23/07/2013
Sau khi trọng điểm chiến lược của Mỹ từ châu Âu chuyển dịch sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cục diện chiến lược thế giới xuất hiện hàng loạt biến đổi mới. Để phán đoán hướng đi cơ bản của thời cơ phát triển chiến lược của Trung Quốc, điều then chốt là phải phân tích sau khi trọng điểm chiến lược của Mỹ chuyển dịch về phía Đông, xu thế lớn biến đổi của cục diện thế giới đã đem đến những nhân tố có lợi nào, đã xuất hiện những thách thức bất lợi nào đối với điều kiện bên ngoài của sự phát triển của Trung Quốc. Nhận thức được những vấn đề này là điều có ý nghĩa quan trọng đối với việc nắm bắt thời cơ phát triển sau này của Trung Quốc.
I/ Mỹ tích cực đẩy mạnh chiến lược “tái cân bằng” đối với Trung Quốc
Quan hệ Trung-Mỹ là quan hệ song phương vô cùng quan trọng trong cục diện chiến lược thế giới. Lâu nay, Mỹ đã áp dụng chính sách “kiềm chế và tiếp xúc” đối với Trung Quốc, tức là vừa tiến hành đối thoại chiến lược với Trung Quốc để bảo vệ lợi ích chung của hai bên, đồng thời dùng tìm đủ mọi cách để kiềm chế Trung Quốc, phòng ngừa sự trỗi dậy của Trung Quốc. Sau sự kiện “11/9”, Mỹ sa lầy vào chiến tranh Irắc và Ápganixtan, điều này giảm bớt khả năng kiểm soát tình hình quốc tế của Mỹ, đánh dấu việc Mỹ đã rơi xuống từ trên đỉnh của chủ nghĩa đơn phương. Cùng với sự suy thoái của Mỹ và sự trỗi dậy của Trung Quốc, Mỹ đã mắc chứng “lo âu thời đại” và “lo ngại Trung Quốc”. Theo điều tra của Ban Nghiên cứu chiến lược Mỹ, gần 60% dân Mỹ cho rằng kinh tế Trung Quốc sẽ vượt Mỹ, trở thành “nước lãnh đạo” thế giới. Do đó, sau khi dịch chuyển trọng điểm chiến lược về phía Đông, Mỹ sẽ thúc đẩy “chiến lược tái cân bằng” đối với Trung Quốc”. Tổng thống Obama cảm thấy “Mỹ đã rơi vào khủng hoảng”, lo lắng Trung Quốc một ngày nào đó vượt qua Mỹ, ông tuyên bố rằng Mỹ quyết không đứng “thứ hai thế giới”, Ngoại trưởng Hillary cũng nói: “Khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã trở thành một động lực thúc đẩy then chốt đối với chính trị toàn cầu”, lợi dụng động lực thúc đẩy này có thể giúp Mỹ thoát khỏi “cục diện khó khăn” của Mỹ. Lô gích chiến lược của Mỹ là thông qua việc “tạo sức ép đối với Trung Quốc”, vận dụng sách lược “bao vây, kiềm chế” Trung Quốc, để chèn ép không gian phát triển của Trung Quốc, từ chỗ xác định Trung Quốc là “bên tương quan đến lợi ích”, chuyển thành đối tượng gây sức ép chiến lược, vận dụng chính sách “tái cân bằng chiến lược” đối với Trung Quốc trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự…
Về mặt chính trị, Mỹ ngày càng cảnh giác Trung Quốc, không ngừng rêu rao “Thuyết về sự đe dọa của Trung Quốc”. Đặc biệt là tổng lượng kinh tế Trung Quốc năm 2010 đạt 40 nghìn tỷ nhân dân tệ, vượt qua Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, giới truyền thông nước ngoài dự đoán, tính theo tốc độ phát triển của Trung Quốc, nước này có khả năng vượt qua Mỹ trong vòng 5 năm tới. Mỹ cho rằng sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc, cũng như sự hùng mạnh về quân sự của Trung Quốc đã tạo nên thách thức đối với Mỹ trong việc chủ đạo hệ thống quốc tế, thậm chí coi Trung Quốc là nước đã “thoát ra khỏi quỹ đạo điều hành của Mỹ”. Do đó Mỹ thường gây sức ép với Trung Quốc trên các lĩnh vực chính trị như “quy tắc” quốc tế, ngoại giao nhân quyền, ý thức hệ, tiến trình dân chủ hóa, mức độ minh bạch trong xã hội… Điều tồi tệ hơn là trong các vấn đề nội chính liên quan đến Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương, Mỹ đã ủng hộ thế lực ly khai. Thậm chí trong những vấn đề căn bản liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, Mỹ cũng không quan tâm đến lợi ích cốt lõi của nhân dân Trung Quốc, kích động tranh chấp đảo giữa Trung Quốc và Nhật Bản và tranh chấp đảo trên Biển Đông, buộc các nước châu Á-Thái Bình Dương “phải đưa ra sự lựa chọn đứng về bên nào”, mục đích là làm suy yếu ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc, cô lập Trung Quốc.
Về mặt kinh tế, tuy Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, nhưng chêng lệch về tổng lượng kinh tế giữa hai nước Trung-Mỹ vẫn rất lớn. Tổng lượng kinh tế Mỹ năm 2010 đạt 13 nghìn tỷ USD, trong khi đó, tổng lượng kinh tế năm 2010 của Trung Quốc cũng chỉ bằng một nửa so với Mỹ. Mối liên hệ về kinh tế giữa Trung Quốc và Mỹ vô cùng chặt chẽ, Trung Quốc cho đến nay vẫn là nước chủ nợ lớn nhất của Mỹ, nắm giữ trái phiếu Mỹ trị giá 1.536 tỷ USD, quan hệ kinh tế Trung-Mỹ là quan hệ kinh tế gắn bó theo kiểu “trong lợi ích nước này có lợi ích của nước kia”. Song, để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, Mỹ đã thi hành chính sách nới lỏng tiền tệ, in và phát hành lượng lớn tiền mặt, buộc đồng nhân dân tệ phải tiếp tục tăng giá. Ngoài ra, Mỹ và phương Tây ngăn cấm bán kỹ thuật và công nghệ mới cho Trung Quốc, trong các vấn đề như quyền sở hữu trí tuệ, chống phá giá, chuyển nhượng bản quyền, thị phần… Mỹ đã đưa ra nhiều hạn chế, tạo ra hàng loạt rào cản, cản trở sự giao lưu kinh tế giữa Trung Quốc và Mỹ.
