trung Quốc tuyên bố đặt giàn khoan tại khu vực quần đảo Hoàng Sa.
Trong khi đó, “Sankei” dẫn nguồn hãng tin AP của Mỹ cho biết tàu Trung Quốc đã đâm vào tàu cảnh sát biển Việt Nam. Phía Việt Nam đã phái 30 tàu tới vùng biển này và hai bên vẫn tiếp tục tình trạng đối đầu. Theo báo này, Trung Quốc thông báo khoanh vùng bán kính 3 dặm (4,8km) xung quanh giàn khoan, cấm tàu bè nước ngoài đi vào. Hành động này của Trung Quốc lập tức bị phía Việt Nam phản đối vì cho rằng vùng biển trên nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của nước này. Báo này cũng cho biết ngay sau khi Việt Nam cử 30 tàu đến vùng biển trên, Trung Quốc cũng phái số lượng tàu lớn hơn so với Việt Nam để bảo vệ giàn khoan trên.
“Sankei” cho rằng với va chạm tàu lần này, tình trạng đối đầu giữa hai nước đang dâng lên khá cao. Báo Nhật cũng cho biết người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh đã né tránh xác nhận việc phát sinh va chạm giữa tàu của hai bên đồng thời khẳng định “hiện trường (mà Bắc Kinh cho đặt giàn khoan) nằm trong vùng biển gần quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa) của Trung Quốc” và yêu cầu phía Việt Nam không can thiệp. Phía Việt Nam khẳng định không có nổ súng nhưng tàu Trung Quốc cố ý đâm hỏng tàu Việt Nam và phun vòi rồng.
Cùng ngày, các kênh truyền hình của Nhật Bản như NHK, FNN, NNN, ANN và TBS cũng phát tin và cho đăng tải video clip tàu Trung Quốc có các hành vi manh động như phun vòi rồng và đâm thẳng vào tàu kiểm ngư Việt Nam. Đoạn video clip được các hãng truyền hình Nhật Bản sử dụng với thời lượng dài hơn 1 phút với đầy đủ các hành vi mô tả như phun vòi rồng, rượt đuổi, đâm hỏng tàu.
“Yomiuri” chiều 8/5 cho biết hai nước vẫn đang tiếp tục duy trì tình trạng đối đầu trên biển. Tờ báo cho rằng với tình trạng căng thẳng hiện nay, vấn đề Biển Đông sẽ là trọng tâm chính trong các cuộc bàn thảo của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) diễn ra tại Myanmar từ ngày 10/5. Báo này cho biết số lượng tàu Trung Quốc phái đến vùng biển trên hiện đã lên tới 80 tàu, bao gồm cả tàu chiến của hải quân. Tờ báo cũng dẫn lời Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng, Bộ Tư lệnh cảnh sát biển Ngô Ngọc Thu cho biết “tình thế hiện nay đang hết sức cấp bách”.
Liên quan đến vụ giàn khoan, dư luận Nhật Bản đều đồng loạt phản đối thái độ hung hăng và trắng trợn của Trung Quốc và cho rằng phía Việt Nam đã hành xử đúng mực trong vụ việc này. Sau khi truyền hình Nhật Bản cho đăng clip bản tin lên youtube, các cư dân mạng và diễn đàn ở Nhật như 2channel, ameblo, 2chradio… đều trích dẫn lại và bình luận sôi nổi. Nhìn chung, dư luận Nhật Bản ủng hộ Việt Nam và lên án hành động đơn phương của Trung Quốc. Một cư dân mạng còn cho rằng Nhật Bản cần sớm thông qua quyền phòng vệ tập thể để gián tiếp hỗ trợ Việt Nam bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trước Trung Quốc. Người này đã đưa hàng loạt tin liên quan đến vụ va chạm tàu và cả các điều kiện cho việc thực thi quyền phòng vệ tập thể của Nhật Bản như (1) nước có quan hệ mật thiết bị tấn công, (2) nếu không can dự sẽ ảnh hưởng lớn đến an ninh của Nhật Bản, (3) có đề nghị rõ ràng từ các nước liên quan, (4) được nước thứ ba cho phép đi qua lãnh thổ và (5) Thủ tướng đi đến quyết định chung cuộc và Quốc hội phê chuẩn.
