27/07/2011
Trung Quốc chính thức xác nhận hồi tháng Sáu, họ đang hoàn thiện tàu sân bay đầu tiên. Tin này đã gây ra các phản ứng khác nhau trên thế giới. Nghiên cứu Biển Đông xin giới thiệu đánh giá của Reuters trong bài “China's maritime rise drives new wider naval focus” của nhà phân tích rủi ro chính trị Peter Apps:
Với tàu sân bay mới, Trung Quốc đang mở rộng tầm với trên thế giới. Và trong khi Bắc Kinh nhấn mạnh mong muốn hợp tác hòa bình, vai trò toàn cầu lớn hơn của họ đang khiến một số nơi trên thế giới tái chú ý vào lĩnh vực hải quân. Sau nhiều thế kỷ không có tham vọng lớn trên biển, giờ đây Trung Quốc đang có lực lượng chống cướp biển túc trực thường xuyên ở Ấn Độ Dương. Đầu năm nay, một tàu chiến Trung Quốc đã tới Địa Trung Hải để sơ tán công dân của họ khỏi Libi, địa điểm xa nhất mà lực lượng hải quân của họ từng tới. Trung Quốc cũng đang xây các cảng thương mại ở Pakixtan, Xri Lanca và các nơi khác. Bắc Kinh nói họ không có ý định biến các hải cảng này thành căn cứ quân sự, song những đối thủ của họ như Oasinhtơn và Niu Đêli vẫn lo lắng.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn nhấn mạnh rằng ưu tiên của họ là trỗi dậy và hợp tác hòa bình để giữ giao thông đường biển an toàn cho dù họ có tham vọng và nhu cầu hàng hải. Phó Đô đốc Điền Trung, Tư lệnh Hải quân Nhân dân Trung Quốc nói tại Viện Royal United Services Institute, Luân Đôn: “Trước những đe dọa hàng hải ngày càng nhiều và trước các thách thức toàn cầu, không một lực lượng hải quân nào có thể một mình đối diện với những mối đe dọa và thử thách này, và họ cũng không thể khoanh tay đứng nhìn. Chỉ khi cùng cảnh giác, tăng cường hợp tác và có những cố gắng chung, chúng ta mới có thể đảm bảo lợi ích chung”.
Nhưng một số chuyên gia cho rằng sẽ có những nguy cơ ở nhiều điểm nóng tiềm tàng trên vùng biển gần Trung Quốc, bao gồm cả Đài Loan và tranh chấp lãnh hải với Việt
Hải quân trong vùng đã có phản ứng khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc có được các vũ khí tối tân từ tàu ngầm tới tên lửa đạn đạo chống tàu sân bay và cả tàu sân bay cũ mà họ mua lại của Ucraina hồi cuối thập niên 1990, với mục đích được công bố ban đầu là để làm sòng bạc nổi. Các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương tăng cường các hạm đội của họ và mối lo Trung Quốc cũng làm cho các quốc gia phương Tây, trong đó có Mỹ, tập trung vào những lĩnh vực như chống tàu ngầm, điều ít ai để ý tới từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.
Các nhà phân tích nói rằng hải quân Trung Quốc còn phải mất nhiều năm mới có thể có sự hiện diện đáng kể về tàu sân bay ở các đại dương châu Á, vốn vẫn là vùng hoạt động của hải quân Mỹ kể từ Thế Chiến II. Tuy nhiên, giới phân tích nhận định tổng số tàu chiến trên thế giới sẽ giảm xuống trong những năm tới đây. Kỹ thuật phức tạp và liên tục thay đổi khiến giá thành tàu chiến ngày càng cao và các nước đành phải sử dụng ít tàu hơn nhưng là các tàu đa năng. Hiện Hải quân Mỹ vẫn là lực lượng áp đảo trên thế giới nhưng họ phải đối phó với các đòi hỏi như cuộc khủng hoảng ở Libi và cướp biển cũng như đòi hỏi phải có sự hiện diện trên biển để đáp ứng nhu cầu triển khai nhanh lực lượng trên bộ. Tất cả các nhu cầu này hiện hữu khi Oasinhtơn đang chịu sức ép tài chính ngày càng tăng.
Ưu tiên
Ông Nikolas Gvosdev, giáo sư nghiên cứu an ninh quốc gia tại Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ ở bang
Dĩ nhiên, sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải là lý do duy nhất khiến phương Tây thay đổi chiến lược hải quân. Chính một số yếu tố khiến Hải quân Trung Quốc vươn xa hơn cũng đang làm thay đổi trọng tâm hải quân của các nước châu Âu đang gặp khó khăn tài chính. Một số nước nhìn thấy nhu cầu cần có lực lượng hải quân linh hoạt hơn sau một thập niên tập trung vào cuộc chiến trên bộ ở Irắc và Áphanixtan. Họ cần tàu hải quân mới cho những sứ mệnh khác nhau. Hiểm họa cướp biển Xômali ngày càng tăng đã khiến nhiều nước chú ý tới sự mong manh của giao thông đường biển toàn cầu vào lúc mà giá cả và chi phí hải quân ngày càng tăng.