Về chiến lược quân sự, Mỹ đưa ra lý luận về “Tác chiến liên hợp hải quân-không quân”, trọng điểm là “bố trí lực lượng tiền duyên” nhằm vào Trung Quốc. Tại Tây Thái Bình Dương, Mỹ đã xây dựng trung tâm chỉ huy và căn cứ tiền duyên, lấy các căn cứ quân sự ở khu vực Đông Nam Á, các căn cứ quân sự Nhật Bản, và các căn cứ quân sự ở đảo Guam làm điểm tựa, bố trí 60% binh lực tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Để bao vây Trung Quốc, Mỹ đã bố trí hai tuyến bao vây, tuyến bao vây trên đất liền và tuyến bao vây trên biển. Tuyến bao vây trên đất liền kéo dài từ Mông Cổ qua Trung Á đến Nam Á; tuyến bao vây trên biển có 3 chuỗi đảo: chuỗi đảo thứ nhất được tạo thành từ sự bố trí các căn cứ quân sự tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Xinhgapo cho đến đảo Diego Garcia của Ấn Độ Dương, chuỗi đảo thứ hai được tạo thành từ sự bố trí các căn cứ quân sự lấy đảo Guam làm trung tâm kéo dài đến Ôxtrâylia và Niu Dilân, chuỗi đảo thứ ba được tạo thành từ sự bố trí các căn cứ lấy Hawaii làm trung tâm cho đến đảo Midway và quần đảo Alaska và Aleutian. Bộ chỉ huy hỗn hợp của tuyến bao vây trên đất liền và tuyến bao vây trên biển đặt ở khu vực Ấn Độ và Mianma. “Tác chiến liên hợp hải-không quân” nhấn mạnh đến việc “tấn công xa bờ” lấy lực lượng hải-không quân làm chủ đạo, cũng bao gồm cả việc tác chiến chung giữa ba lực lượng hải-lục-không quân để “tiêu diệt các mục tiêu trên đất liền”. Một khi xung đột xảy ra, ven biển phía Đông Trung Quốc sẽ có thể trở thành chiến trường chính, các thành phố trung tâm, khu công nghiệp cũng như các tuyến giao thông quan trọng sẽ bị oanh tạc, trong khi đó tuyến biên giới Trung-Ấn và Trung Quốc-Mianma thuộc hướng chiến lược phía Tây Nam cũng có khả năng trở thành chiến trường trên đất liền.
Dựa vào tình hình trên, Mỹ thúc đẩy “chiến lược tái cân bằng” đối với Trung Quốc, mục đích chủ yếu là bao vây, ngăn chặn, kiểm soát và hạn chế sự phát triển của Trung Quốc. Mỹ cho rằng “Trung Quốc không còn là một nước lớn đang trỗi dậy nữa, mà trên thực tế đã là một nước lớn thế giới”. Để xóa bỏ ảnh hưởng quốc tế đang không ngừng tăng lên của Trung Quốc, Mỹ liên kết với các nước đồng minh châu Á lựa chọn “chiến lược tái cân bằng” đối với Trung Quốc, thực chất là tạo ra cục diện cân bằng lực lượng đối kháng với “cường độ thấp”, làm nổi bật “vai trò lãnh đạo” của Mỹ. Nhìn từ tình hình trước mắt, cho thấy Mỹ không đủ sức mạnh để phát động một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn trên cả nước đối với Trung Quốc, khủng hoảng kinh tế trong nước Mỹ vẫn đang kéo dài, dự tính phải đến trước hoặc sau năm 2018 mới có thể thoát khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, kinh tế ảm đạm dẫn đến dự toán ngân sách quốc phòng giảm xuống. Giới hoạch định chiến lược Mỹ cho rằng “Mỹ ngày càng có thái độ hoài nghi, tâm trạng e dè, ngờ vực đối với Trung Quốc”. Vấn đề chủ yếu tồn tại giữa Trung Quốc và Mỹ là thiếu “sự tin tưởng lẫn nha u về chiến lược”. Khoảng chừng 10 năm tới, thời cơ chiến lược phát triển của Trung Quốc vẫn còn, mâu thuẫn, xung đột và tranh đấu giữa hai nước sẽ càng thúc đẩy Trung Quốc quyết tâm bảo vệ lợi ích phát triển của nước mình.
II/ “Vai trò trung tâm” của châu Âu giảm sút
Châu Âu vẫn luôn là trung tâm của thế giới. Thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Mỹ và Liên Xô tranh giành quyền chủ đạo, là đồng minh chủ yếu của Mỹ, các nước Tây Âu đã phát huy vai trò hết sức quan trọng trong trật tự thế giới do Mỹ chủ đạo. Cùng với việc Mỹ chuyển dịch trọng tâm chiến lược từ châu Âu sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương, vai trò của Liên minh châu Âu đã bị giảm sút, giá trị tồn tại của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) cũng bị đặt dấu hỏi. Do tầm kiểm soát của Mỹ đối với EU và NATO giảm sút, nên tính độc lập của các nước thành viên EU và NATO được tăng cường. Trung Quốc nếu có thể lợi dụng xu hướng thay đổi này trong các công việc quốc tế để đẩy mạnh quan hệ với các nước châu Âu, tăng cường tình hữu nghị Trung Quốc-châu Âu, ủng hộ tiến trình nhất thể hóa châu Âu, giảm bớt khủng hoảng nợ châu Âu, điều này sẽ có vai trò quan trọng đối với việc bảo vệ thời cơ chiến lược phát triển của Trung Quốc, chống lại sức ép từ “chiến lược tái cân bằng” mà Mỹ đang thi hành với Trung Quốc.