+ Tin từ Bắc Kinh, Thượng Hải, Hồng Kông, Ấn Độ, Australia, Mỹ, Tây Ban Nha, Na Uy, BBC, RFI, RFA, VOA - 8/5: Về vụ Trung Quốc đưa hạ đặt khoan tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Ngày 8/5, một ngày sau khi có tin về những vụ đối đầu giữa tàu bè của Việt Nam và Trung Quốc gần một giàn khoan Trung Quốc tại Biển Đông, Chính phủ Việt Nam không đưa ra bình luận chính thức về vụ này, nhưng truyền thông do nhà nước kiểm soát ở đây đã tường thuật rất nhiều về vụ này. Tờ Tuổi Trẻ, một trong những tờ báo có nhiều độc giả nhất Việt Nam, cho đăng trên trang đầu hàng tít “Việt Nam sẽ đánh trả nếu tàu Trung Quốc tiếp tục đâm vào tàu Việt Nam”.
Trong khi đó, tại Bắc Kinh, Thứ trưởng NG Trình Quốc Bình đã tìm cách hạ giảm tầm quan trọng của vụ đối đầu. Ông cho rằng đây không phải là “một cuộc đụng độ” và hai nước có thể giải quyết vụ này thông qua thương thuyết. Theo ông Trình, Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng hữu nghị và hợp tác hữu nghị phù hợp với lợi ích cơ bản của hai quốc gia. Tuy nhiên, ông Dịch Tiên Lương, Phó Vụ trưởng Vụ Biên giới của BNG Trung Quốc, sau đó nói tại một cuộc họp báo bất thường hôm 8/5 ở Bắc Kinh là giới hữu trách Trung Quốc “kinh ngạc” vì những hành động của phía Việt Nam tiếp tục phái tàu tới khu vực này và đe dọa nhân viên của Trung Quốc và các tàu Trung Quốc đang áp dụng các biện pháp để tự bảo vệ. Ông Dịch nói: Chỉ trong 5 ngày (từ 3-7/5), Việt Nam đã điều 35 tàu thuyền các loại chủ động tiến hành 171 lượt đâm, va tàu Trung Quốc. Tại hiện trường, phía Trung Quốc chỉ có tàu dân dụng, gồm tàu công vụ và tàu dân sự, trong khi Việt Nam có nhiều tàu vũ trang. Tàu công vụ Trung Quốc còn phát hiện người nhái Việt Nam ở khoảng cách 5 mét so với tàu Trung Quốc. Phía Việt Nam đã thả một lượng lớn lưới cá và chướng ngại vật cỡ lớn xuống biển, đe dọa an toàn cho tàu thuyền, thiết bị và nhân viên Trung Quốc cũng như đe dọa đến an ninh, an toàn hàng hải bình thường. Việc Trung Quốc sau đó cử tàu công vụ tới hiện trường là đã thể hiện sự kiềm chế. Trong đó, phun vòi rồng là biện pháp kiềm chế nhất. Ông kêu gọi Việt Nam dừng hoạt động quấy nhiễu và rằng Trung Quốc sẵn sàng cùng Việt Nam giải quyết vụ việc này, nhưng tiền đề là Việt Nam phải chấm dứt việc quấy nhiễu hoạt động tác nghiệp của Trung Quốc và rút tàu thuyền.
Cùng ngày 8/5, trong chuyến thăm Hà Nội, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Daniel Russel đã hối thúc Việt Nam và Trung Quốc “tránh thực hiện những hành động đơn phương”. Ông nói thêm rằng Trung Quốc là nước có nhiệm vụ phải xác định yêu sách của mình bằng một cách thức phù hợp với công ước của LHQ. Ông cho biết các giới chức Việt Nam mà ông đã thảo luận về vấn đề này đã chấp nhận là Mỹ không có lập trường đối với tính chất phải trái của yêu sách chủ quyền của các nước.