Trong khi đó những sự kiện như “Mùa xuân Arập” hay Libi đòi hỏi phải có tàu phản ứng nhanh vừa để di tản người, vừa để đảm bảo lệnh cấm vận và vừa có thể tấn công các lực lượng của ông Muammar Gaddafi. Phó Đô đốc Giuseppe de Giorgi, thanh tra các trường hải quân của Italia và cựu Tham mưu trưởng của Tư lệnh Hải quân Italia nói với Reuters tại hội nghị về sức mạnh hàng hải ở Luân Đôn mới đây: “Đó là các thực tế trước mắt. Hiện Ápganixtan sẽ vẫn tiêu tốn nhiều nguồn lực nhưng đây không phải là chuyện cứ mãi như vậy. Sau Ápganixtan, người ta sẽ phải thay đổi ưu tiên”.
Cạnh tranh tư nhân
Vị Phó Đô đốc này nói điều quan trọng là cần có lực lượng hải quân linh hoạt và đầu tư cho hải quân cần đảm bảo mục tiêu tối thiểu hóa chi phí nhưng tối đa hóa công năng. Chẳng hạn tàu sân bay mới nhất của Italia cũng có thể dùng làm tàu chở binh lính, dụng cụ hay hàng cứu trợ. Họ cũng đào tạo cho các thủy thủ để bảo vệ hàng hóa trên tàu và coi đây là biện pháp tiết kiệm chi phí khi không phải hộ tống tàu hàng, phòng nguy cơ cướp biển. Nhưng không phải ai cũng tin rằng hải quân là giải pháp tiết kiệm chi phí nhất để giải quyết các vấn đề như vậy vào lúc có khó khăn tài chính.
Ngay cả đội tàu đang phát triển của Bắc Kinh cũng gặp phải sự cạnh tranh của các công ty tư nhân hoạt động tại vùng hoạt động của hải quân Trung Quốc. Tại Ấn Độ Dương, các công ty vận tải đường thủy ngày càng quay sang sử dụng các nhân viên bảo vệ tư nhân vì sự hiện diện của tàu chiến chỉ đẩy nạn cướp biển từ các vùng gần bờ ra những vùng biển nước sâu.
Và trong khi Bắc Kinh muốn tập trung sự chú ý vào việc cử hạm đội tới Libi, trên thực tế phần lớn trong số hàng nghìn nhân viên Trung Quốc làm việc trong lĩnh vực dầu khí ở Libi di tản bằng máy bay thương mại mà Trung Quốc thuê của hãng Control Risks có trụ sở ở Luân Đôn. Nhiều người nói rằng chuyện các công ty vận tải đường thủy chuyển sang đăng ký ở những nước như
Còn các sĩ quan hải quân phương Tây lại lo ngại nếu họ chỉ sản xuất một số lượng nhỏ tàu tối tân với chi phí lớn thì họ sẽ khó lòng có thể đối phó được với Trung Quốc hay các hiểm họa khác trong tương lai. “Nếu chúng ta muốn thấy kẻ thù tiềm năng lớn nhất, chúng ta chỉ cần nhìn vào gương sẽ thấy”, một sĩ quan không muốn nêu tên nói./.
Theo Reuters
Thành
Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông là chuỗi hội thảo thường niên do Học viện Ngoại giao (DAV) tổ chức, với mục tiêu thúc đẩy đối thoại chuyên sâu, cởi mở và thẳng thắn về những diễn biến đa chiều liên quan đến Biển Đông.
Ngày 1 tháng 7 năm 2022, Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao đã tổ chức kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Viện. Ngày 12 tháng 7 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định thành lập Viện Biển Đông, trực thuộc Học viện Ngoại giao, là đơn vị chuyên nghiên cứu về các vấn đề bảo vệ biển, đảo,...
Nhằm đẩy mạnh phong trào nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề liên quan đến Biển Đông cũng như tình hình khu vực và thế giới trong sinh viên đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng, Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông ban hành Quy định về Chương trình Học bổng Thắp sáng Đam mê Nghiên cứu Biển Đông.
Bất kể lo ngại về cam kết của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nước Mỹ dưới Chính quyền Joe Biden thực sự đã “quay lại”.
Chỉ trong vòng 1 tuần từ ngày 28/7 đến ngày 4/8, Cục Hải sự tỉnh Hải Nam và tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) liên tục ra 10 thông báo về các cuộc tập trận quân sự trên biển. Đáng chú ý nhất trong số đó là cuộc tập trận phạm vi lớn nhất trên Biển Đông kéo dài từ ngày 6-10/8. Các chuyên gia của Trung Quốc...