Đầu tiên, sự suy yếu của “vai trò trung tâm” châu Âu chủ yếu biểu hiện ở việc chịu sự ảnh hưởng của khủng hoảng nợ, không chỉ cản trở tiến trình nhất thể hóa mà còn ảnh hưởng đến vai trò của EU trong trật tự thế giới
Sau khi khủng hoảng tài chính Mỹ lan đến châu Âu, kinh tế các nước EU đều suy thoái. Lực lượng chủ yếu duy trì hoạt động của EU là “trục Pháp-Đức”, trong tình hình thông thường, Pháp “đưa ra chủ trương”, Đức “thực hiện”. Đức đã trở thành “nhà tài trợ” của EU. Cùng với thời gian, vai trò của Đức ngày càng được tăng cường. Đó là vì 5 năm gần đây (2007 đến 2011), GDP của Đức tăng 3%, của Pháp giảm 2%, tỷ lệ thất nghiệp của Đức giảm 2% trong khi Pháp tăng 1%, do đó trong quan hệ đối tác “trục Pháp-Đức” xuất hiện khuynh hướng “Pháp đưa ra chủ trương, còn Đức nắm thực quyền”. Khủng hoảng nợ ở Khu vực đồng euro có nhiều phương án giải quyết: có ý kiến cho rằng nên hủy bỏ đồng euro, điều này càng dẫn đến sự suy thoái nặng nề; ý kiến khác thì cho rằng xây dựng “liên bang châu Âu”, thi hành chính sách thống nhất tài chính và kỷ luật tài chính, thông qua việc thúc đẩy tiến trình nhất thể hóa để vượt qua khủng hoảng. Ý kiến sau dường như có thể thực hiện sẽ nảy sinh vai trò cân bằng quan trọng đối với chủ nghĩa bá quyền kinh tế của Mỹ, có lợi cho việc đa dạng hóa đơn vị kết toán tiền tệ quốc tế.
Thứ hai, vai trò trung tâm của châu Âu bị suy yếu còn biểu hiện ở việc trong tổ chức các nước EU, vai trò của Anh bị gạt ra bên ngoài
Anh ỷ thế có “quan hệ đặc thù” với Mỹ, đảm nhiệm vai trò “cầu nối” của các nước Âu-Mỹ. Anh là nước thành viên EU, nhưng không tham gia khu vực đồng euro. Khi ký “Hiệp ước Lisbon”, Anh có được “quyền ngoại lệ” trong nội bộ EU, trong khi tổ chức các nước EU thảo luận về “tăng cường kỷ luật tài chính”, Anh lấy lý do “trở ngại chủ quyền” để phủ quyết chương trình này, nhận sự coi thường của các nước thành viên khác. Điều này đã phản ánh sự không thống nhất về ý kiến trong nội bộ EU, cũng thể hiện sự kiểm soát của Mỹ đối với EU đã giảm sút.
Thứ ba, vai trò trung tâm của châu Âu tuy bị suy yếu nhưng tính độc lập lại được nâng cao
Sau khi dịch chuyển trọng điểm chiến lược về phía Đông, Mỹ không còn đủ thực lực để can thiệp sâu vào các công việc của châu Âu. Trong bối cảnh này, các nước Trung-Đông Âu có cơ hội để khôi phục và phát triển kinh tế. Từ năm 2010 cho đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của các nước Trung-Đông Âu đạt 4,3%, cao hơn 1% so với các nước thành viên cũ của EU, nhưng trình độ phát triển tổng thể vẫn thấp so với các nước Tây Âu. Chính sách ngoại giao của các nước Trung-Đông Âu có sự khác biệt so với các nước phát triển Tây Âu, thường lựa chọn chính sách “thận trọng”. Quan hệ phát triển kinh tế thương mại giữa các nước Trung-Đông Âu với Trung Quốc có lịch sử lâu dài và triển vọng tốt đẹp. Mức độ phụ thuộc vào Mỹ của các nước Tây Âu cũng có phần giảm sút, và những nước này hy vọng có được sự giúp đỡ của Trung Quốc để thoát khỏi khủng hoảng nợ. Những điều này đều có lợi cho việc Trung Quốc đi sâu vào phát triển quan hệ với các nước châu Âu.
Nhìn từ tình hình trên có thể thấy, sự khác biệt của 27 nước châu Âu là rất lớn, Harold James, giáo sư Đại học Princeton, miêu tả châu Âu như là “một châu Âu có thể thay đổi theo nhiều hình thái”. Tính thích nghi của châu Âu chứng tỏ rằng sau khi trọng điểm chiến lược của Mỹ chuyển dịch về phía Đông, thời cơ chiến lược của Trung Quốc vẫn tồn tại. Như trong việc nhìn nhận lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, thái độ của châu Âu và Mỹ rõ ràng không nhất trí. Tháng 10/2012, Ngoại trưởng Nhật Bản Koichiro Genba đến thăm châu Âu, hội đàm với các nhà lãnh đạo các nước Pháp, Anh, Đức, mục đích là thuyết phục châu Âu ủng hộ lập trường của Nhật Bản trong việc tranh chấp đảo Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản, nhưng gặp phải sự tiếp đón lạnh nhạt, đành thất bại trở về nước. Giới truyền thông châu Âu cho rằng “yêu cầu của Nhật bản về chủ quyền của đảo Điếu Ngư không đứng vững được”, thậm chí cho rằng “Mỹ can dự vào việc tranh chấp Đảo Điếu Ngư là ngu xuẩn”. Những tín hiệu này đều chứng tỏ, “tính độc lập” của châu Âu đã dần thể hiện. Châu Âu cần sự ủng hộ của Trung Quốc để thoát khỏi sự ràng buộc của khủng hoảng nợ; Trung Quốc cũng cần sự ủng hộ của châu Âu để chống lại sự bao vây của Mỹ. Sự ổn định của lục địa châu Âu có ý nghĩa địa chính trị quan trọng trong việc bảo vệ hòa bình thế giới.
III/ Châu Á nảy sinh “bất ổn định”
Chiến lược châu Á-Thái Bình Dương là một phần quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, xét về phương diện địa chính trị, Mỹ là nước ven bờ Thái Bình Dương, xưa nay chưa từng rời bỏ khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Điều gọi là “quay trở lại châu Á” chẳng qua là phản ánh việc Mỹ thúc đẩy lại sự quan tâm đối với Đông Á sau một thời gian buông lơi vì việc chống khủng bố mà thôi. Từ sự kiện “11/9”, sự tự tin về chiến lược và năng lực đối phó với sự kiện phức tạp của Mỹ đã giảm sút; trước sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc, Mỹ đã nảy sinh cảm giác “mất mát”, “hụt hẫng”. Điều này có thể nhận biết được qua phát biểu của các nhà lãnh đạo Mỹ. Để “bảo vệ và nâng cao địa vị lãnh đạo của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cải thiện tình hình an ninh khu vực, thúc đẩy sự phát triển phồn vinh khu vực, phổ biến giá trị quan của Mỹ”, Chính phủ Mỹ vận dụng các thủ đoạn như “gây hấn”, “diễn tập quân sự”, “bố trí lực lượng tiền duyên”…, tạo ra cục diện căng thẳng, rồi lại dùng thái độ “giả tạo” của “kẻ hòa giải” để xoa dịu, với dụng ý duy trì trạng thái “căng thẳng vừa phải” ở Đông Á, khiến khu vực này rối loạn, tạo ra cục diện chiến lược "phức tạp".