Cùng ngày 8/5, Hạ nghị sĩ Eni Faleomavaega, thành viên cao cấp của Tiểu ban CA-TBD của Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đã có thông cáo lên án Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt nam ở biển Đông, kêu gọi Mỹ có hành động mạnh mẽ và rõ ràng. Tuyên bố nêu rõ việc Trung Quốc đã neo giàn khoan HD 981 trong vùng biển Việt Nam và triển khai hàng chục tàu hải quân để hỗ trợ các hành động khiêu khích này, nhấn mạnh giàn khoan HD 981 là nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, chỉ cách đảo Lý Sơn 120 hải lý; cho rằng hành động khiêu khích của Trung Quốc là sự leo thang căng thẳng một cách cố tình, đe dọa hòa bình và an ninh hàng hải ở biển Đông.
Tuyên bố cũng điểm lại những hành động leo thang của Trung Quốc như cắt cắp tàu Bình Minh II và Viking II, thành lập thành phố Tam Sa, thực hiện Luật đánh bắt cá, tăng cường khai thác trong khu vực tranh chấp, tấn công tàu cá Việt Nam, tiến hành tập trận ở biển Đông để thể hiện sức mạnh và răn đe các nước khác.
Sau Mỹ, đến lượt NB lên án Trung Quốc gây căng thẳng với các láng giềng khi đưa giàn khoan vào Biển Đông. Ngày 8/5, Chánh văn phòng nội các NB Yoshihide Suga nói NB nhận thấy vụ này là một phần trong các hoạt động đơn phương và khiêu khích của Trung Quốc. Ông bày tỏ “quan ngại sâu sắc” về thái độ của Trung Quốc trong vụ việc và kêu gọi Trung Quốc tự chế
Ngoài ra, một quốc gia ASEAN là Singapore cũng đã lên tiếng quan ngại về vụ xung đột này.
Tại Việt Nam, do tác động từ tin về xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Đông, thị trường chứng khoán hôm 8/5 đã sụt giảm mạnh mạnh nhất kể từ năm 2011 với chỉ số thị trường giảm đến hơn 6%. Trong khi đó, 20 tổ chức xã hội dân sự độc lập đã đồng loạt kêu gọi mọi người tuần hành chống Trung Quốc vào ngày 11/5 tại hai thành phố lớn Hà Nội và HCM để bày tỏ sự phản đối của dân chúng Việt Nam trước “hành vi xâm lược” của Bắc Kinh.
+ Tin từ Trung Quốc, Mỹ BBC, RFI, VOA, the Interpreter - 8/5: Dư luận thế giới liên quan đến căng thẳng Trung - Việt về chủ quyền tại Biển Đông. Washington Post ngày 8/5 đăng tin của AP cho rằng, thông báo của các quan chức và những hình ảnh được phía Việt Nam công bố hôm thứ 4 vừa qua cho thấy, các tầu Trung Quốc đã cố tình đâm và phun vòi rồng vào tầu Việt Nam trong khi các tầu này đang cố gắng ngăn cản Trung Quốc bố trí một giàn khoan dầu khí tại vùng biển có tranh chấp thuộc Biển Đông (biển Đông). Xung đột lần này giữa Trung Quốc và Việt Nam đã khiến cho quan hệ giữa hai bên trở nên căng thẳng. Bài báo cho biết, ngày 1/5, Trung Quốc đã đưa giàn khoan thăm dò dầu khí và các tầu bảo vệ đến vùng biển đang có tranh chấp tại Nam Hải (biển Đông), dư luận bên ngoài coi đây là một hành động mang tính khiêu khích trong nỗ lực đòi hỏi chủ quyền tại Biển Đông (biển Đông) của Trung Quốc. Do chưa có dấu hiệu nào cho thấy hai bên sẽ nhượng bộ, điều này sẽ khiến cục diện đối đầu hiện nay có thể sẽ diễn biến thành một cuộc xung đột nghiêm trọng hơn.