Vấn đề nghiêm trọng nhất của sự bất ổn định ở châu Á là vấn đề vũ khí hạt nhân. Mỹ và Nga là hai quốc gia có vũ khí hạt nhân lớn mạnh nhất trên thế giới, căn cứ vào tài liệu đã được công bố của Ủy ban Quốc tế về không phổ biến và giải trừ vũ khí hạt nhân (ICNND) của Liên Hợp Quốc, hai nước Mỹ-Nga có hơn 23.000 đầu đạn hạt nhân, tương đương với hơn 20 tỉ tấn thuốc nổ TNT và có sức công phá gấp 150 nghìn lần quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Hiroshima. Ở châu Á, hai nước Mỹ, Nga đều có căn cứ quân sự hạt nhân. Ngày 25/10/2012, hai nước Mỹ, Nga gần như trong cùng một ngày thử nghiệm tên lửa đạn đạo loại mới; Nga phóng tên lửa đạn đạo liên lục địa mới, đặt trên bệ phóng di động, Mỹ thử nghiệm hệ thống phòng thủ chống tên lửa đạn đạo. Kết quả thử nghiệm cho thấy Mỹ vẫn chưa hoàn toàn nắm vững kĩ thuật chống tên lửa đạn đạo mang theo nhiều đầu đạn. Điều này cho thấy thế giới vẫn có thể duy trì trạng thái “cân bằng răn đe hạt nhân” trong một khoảng thời gian dài sau này.
Tại châu Á, Mỹ sử dụng tiêu chuẩn kép để cho phép một vài quốc gia phát triển kĩ thuật hạt nhân. Năm 1998, Ấn Độ liên tục tiến hành 5 lần thử nghiệm hạt nhân dưới lòng đất, tiếp đó, Pakixtan cũng tiến hành thử nghiệm hạt nhân; cả hai nước Ấn Độ và Pakixtan trên thực tế đều trở thành các quốc gia hạt nhân. Mỹ ủng hộ Ấn Độ phát triển vũ khí hạt nhân, mục đích là để kiềm chế Trung Quốc. Tháng 12/2006, Thượng Viện và Hạ Viện Mỹ đã thông qua “Đạo luật Hợp tác năng lượng hạt nhân hòa bình Mỹ-Ấn” (còn gọi là Đạo luật Hyde) do ông Henry Hyde, Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Hạ viện, đề xuất. Tháng 9/2007, hai nước Mỹ và Ấn Độ thông qua “Hiệp định hợp tác hạt nhân dân sự” (tức Hiệp định 123), điều này cũng có nghĩa thế giới đã bước vào “thời đại hạt nhân thứ 2”. “Thời đại hạt nhân thứ 2” thực chất là thời kỳ “phân biệt đối xử hạt nhân”, cũng có nghĩa là thời kỳ hạt nhân “phát triển không có trật tự”. Mỹ là nước đi đầu trong việc phá vỡ hệ thống quản lý hạt nhân và cơ chế không phổ biến vũ khí hạt nhân.
Trước mắt, vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên và Iran vẫn chưa được giải quyết. Mỹ có ý định lấy việc răn đe chiến tranh để ngăn ngừa các cuộc thử nghiệm hạt nhân của Bắc Triều Tiên, Ixraen thì có ý định tiến công các nhà máy hạt nhân của Iran . Mỹ mượn cớ đối phó với mối đe dọa hạt nhân từ Bắc Triều Tiên, để lôi kéo Hàn Quốc tham gia hệ thống phòng thủ tên lửa toàn cầu của Mỹ, nhưng bị Hàn Quốc từ chối. Mỹ còn bố trí hệ thống radar chống tên lửa với độ chính xác cao tại Nhật Bản, mục tiêu giám sát chủ yếu là ba nước Nga, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Trên thực tế, Nhật Bản sớm đã nắm vững kĩ thuật chế tạo vũ khí hạt nhân, đồng thời đã dự trữ hơn 200 kg Plutonium, có thể chế tạo khoảng 30 quả bom hạt nhân tầm trung và nhỏ, chỉ do “ba nguyên tắc phi hạt nhân” đã hạn chế Nhật Bản bước qua ngưỡng cửa hạt nhân.
Vấn đề tồi tệ nhất của sự bất ổn định ở châu Á là vấn đề tranh chấp biển đảo giữa các nước láng giềng, làm tăng thêm tình hình căng thẳng ở châu Á, khiến an ninh ở châu Á trở nên đáng lo ngại. Sau khi Mỹ chuyển dịch trọng điểm chiến lược sang phía Đông, việc tranh chấp quyền lợi và lợi ích biển giữa các quốc gia ven biển càng nghiêm trọng. Đầu tiên, ở Biển Đông, Mỹ cử tàu quân sự phối hợp với Philíppin và Việt Nam , trực tiếp can dự vào tranh chấp Biển Đông. Đích thân Ngoại trưởng Hillary tham gia Hội nghị thượng đỉnh ASEAN, với ý định quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Tiếp đó, Mỹ ngấm ngầm xúi giục Philíppin tạo ra tranh chấp đảo Scarborough , Trung Quốc vận dụng biện pháp kiên quyết phản đối. Tình hình Biển Đông vừa dịu đi, Nhật Bản lại “quốc hữu hóa” đảo Điếu Ngư, lần nữa thổi bùng lên ngọn lửa tranh chấp đảo giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Giữa Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga đều tồn tại tranh chấp về đảo, nhưng Nhật Bản lại tranh chấp quyết liệt nhất với Trung Quốc, điều này có liên quan tới sự thao túng từ phía sau của Mỹ. Mỹ ngoài miệng luôn duy trì “trung lập”, trên thực tế lại nói đảo Điếu Ngư thuộc phạm vi phòng ngự của “Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật”, có kế hoạch cùng với Nhật Bản tiến hành diễn tập chiếm đảo, chỉ vì Trung Quốc kiên quyết bảo vệ chủ quyền, lựa chọn biện pháp phản đối mạnh mẽ, buộc Mỹ và Nhật phải tuyên bố hủy bỏ tiến hành diễn tập chiếm đảo tại Nhật Bản. Nhưng tranh chấp đảo Điếu Ngư có thể vẫn sẽ kéo dài, dư luận Mỹ cho rằng: “Trước tình hình tình cảm dân tộc của hai bên đều đang lên cao, khả năng hai nước có thể bình tĩnh lại để tránh bùng nổ chiến tranh là rất thấp, sự ủng hộ của Mỹ đối với Nhật Bản đã ở tuyến đầu của cuộc tranh chấp. Mỹ đã lần lượt cử 5 phái đoàn cấp cao sang thăm hai nước Trung Quốc và Nhật Bản, ý định kiểm soát cuộc khủng hoảng trong phạm vi nhất định, bộc lộ tâm lý “thiếu tự tin” của Mỹ, lo lắng tranh chấp đảo sẽ chuyển thành chiến tranh.
Sự bất ổn định ở châu Á còn biểu hiện trên bình diện kinh tế, xuất hiện tình hình kinh tế suy thoái và phát triển trì trệ. Sau khi trọng điểm chiến lược dịch chuyển về phía Đông, Mỹ đã sử dụng hàng loạt biện pháp để phá hoại tiến trình nhất thể hóa kinh tế Đông Á, đồng thời dùng các vấn đề thuế cao, chống bán phá giá, quyền sở hữu trí tuệ, tỉ giá đồng nhân dân tệ… để làm chậm sự phát triển của kinh tế Trung Quốc. Trong quá trình nhất thể hóa kinh tế Đông Á do ASEAN chủ đạo, Mỹ dùng vấn đề an ninh và quân sự để đe dọa các nước ASEAN, khiến một số nước vận dụng chính sách hai mặt “về kinh tế dựa vào Trung Quốc, về an ninh dựa vào Mỹ”, dần dần giảm vai trò của ASEAN, khiến cho ASEAN bị suy yếu. Mỹ đã vứt bỏ ASEAN, đề xuất “Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương” (TPP), nhấn mạnh sự bá quyền về kinh tế của Mỹ, làm suy yếu vai trò chủ đạo của ASEAN. Chỉ cần TPP hoạt động, vai trò chủ đạo của ASEAN sẽ hoàn toàn mất tác dụng. Mỹ từ trước đến nay vẫn luôn phủ định ý tưởng “Tập đoàn kinh tế Đông Á” của nguyên Thủ tướng Malaixia Mahathir đề xướng, cũng phản đối ý tưởng thành lập “Quỹ tiền tệ châu Á” của Nhật Bản, Hàn Quốc. Mục đích của Mỹ là ngăn chặn tiến trình nhất thể hóa kinh tế Đông Á, đồng thời làm suy yếu ảnh hưởng về kinh tế của Trung Quốc, từ đó tạo nên cục diện kinh tế Đông Á suy yếu.
IV. Cảnh giác với việc Nhật Bản một lần nữa có thể trở thành nơi châm ngòi nổ của chiến tranh
Nhật Bản là nước bại trận trong Chiến tranh Thế giới thứ 2. Năm đó, khi Mỹ chủ trì việc xét xử tại Tokyo, xuất phát từ lợi ích riêng và nhu cầu của cuộc Chiến tranh Lạnh, nên đã không thanh toán triệt để cuộc chiến tranh với Nhật Bản. Điều này biểu hiện ở các mặt dưới đây: Thứ nhất, không loại bỏ chế độ thiên hoàng. Thiên hoàng là tội phạm chiến tranh lớn nhất, lại không bị nhận bất kỳ sự trừng phạt nào, điều này khiến tinh thần võ sĩ đạo được kết hợp từ “tư tưởng trung dũng”, “ý thức bành trướng”, và “quốc gia trên hết” của người dân Nhật Bản vẫn được kế thừa, trở thành nền tảng của tư tưởng bành trướng. Thứ hai, xử lí tội phạm chiến tranh không hiệu quả, đến mức để lọt lưới tội phạm chiến tranh như Nobusuke Kishi, rất nhanh sau đó Kishi đã có thể bước vào chính trường làm thủ tướng. Thứ ba, không truy cứu tội ác chống lại nhân loại của các tội phạm chiến tranh Nhật Bản, khiến cho các tiêu bản và các loại vi trùng của đơn vị nghiên cứu vũ khí sinh học 731 của quân đội Nhật cho đến nay vẫn không biết cất giấu ở đâu. Thứ tư, khi quân đội Nhật Bản thay đổi thể chế, đã không tiến hành giáo dục một cách sâu sắc về quan điểm lịch sử cho dân chúng, để đến bây giờ Nhật Bản vẫn không nhận sai lầm đối với tội ác chiến tranh của mình. Ngày nay, Nhật Bản vẫn để linh vị 14 tội phạm chiến tranh hàng đầu đặt ở đền Yasukuni, và có nhiều quan chức đến thăm ngôi đền này, sùng bái tội phạm chiến tranh như “anh hùng”, không cho là điều nhục nhã, mà còn cho là vinh quang. Chính điều này đã đặt nền móng xã hội cho việc Nhật Bản “nghiêng về cánh hữu”. Thứ năm, không triệt để thực hiện Tuyên bố Potsdam . Okinawa vốn là vương quốc Ryukyu, cần tách khỏi Nhật Bản, trở về diện mạo ban đầu; Đảo Điếu Ngư vốn là lãnh thổ của Trung Quốc, cần trả về Trung Quốc, nhưng Mỹ đã giao dịch ngầm, giao cho Nhật Bản. Tất cả điều này đều đi ngược lại tinh thần của Tuyên bố Potsdam.