New York Times ngày 7/5 cho rằng, xung đột mới nhất giữa Trung Quốc và Việt Nam tại Biển Đông (Biển Đông) cho thấy cục diện căng thẳng tại khu vực này có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Trước những hành động chèn ép ngày càng hung hăng của Trung Quốc trong việc đòi hỏi chủ quyền tại Biển Đông đã khiến các quốc gia trong khu vực phải tìm cách kiềm chế của Trung Quốc. Bài báo cho biết, sự kiện xung đột lần này giữa Trung Quốc và Việt Nam là một chương mới trong tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, mặc dù những tranh chấp này vốn tồn tại từ lâu, nhưng với một Trung Quốc đang ngày một lớn mạnh, cùng với việc không ngừng tăng cường khẳng định yêu cầu về chủ quyền của mình trong những năm qua, Trung Quốc đã khiến vùng Biển Đông xảy ra nhiều phản ứng dây chuyền. Trung Quốc cho rằng có chủ quyền đối với toàn bộ phạm vị bao phủ bởi “đường 9 đoạn” tại Biển Đông, trong khi đó những người phê bình lại cho rằng chủ trương này của Trung Quốc không hề có cơ sở pháp lý.
Tạp chí “Diplomat” NB ngày 7/5 đăng bài viết cho rằng, Trung Quốc có vẻ như đang học tập cách làm của NB trong việc xử lý tranh chấp lãnh thổ - không đếm xỉa đến đòi hỏi chủ quyền của nước khác. Tân Hoa Xã nói, Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết trì trong cuộc điện đàm với PTTg Việt Nam Phạm Bình Minh nói, không tồn tại tranh chấp chủ quyền liên quan đến quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa). Bản tin còn dẫn lời ông Ngô Sỹ Tồn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Hải Trung Quốc nói, lý do Trung Quốc tiến hành lắp đặt giàn khoan tại vùng biển có tranh chấp tại Nam Hải (Biển Đông) là nhằm không để cho việc mất cơ hội khai thác dầu khí tại Nam Sa (Trường Sa) trước đây lại tái diễn tại vùng biển Tây Sa (Hoàng Sa). Ông này nói, nếu người Việt Nam chỉ cần kêu la là Trung Quốc phải dừng ngày việc tác nghiệp tại vùng biển Tây Sa thì Trung Quốc sẽ chẳng làm được việc gì tại Nam Hải.
Trang mạng của Forbes dẫn ý kiến của nhà phân tích Gordon G. Chang cho rằng vụ việc xảy ra là cách để các nhà lãnh đạo Trung Quốc thách thức cam kết của TTh Mỹ Obama đối với an ninh khu vực không lâu sau chuyến công du châu Á của ông hồi cuối tháng 4. “Với hành động lần này, Bắc Kinh đã vượt qua hai lằn ranh quan trọng. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc khoan ở vùng biển Việt Nam. Ngoài ra, đây cũng là lần đầu tiên Trung Quốc công khai sử dụng tàu thân xám, tức tàu hải quân, để hỗ trợ cho tàu thân trắng, tức tàu hàng hải dân sự.” Bài báo cũng phân tích: “Việt Nam không có lịch sử lùi bước, ngay cả khi trước sự khiêu khích của người láng giềng khổng lồ Trung Quốc. Không có khả năng người Việt Nam, vốn rất tự hào về dân tộc của họ, sẽ để yên cho Bắc Kinh khoan ở gần vùng biển ngay sát họ”.
Trong bài viết trên trang mạng của mình, kênh truyền hình Mỹ CNBC, nhận định rằng Hà Nội “hết sức cẩn trọng khi phát ngôn về Trung Quốc nước mà giao thương song phương đã vượt mức 50 tỷ USD vào năm 2013”. Bài báo dẫn ý kiến của hai phân tích gia Ernest Bower và Gregory Poling ở Viện Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược ở Washington nói” “Việc Trung Quốc làm tới để đặt giàn khoan ngay sau khi chuyến Á du của TTh Mỹ Barack Obama cho thấy rõ quyết tâm của Bắc Kinh muốn thử phản ứng của Việt Nam, các nước trong Asean và Washington”. Bài báo cũng dẫn lời một quan chức dầu mỏ Trung Quốc giấu tên nói quyết định triển khai giàn khoan dường như là một “quyết định chính trị” chứ không phải là “quyết định thương mại”.
Nhật báo Daily Mail của Anh nhận xét rằng Chính phủ Việt Nam có ít khả năng xoay sở khi phải đối phó với một nước láng giềng khổng lồ đồng thời là đối tác thương mại hàng đầu. Tờ báo viết: “Mặc dù nước này không còn bị cô lập như trước đây nhưng với tư cách là một trong những nước cộng sản ít ỏi còn lại trên thế giới thì Việt Nam không thể hy vọng nhiều vào sự giúp đỡ ngoại giao của các cường quốc”. Bài báo dẫn lời Tiến sỹ Jonathan London, một chuyên gia về Việt Nam tại Đại học Thành thị Hong Kong nói: “Trung Quốc dường như rất quyết tâm trong việc đặt dấu chân mình một cách chắc chắn vào vùng biển có tranh chấp. Việt Nam đang bị dồn đến chân tường, mặc dù các chính sách của Trung Quốc mà hầu như bất cứ ai ngoại trừ Trung Quốc đều cho là không có cơ sở pháp lý đã dẫn đến tình hình hiện nay”.
Tờ Financial Times nhắc lại rằng Bắc Kinh đã có những bước đi trong nước để tranh thủ sự ủng hộ của người dân nước họ đối với “chủ quyền” rộng lớn của họ trên Biển Đông. Theo tờ báo này thì truyền hình nhà nước Trung Quốc mới đây đã phát sóng một bộ phim tài liệu dài tám tập ca ngợi lực lượng tuần duyên và ngư chính của họ trong việc bảo vệ “chủ quyền và tài nguyên của Trung Quốc”. Trong bộ phim tài liệu này có cảnh tàu Việt Nam “ngăn cản tàu thăm dò của Trung Quốc một cách điên cuồng”. Lời thuyết minh trong phim nói các tàu Trung Quốc “đã đối đầu đội tàu có vũ trang (của Việt Nam) lớn hơn gấp nhiều lần một cách không hề nao núng và đã chiến đấu oanh liệt”.
Báo Tấm Gương (der Spiegel) của Đức ngày 7/5 có bài với tiêu đề “Tranh cãi quanh dàn khoan dầu – người Trung Quốc đâm vào thuyền cảnh sát biển của Việt Nam” nói về việc các tàu hộ tống của Trung Quốc hôm 8/5 đã đâm và bắn vòi rồng vào thuyền Việt Nam như thế nào. Theo bài báo, tại Biển Đông, những va chạm kiểu như vậy thỉnh thoảng lại xảy ra. Mới trước cuộc đụng độ này vài tiếng, các quan chức Philippines đã dừng một tàu cá của Trung Quốc và bắt giữ 11 thành viên tàu.
Nhà nghiên cứu Dirk van der Kley thuộc Chương trình Đông Á của Viện Lowy (Australia) nêu 3 nhận định liên quan đến căng thẳng trên biển Đông giữa Việt Nam-Trung Quốc:
Thứ nhất, đối đầu giữa hai nước có khả năng sẽ kéo dài nhiều tháng hoặc lâu hơn. Phía Trung Quốc đã thông báo rằng giàn khoan có thể lưu lại vị trí hiện tại cho đến ngày 15/8. Nếu vào thời điểm đó Trung Quốc di dời giàn khoan thì có thể họ sẽ mô tả động thái của mình bằng một tuyên bố giữ thể diện rằng các hoạt động thăm dò đã hoàn thành. Việc di dời dàn khoan vào tháng 8 có thể khiến tình hình bớt căng thẳng nhưng Việt Nam không thể bảo đảm được việc di dời này. Do vậy, Việt Nam có thể bị kéo vào trò chơi “mèo vờn chuột”.