Mỹ đóng quân ở Nhật Bản mục đích là để ngăn ngừa Nhật Bản phục hồi chủ nghĩa quân phiệt. Nhưng Mỹ đã không thực hiện tốt chức trách của mình, sau khi bùng nổ chiến tranh Triều Tiên, Mỹ đã thay đổi chính sách với Nhật Bản, chuyển thành đồng minh quân sự với nước này, ủng hộ và vũ trang cho Nhật Bản. Sau khi phục hồi kinh tế, với ý đồ thoát khỏi sự ràng buộc của Mỹ để trở thành một quốc gia “bình thường”, Nhật Bản luôn tìm cách sửa đổi Bản Hiến pháp hòa bình, muốn phá vỡ quy định của Điều 9 trong Hiến pháp hòa bình, để giành được “quyền tự vệ tập thể (quyền giao chiến)”; Mỹ “nhắm mắt làm ngơ” trước việc Nhật Bản khôi phục chủ nghĩa quân phiệt. Nhật Bản đã tự ý nâng cấp lực lượng phòng vệ từ cấp Cục lên cấp Bộ, phá vỡ quy định không cho phép Nhật Bản có quân đội từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2, “Bộ Phòng vệ” chính là Bộ Quốc phòng. Hiện nay, lực lượng phòng vệ Nhật Bản có gần 240 nghìn người, trong đó lực lượng phòng vệ mặt đất có 150 nghìn người, lực lượng phòng vệ trên biển có 50 nghìn người, lực lượng phòng vệ trên không có 50 nghìn người, ngoài ra còn có 40 nghìn người trong các học viện và nhân viên an ninh của các cơ quan các cấp. Lực lượng phòng vệ Nhật Bản là lực lượng tinh nhuệ, sĩ quan nhiều ít lính, trang bị hiện đại, khi có chiến tranh có thể triển khai nhanh chóng. Từ khi Trung Quốc và Nhật Bản có tranh chấp đảo Điếu Ngư, Thủ tướng Nhật Bản Noda Yoshihiko đã tuyên bố “Chính phủ cần thiết thực hiện quyền tự vệ tập thể”. Ông giải thích quyền tự vệ tập thể là “khi đất nước bị nước khác tiến công thì có quyền sử dụng vũ lực”. Chủ tịch Shinzo Abe của Đảng dân chủ tự do khi tranh cử cũng nhấn mạnh “nước giàu quân mạnh”, “xây dựng Nhật Bản cường thịnh”. Còn “Dự luật khi có sự việc xảy ra” mà Quốc hội Nhật Bản thông qua đã đưa Đài Loan của Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên vào “phạm vi phòng vệ” của Nhật Bản, một khi có sự việc xảy ra, Nhật Bản sẽ xuất quân chiếm lĩnh những khu vực này. Điều này không thể không khiến người ta phải cảnh giác, toàn thể chính giới Nhật Bản đã theo hướng hữu khuynh, rất có khả năng khiến Nhật Bản trở thành nơi châm ngòi nổ chiến tranh, đi theo con đường bành trướng xâm lược ra bên ngoài.
Xu thế hữu khuynh của chính giới Nhật Bản khiến dư luận thế giới cảnh giác cao độ. Dư luận Xinhgapo cho rằng trong Chiến tranh Thế giới thứ 2, Nhật Bản không chỉ xâm lược Trung Quốc, cũng đem lại rất nhiều tai họa cho nhân dân Đông Nam Á; đúng vào lúc tranh chấp đảo Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản đang nóng lên thì Mỹ và Nhật Bản càng xích lại gần nhau, cao giọng “duy trì sự ổn định của khu vực”... Các bài viết của AP cũng chỉ ra rằng Nhật Bản từ chối nhắc lại “vấn đề lịch sử”, không chỉ tràn đầy “oán hận”’ với Trung Quốc, cũng đầy “thù hận” đối với việc Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Hàng năm Nhật Bản đều làm lễ kỉ niệm nạn nhân bom nguyên tử, chính là bồi dưỡng tâm lý “thù Mỹ” trong toàn dân tộc. Dư luận Anh lại nhấn mạnh Chính phủ Nhật Bản “dưới sự ủng hộ của bộ máy truyền thông hùa theo xu thế hữu khuynh, một bộ phận các nhà chủ nghĩa dân tộc cực đoan có thể tạo nên sự nguy hiểm cho bên ngoài, hình thành xung đột quân sự”. Dư luận Pháp chỉ ra rằng: “Các nước trên thế giới đều cho rằng Nhật Bản không tôn trọng các nước láng giềng châu Á”, cho rằng: “việc hữu khuynh hóa nền chính trị Nhật Bản có thể ảnh hưởng lớn đối với an ninh khu vực”, Mỹ phải hết sức chú ý điểm này trong chính sách châu Á, nếu không “sự kiện Trân Châu Cảng có thể tái diễn ở đảo Guam”. Cánh hữu Nhật Bản tổ chức lại đảng mới: “tích cực theo đuổi đề nghị chấm dứt việc đóng quân của Mỹ trước khi tròn 100 năm Thế chiến thứ 2 kết thúc”, điều này cho thấy việc thúc giục Mỹ rút quân khỏi Nhật Bản là mục tiêu hàng đầu của cánh hữu Nhật Bản để phục hồi chủ nghĩa quân phiệt.
V/ Đặc trưng mới của thời cơ phát triển chiến lược Trung Quốc
Cùng với việc trọng điểm chiến lược Mỹ chuyển dịch về phía Đông, các lực lượng trên thế giới đều đang diễn ra sự phân hóa, dao động và cải tổ lớn, tình hình quốc tế đang thay đổi, có thay đổi có lợi cho sự phát triển của Trung Quốc, có thay đổi không có lợi cho sự phát triển của Trung Quốc. Nhưng nhìn về tổng thể, nhân tố có lợi nhiều hơn nhân tố bất lợi. Có thể dự kiến trong 10 năm tới, khả năng bùng nổ chiến tranh thế giới là rất nhỏ, bởi vì sự cạnh tranh giữa các nước lớn và sự tăng trưởng của lực lượng các nước mới nổi đã kiềm chế sự khuếch trương của nhân tố chiến tranh, hòa bình và phát triển vẫn là nguyện vọng chung của nhân dân các nước trên toàn thế giới. Nhưng chiến tranh cục bộ thì khó tránh khỏi; tâm lý nôn nóng “cạnh tranh phát triển” diễn ra vào đầu thế kỷ có khả năng làm bộc phát những mâu thuẫn vốn có giữa các nước, hình thành nên xung đột quân sự cục bộ. Nhìn từ xu thế chung, hòa bình thế giới và phồn vinh chung của nhân loại là mang tính phổ biến, cơ hội và thách thức cùng tồn tại. Từ sự phân tích tình hình trên có thể thấy, thời cơ phát triển trong tương lai của Trung Quốc sẽ đối diện với những vấn đề sau:
1. Tính phức tạp đa biến trong tình thế chiến lược
Trong 10 năm tới sẽ là thời kỳ bộc phát các loại mâu thuẫn trên thế giới, cũng là thời kỳ nguy cơ cao về xung đột địa chính trị, điều này khiến cho thời cơ chiến lược của Trung Quốc mang tính phức tạp trong tình thế chiến lược. Sau khi trọng điểm chiến lược của Mỹ chuyển sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương, vị trí địa lý và điều kiện bên ngoài của Trung Quốc sẽ thuộc khu vực trung tâm của mâu thuẫn, điều này là do “chiến lược cân bằng” với Trung Quốc của Mỹ tạo nên. Mỹ có ý đồ lấy việc kiểm soát địa vị chủ đạo khu vực châu Á-Thái Bình Dương làm trọng tâm, xưng bá với toàn thế giới, điều này tất sẽ phải đối diện với nhiều mâu thuẫn như: mâu thuẫn giữa chiến tranh và hòa bình, mâu thuẫn giữa phương Đông và phương Tây, mâu thuẫn giữa nước giàu và nước nghèo, mâu thuẫn giữa xưng bá và chống bá quyền, mâu thuẫn giữa an ninh và kinh tế, mâu thuẫn ý thức hệ, mâu thuẫn giữa trật tự cũ và mới, mâu thuẫn giữa xung đột và chống xung đột kinh tế, mâu thuẫn giữa thâm nhập văn hóa với chống thâm nhập văn hóa v.v…
Có mâu thuẫn sẽ có đấu tranh, đặc trưng phức tạp đa biến đã quyết định Trung Quốc có thể làm nhiều việc trong thời cơ phát triển chiến lược mới. Giữa Trung Quốc và Mỹ tồn tại sự khác biệt về mục tiêu chiến lược, mục tiêu Trung Quốc theo đuổi là phát triển thuận lợi việc xây dựng sự nghiệp xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc, mục tiêu Mỹ theo đuổi là bá quyền toàn cầu, Trung Quốc có thể lợi dụng sự khác biệt về chiến lược này để hóa giải mâu thuẫn. Ngay cả mâu thuẫn với các nước khác cũng có thể lợi dụng sự khác biệt về lợi ích giữa các nước để tránh mâu thuẫn leo thang, giảm thiểu xung đột.