Thứ hai, mặc dù Trung Quốc quyết định đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông ngay sau chuyến thăm châu Á của TTh Mỹ Obama nhưng hai sự kiện này không nhất thiết phải liên quan đến nhau. Ông Obama không thăm Hà Nội và những nước mà TTh Mỹ đến thăm thì không bị Trung Quốc khiêu khích. Mặc dù việc Trung Quốc và Nga sẽ tổ chức tập trận chung trên biển Hoa Đông có thể xem như là một phản ứng đối với chuyến thăm của ông Obama nhưng lại có nhiều dấu hiệu cho thấy quan hệ Trung-Nhật đang được cải thiện trước và sau chuyến thăm của ông Obama.
Thứ ba, CNOOC vốn thường kết hợp khai thác tài nguyên ở biển Đông với các tuyên bố về chủ quyền. Cũng có thể phỏng đoán rằng đây là một trong những nỗ lực của CNOOC để giành sự ủng hộ về chính sách và tài chính từ chính phủ trung ương cho các hoạt động tương tự như xây dựng các giàn khoan nước sâu khổng lồ.
+ RFA - 8/5: Phải làm gì để chống Trung Quốc? Chuyện phải đến đã đến. Tàu cảnh sát biển Việt Nam tiến ra hải phận của mình để thăm dò và toan cản trở hoạt động của giàn khoan dầu bất hợp pháp của Trung Quốc. Tàu Trung Quốc liền húc tàu Việt Nam để cản trở không cho tới gần giàn khoan. Cuộc đối đầu này mạnh bạo và nghiêm trọng hơn vụ Trung Quốc - NB đối đầu ở Senkakư/ Điếu Ngư.
Trước hết cần đánh giá cao việc Việt Nam phản ứng nhanh chóng và chừng mực, dù thua thiệt cũng làm được việc xác định vững vàng lập trường về lãnh hải, lãnh thổ.
Hai lực lượng cảnh sát biển chênh lệch nhau rất xa về số lượng và tầm cỡ tàu hoạt động, nên Trung Quốc không ngần ngại dùng hành động thô bạo để hiếp đáp Việt Nam. Trung Quốc đã điều động tới 80 chiếc tàu đủ loại để đối đầu với 29 chiếc tàu cảnh sát biển Việt Nam, không kể nhiều máy bay bay vòng trên không để uy hiếp tinh thần. Cùng lúc, Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc tung ra bài xã luận đòi dạy thêm cho Việt Nam bài học tốt hơn!
Hiện tình đáng lo ngại ở chỗ chắc chắn Trung Quốc không thể lùi bước, một khi đó đã là chiến lược lâu dài. Việt Nam cũng khó lòng tháo lui, tình hình sẽ diễn tiến ra sao?
Tương quan lực lượng hiện nay chênh lệch rất xa. Quân đội Việt Nam vào ngày hôm nay không thể đương đầu với hải lục không quân Trung Quốc. Nên Việt Nam phải tìm cách hành động sao cho ít nguy cơ đụng độ, vùa giữ thể diện đồng thời vẫn giữ lập trường bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải và... chờ thời, nghĩa là chờ chuẩn bị xong xuôi rồi mới có thể tính thêm những bước cương quyết hơn.
Nếu Việt Nam hành động mạnh ngay lúc này, thì đó chỉ là manh động, không thể tránh thất bại. Trong tình thế này chính quyền Việt Nam phải tìm được cách biểu thị bằng hành động một lập trường cương quyết về lãnh thổ, không thể chỉ dùng các biện pháp ngoại giao trong khi giàn khoan dầu của Trung Quốc sẽ trở thành chuyện đã rồi vì quốc gia nạn nhân không có hành vi phản đối.
Việt Nam vẫn có thể cho tàu lui tới khu vực quanh giàn khoan Hải Dương 981, tạo nên một tình thế tương tự như ở Senkakư/ Điếu Ngư, trong khi nỗ lực đòi hỏi sự phân giải quốc tế. Việt Nam có thể sẽ cho tàu cảnh sát biển tiến quanh vùng đó, nhưng không như hải trình hôm trước để tránh đụng chạm với tàu hải cảnh Trung Quốc. Việt Nam có thể cho tàu chạy qua lại bên kia đường ranh lưỡi bò, tức là vào hẳn bên trong phía mà Trung Quốc đòi chiếm lãnh hải, nhưng nếu tàu Trung Quốc đối đầu thì vòng ra, rồi lại quanh vào?
+ Tin từ Trung Quốc, RFA, VOA - 8/5: Philippines phớt lờ yêu cầu phóng thích ngư dân Trung Quốc (Phượng Hoàng, Thời báo Hoàn cầu - 8/5): Ngày 8/5, Bắc Kinh tiếp tục thúc giục CP Philippines trả tự do cho 11 ngư dân Trung Quốc cũng như tàu thuyền của họ mà Philippines đã bắt giữ hôm 6/5 trong vùng biển của Philippines. Trung Quốc còn cảnh cáo Manila không nên có thêm các hành động khiêu khích để tránh làm phương hại hơn nữa mối quan hệ song phương.
Đáp lại, Chỉ huy trưởng cảnh sát quốc gia Philippines, ông Alan Purisima cho biết, nhóm ngư dân Trung Quốc sẽ bị điều tra về các cáo buộc xâm nhập lãnh hải Philippines bất hợp pháp và đánh bắt trộm động vật có nguy cơ bị tuyệt chủng. Philippines khẳng định vụ này không nhằm khiêu khích Bắc Kinh mà là một phần trong các nỗ lực chống săn bắt các loài động vật được bảo vệ.
Đề cập đến sự việc trên, Thời báo Hoàn cầu ngày 8/5 có đăng bài xã luận kêu gọi Trung Quốc cần trả đũa việc Philippines bắt ngư dân. Theo đó cho rằng, Trung Quốc không muốn cùng lúc có xung đột với cả Philippines và Việt Nam nhưng tình hình này đã xảy ra. Do Philippines lần này thể hiện ngông cuồng, Trung Quốc nên trả đũa, dạy cho Philippines một bài học. Trung Quốc cần lựa chọn ít nhất một trong hai biện pháp sau: (i) theo mô hình đảo Hoàng Nham, đẩy lực lượng của Philippines ra khỏi khu vực bãi Bán Nguyệt một cách triệt để; (ii) trả đũa, bắt người Philippines đang canh giữ trên tàu chiến cũ tại bãi Nhân Ái, kéo tàu đi hoặc đánh chìm, thừa cơ giải quyết dứt điểm vấn đề Philippines giở trò tại bãi Nhân Ái. Hoàn cầu kiến nghị Trung Quốc cần dám làm, bắt người Philippines trên tàu tại bãi Nhân Ái, đối với người ngoài, việc này về tính chất không khác biệt lớn với việc Philippines vừa bắt ngư dân Trung Quốc.
Nếu Trung Quốc trả đũa, Mỹ sẽ bênh vực Philippines nhưng chỉ là dư luận chỉ trích, Mỹ sẽ không trực tiếp can thiệp quân sự. Hiện nay Trung Quốc một chọi 2 với Philippines và Việt Nam, nếu Mỹ tích cực can dự vào thì trên toàn cầu Mỹ đồng thời phải đổi mặt với cả Trung Quốc và Nga về Ucraina và “Nam Hải” (Biển Đông). Trung Quốc cần bình tĩnh, các biện pháp trả đũa cần vững vàng, không vội, để Philippines thấy rằng một khi đã khiêu khích thì sẽ chịu tổn thất; lần bắt ngư dân Trung Quốc này Philippines phải bị trừng phạt, không cần mạnh nhưng mức độ trừng phạt phải khiến Philippines thấy đau.