Năm 2012, 3 nước Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ đã tổ chức đối thoại 3 lần trong năm, lên kế hoạch thi hành “chính sách bao vây” đối với Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ cho rằng 3 bên đều có lợi ích chung tại tuyến đường quốc tế bắt đầu từ phía Tây Vịnh Persian, qua Ấn Độ Dương và eo biển Malacca đến Biển Đông. Tuyến đường sinh mệnh trên biển này vô cùng quan trọng đối với Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ cũng là tuyến đường liên quan đến sinh mệnh của Trung Quốc, trên thực tế nó cũng là “sợi dây” mà Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ “quấn” lấy Trung Quốc. Đối thoại 3 bên Mỹ-Nhật-Ấn thực ra là bàn bạc làm thế nào dùng “sợi dây” này để trói chặt Trung Quốc. Nhưng trọng điểm chiến lược 3 nước lại không giống nhau, Mỹ muốn “cân bằng với” Trung Quốc, Nhật Bản muốn giành lấy vị thế chủ động trong tranh chấp đảo Trung-Nhật, Ấn Độ thì muốn được lợi trong việc tranh chấp lãnh thổ biên giới Trung-Nhật, bởi vậy tuy hội đàm 3 nước tập trung vào vấn đề an ninh trên biển, nhưng mỗi nước đều có cách nghĩ của riêng mình. Chính sự không thống nhất giữa Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ đã tạo cơ hội cho Trung Quốc “tranh thủ Ấn Độ, làm suy yếu Nhật Bản, chống lại Mỹ, và cắt đứt sợi dây quấn quanh Trung Quốc”
2. Khả năng kiểm soát trong việc xử lý khủng hoảng
Trong 10 năm tới, thời cơ chiến lược của Trung Quốc là một môi trường quốc tế dễ nảy sinh biến động. Những biến động này đều có đặc trưng mang tính giai đoạn. Ngay cả khi chiến tranh nổ ra thì cũng chỉ có thể là chiến tranh cục bộ diễn ra trong thời gian ngắn . Lợi ích chung giữa Trung Quốc và Mỹ vẫn lớn hơn nhân tố xung đột lẫn nhau, trừ khi Mỹ xuất hiện “kẻ ngông cuồng chiến tranh”, nếu không khả năng xảy ra giao chiến trực tiếp giữa hai nước là không lớn. Giới chiến lược Anh cho rằng: “Cùng với việc trọng tâm chiến lược quân sự Mỹ chuyển dịch về châu Á, quân đội Mỹ đang vạch ra hàng loạt kế hoạch chiến tranh, và đưa ra biện pháp đối phó với chiến lược ‘chống xâm nhập’ của Trung Quốc”. Trung Quốc không áp dụng chiến lược “chống xâm nhập” đối với Mỹ, ngược lại Trung Quốc còn cho rằng sự hiện diện quân sự của Mỹ có vai trò không thể thay thế đối với việc răn đe tâm lý chiến tranh “phục thù” của Nhật Bản. Mỹ tuy lâu nay thúc đẩy chính sách hỗ trợ Nhật Bản, nhưng nếu Nhật Bản thật sự muốn xoá bỏ thành quả thắng lợi chống phát xít trong cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai tất sẽ làm ảnh hưởng quan hệ với Mỹ. Trung Quốc và Nhật Bản do tranh chấp Đảo Điếu Ngư mà khả năng nổ ra xung đột là rất cao, nếu giữa Trung Quốc và Nhật Bản nổ ra chiến tranh thì cũng chỉ là chiến tranh cục bộ trong thời gian ngắn. Cho dù Mỹ có lên tiếng rằng Đảo Điếu Ngư thích hợp với “Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật”, nhưng không nhiều khả năng Mỹ vì “lợi ích” của Nhật Bản mà can dự vào chiến tranh. Dư luận Mỹ cho rằng: “người dân Mỹ không nên mang tâm lý đối kháng để nhìn Trung Quốc. Kinh tế hai nước Trung Quốc và Mỹ đã trên cùng một chiếc thuyền, Trung Quốc đem lại cho Mỹ cơ hội phát triển tốt nhất từ trước đến nay”. Giữa Trung Quốc và Ấn độ tuy tồn tại tranh chấp lãnh thổ biên giới, nhưng hai nước Trung Quốc và Ấn Độ đều có cơ hội phát triển giống nhau, Mỹ phòng ngừa sự trỗi dậy của Trung Quốc, cũng chính là phòng ngừa sự trỗi dậy của Ấn Độ. Theo toan tính của Mỹ, từ năm 2010 đến năm 2020, người tiêu dùng hai nước Trung Quốc và Ấn Độ sẽ chi tiêu khoảng 64 nghìn tỷ USD vào hàng hóa và dịch vụ. Đến năm 2020, con số chi tiêu mỗi năm của người tiêu dùng hai nước ước chừng sẽ đạt 10 nghìn tỷ USD, con số này cao gấp hơn 4 lần so với năm 2010. Mỹ nếu muốn kích động chiến tranh biên giới Trung-Ấn cũng tương đối khó khăn, là bởi vì nhân dân hai nước Trung Quốc và Ấn Độ đều cảnh giác cao độ. Trong tình hình quốc tế phức tạp nhiều thay đổi, quyết sách chiến lược của các nước đều không dễ dàng bị nước khác giật dây.