+ Tin từ Hồng Công - 8/5: Tầu chiến Trung - Mỹ giáp mặt tại Biển Đông (Mạng Phượng Hoàng - 8/5): Theo Mạng Hải quân Mỹ, ngày 5/5, tầu chỉ huy USS Blue Ridge LCC-19 thuộc Hạm đội 7 Mỹ đang thực hiện nhiệm vụ huấn luyện tại Nam Hải (Biển Đông) đã đối mặt với tầu hải quân Trung Quốc. Phía Mỹ lập tức đã cho cất trực thăng MH-60 tiến hành chụp ảnh biên đội tầu chiến Trung Quốc. Từ những bức ảnh phía Mỹ chụp được, biên đội tầu hải quân Trung Quốc bao gồm tầu hộ vệ Hằng Thủy lớp 054A mang số hiệu 572 và tầu khu trục Lan Châu thuộc lớp 052C mang số hiệu 170.
USS Blue Ridge LCC-19 là tầu chiến có năng lực chỉ huy tác chiến tổng hợp trên biển mạnh nhất hiện nay của Hải quân Mỹ và được biên chế cho Hạm đội 7.
+ Tin từ Hàn Quốc, RFI, VOA - 8/5: Trung Quốc đang xem xét việc thiết lập khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông và biển Hoàng Hải (Yonhap - 8/5): Theo Yonhap 8/5, Tờ Thời báo tự do của ĐL ngày 8/5 dẫn lời Tư lệnh không quân TBD của Mỹ Herbert Carlisle trong cuộc thảo luận về lĩnh vực quốc phòng do Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế CSIS của Mỹ cho biết, hiện Trung Quốc đang xem xét cả việc thiết lập vùng ADIZ ở Biển Đông (Biển Đông), đồng thời cho rằng, động thái như vậy của Trung Quốc không phải là ý tưởng tốt, nếu Trung Quốc cần thiết lập ADIZ ở khu vực nào đó, trước tiên Trung Quốc cần thảo luận với các nước láng giềng liên quan. Phát biểu của Tư lệnh Carlisle được cho là nhằm kiềm chế Trung Quốc.
Lê Sơn (gt)
Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông là chuỗi hội thảo thường niên do Học viện Ngoại giao (DAV) tổ chức, với mục tiêu thúc đẩy đối thoại chuyên sâu, cởi mở và thẳng thắn về những diễn biến đa chiều liên quan đến Biển Đông.
Ngày 1 tháng 7 năm 2022, Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao đã tổ chức kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Viện. Ngày 12 tháng 7 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định thành lập Viện Biển Đông, trực thuộc Học viện Ngoại giao, là đơn vị chuyên nghiên cứu về các vấn đề bảo vệ biển, đảo,...
Nhằm đẩy mạnh phong trào nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề liên quan đến Biển Đông cũng như tình hình khu vực và thế giới trong sinh viên đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng, Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông ban hành Quy định về Chương trình Học bổng Thắp sáng Đam mê Nghiên cứu Biển Đông.
Bất kể lo ngại về cam kết của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nước Mỹ dưới Chính quyền Joe Biden thực sự đã “quay lại”.
Chỉ trong vòng 1 tuần từ ngày 28/7 đến ngày 4/8, Cục Hải sự tỉnh Hải Nam và tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) liên tục ra 10 thông báo về các cuộc tập trận quân sự trên biển. Đáng chú ý nhất trong số đó là cuộc tập trận phạm vi lớn nhất trên Biển Đông kéo dài từ ngày 6-10/8. Các chuyên gia của Trung Quốc...