Với xu hướng lớn toàn cầu hóa ngày càng đi sâu phát triển, sức mạnh hòa bình đã vượt qua ảo tưởng chiến tranh. Dù cho nguy cơ chiến tranh có lúc xuất hiện, nhưng các nước đều đang tăng cường thực lực để đối phó với nguy cơ chiến tranh, hòa bình thế giới tuy có lúc vẫn bị đe dọa, nhưng sức mạnh chính nghĩa sẽ chiến thắng mưu đồ chiến tranh. Trong thời đại kỹ thuật tin học phát triển như hiện nay, không có một quốc gia nào có thể thắng lợi hoàn toàn bằng phương thức chiến tranh. Cùng với sự phát triển theo xu hướng đa cực hóa, sự kiềm chế lẫn nhau giữa các lực lượng sẽ có thể ràng buộc nhân tố chiến tranh vào trong phạm vi có thể kiểm soát. Nhân dân Trung Quốc bình tĩnh đối phó với thách thức, chắc chắn sẽ có sự chủ động, có được ưu thế, giành được tương lai.
3. Tính phổ biến của lợi ích giá trị
Xét về quan niệm giá trị cho thấy sự phát triển của Trung Quốc nhìn chung có lợi cho thế giới. Đó là vì trong tình hình kinh tế thế giới suy thoái, sự phát triển của Trung Quốc có vai trò thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển. Do đó, về mặt lợi ích giá trị, thời cơ chiến lược của Trung Quốc mang đặc trưng có tính phổ biến.
Các nước trên thế giới đều hoan nghênh sự trỗi dậy của Trung Quốc. Cuốn sách của cựu Thủ tướng Tây Ban Nha Zapatero cho rằng: “Trung Quốc là đất nước đa nguyên hóa, hiện nay là nước lớn thứ 2 thế giới, nhưng rất nhanh chóng sẽ trở thành nước lớn số 1 thế giới. Đây chỉ là sự khởi đầu, bởi vì tương lai của thế giới không thể thiếu Trung Quốc”. Theo số liệu của nhà sử học kinh tế Angus Maddison thu thập, “Trước khi rơi vào suy thoái, Trung Quốc trong thời gian dài luôn là cường quốc số 1 thế giới. Đầu thế kỷ 19, Trung Quốc nắm giữ 1/3 của cải của thế giới. Và đến giữa thế kỷ 20, tỷ lệ này giảm xuống còn khoảng trên dưới 1%. Sự suy yếu của Trung Quốc hoàn toàn là do kết quả của sự xâm lược từ các nước lớn phương Tây và sự lạc hậu của chủ nghĩa phong kiến Trung Quốc gây nên, sự trỗi dậy một lần nữa của Trung Quốc là khôi phục lại địa vị vốn có trước đây của mình. Trong thời đại kinh tế nông nghiệp, Trung Quốc luôn ở vào địa vị dẫn đầu. Sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập, đã mất cả một thế hệ để hoàn thành “cách mạng công nghiệp”. Cách đây nửa thế kỷ, Mỹ và châu Âu đã sớm trải qua thời kỳ kinh tế phát triển này, nhưng thời gian mà Mỹ và châu Âu trải qua nhiều gấp 2, 3 lần so với Trung Quốc. Tại Trung Quốc, mọi thứ đều phát triển rất nhanh: chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp, chuyển đổi từ nông thôn sang thành thị, sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu và sự xuất hiện của một xã hội tiêu dùng… GDP của Trung Quốc bình quân mỗi năm tăng gần 10%, điều này xưa nay chưa từng có”. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng trong điều kiện tin học hóa, Trung Quốc và thế giới đều trỗi dậy từ cùng một vạch xuất phát, Mỹ không nên lo ngại hoặc cản trở sự trỗi dậy của Trung Quốc, chỉ dựa vào sức mạnh của Mỹ thì không thể thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu, hiện nay các nước khác đều cùng hợp sức thúc đẩy kinh tế toàn cầu tăng trưởng, TrungQuốc và Mỹ không nên đối đầu mà nên hợp tác”.
Nhìn từ lợi ích giá trị cho thấy, cạnh tranh là quy luật giá trị của kinh tế thị trường, bất cứ nước nào đều không nên sợ cạnh tranh mà nên nhìn nhận sự phát triển của các nước với thái độ ôn hòa để thúc đẩy sự phồn vinh chung của nhân loại. Không gian phát triển của Trung Quốc là rất rộng lớn. Sự trỗi dậy của Trung Quốc không chỉ không “đe dọa” đối với bất kỳ nước nào, ngược lại còn cống hiến cho hòa bình thế giới và sự phồn vinh chung của nhân loại. Kiên trì bước trên con đường phát triển hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc là phương châm đã định của Trung Quốc. Nhân dân Trung Quốc tin tưởng rằng sự nghiệp của Trung Quốc là sự nghiệp chính nghĩa, sự phát triển của Trung Quốc sẽ nhận được sự hoan nghênh và ủng hộ của nhân dân toàn thế giới.
Theo Tạp chí Hòa bình và Phát triển, Trung Quốc, số 6, 2012
Quốc Trung (gt)
Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông là chuỗi hội thảo thường niên do Học viện Ngoại giao (DAV) tổ chức, với mục tiêu thúc đẩy đối thoại chuyên sâu, cởi mở và thẳng thắn về những diễn biến đa chiều liên quan đến Biển Đông.
Ngày 1 tháng 7 năm 2022, Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao đã tổ chức kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Viện. Ngày 12 tháng 7 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định thành lập Viện Biển Đông, trực thuộc Học viện Ngoại giao, là đơn vị chuyên nghiên cứu về các vấn đề bảo vệ biển, đảo,...
Nhằm đẩy mạnh phong trào nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề liên quan đến Biển Đông cũng như tình hình khu vực và thế giới trong sinh viên đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng, Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông ban hành Quy định về Chương trình Học bổng Thắp sáng Đam mê Nghiên cứu Biển Đông.
Bất kể lo ngại về cam kết của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nước Mỹ dưới Chính quyền Joe Biden thực sự đã “quay lại”.
Chỉ trong vòng 1 tuần từ ngày 28/7 đến ngày 4/8, Cục Hải sự tỉnh Hải Nam và tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) liên tục ra 10 thông báo về các cuộc tập trận quân sự trên biển. Đáng chú ý nhất trong số đó là cuộc tập trận phạm vi lớn nhất trên Biển Đông kéo dài từ ngày 6-10/8. Các chuyên gia của Trung Quốc...