Vai trò an ninh của Mỹ tại Biển Đông

Ủy ban Đối ngoại Hạ viện,Tiểu ban Châu Á Thái Bình Dương

23/7/2015

Phát biểu của TS. Patrick M. Cronin, Nghiên cứu viên cao cấp và Giám đốc, Chương trình An ninh Châu Á - Thái Bình Dương, Trung Tâm An ninh Mỹ mới (CNAS)

Thưa ngài Chủ tịch Salmon, thành viên cao cấp Sherman và các thành viên khác của Tiểu ban Châu Á - Thái Bình Dương, tôi rất vinh dự khi có được cơ hội này để trình bày về vai trò an ninh của Mỹ ở Biển Đông.

Trong những năm vừa qua, chúng ta đã bước vào giai đoạn cạnh tranh gay gắt tại Biển Đông. Căng thẳng trên biển ở Châu Á đang ngày càng gia tăng và sẽ tiếp tục tồn tại, tuy nhiên quan hệ giữa các nước vẫn sẽ được duy trì dưới mức xung đột quân sự. Tất cả các bên đều mong muốn chiếm ưu thế và giảm thiểu vị thế bất lợi. Tuy chúng ta vẫn có thể dự đoán được các động thái chiến thuật trước và sau các cuộc họp thượng đỉnh, các đối thoại chiến lược, các diễn đàn khu vực, nhưng chúng ta cũng không nên hy vọng rằng các căng thẳng sẽ hoàn toàn lắng dịu.

Dù đã có những kêu gọi thỏa thuận và điều chỉnh chiến lược, tôi tin rằng trong nhiệm kỳ tiếp theo của chính quyền Mỹ chúng ta vẫn sẽ ở trong tình trạng lập lờ giữa chiến tranh và hòa bình. Và mặc dù sự bất ổn này không hề dễ chịu, nhưng việc đạt được một cơ sở vững chắc hơn trong quan hệ với Trung Quốc là hết sức khó khăn, nếu không muốn nói là không thể. Điều này là do sự cạnh tranh chủ yếu bắt nguồn từ sức mạnh trỗi dậy của Trung Quốc và mong muốn mở rộng ảnh hưởng của nước này đối với các nước láng giềng và các vùng biển xung quanh, tiến tới đảm bảo vị trí là một cường quốc toàn cầu, nếu không muốn nói là cường quốc toàn cầu duy nhất trong thế kỷ 21.

Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương sẽ mang đến những cơ hội cũng như những thách thức lớn nhất cho chính sách đối ngoại Mỹ trong những thập kỷ sắp tới. Khi xem xét những việc chúng ta cần làm liên quan đến tranh chấp lãnh thổ trên biển ở Biển Đông, Mỹ cần đặt tất cả các hoạt động đối ngoại trong một khuôn khổ toàn diện, với mục tiêu là mang đến tương lai ổn định, thịnh vượng và tự do.

Tôi không định đưa ra một chiến lược khu vực bao hàm các lợi ích quốc gia quan trọng và mục tiêu rõ ràng, mà chỉ nêu nhận xét ngắn gọn về lý do buộc Mỹ phải có chính sách tái định hình dài hạn sức mạnh toàn diện với khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Động lực đằng sau sự tái cân bằng từng bước của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương bắt nguồn từ các xu hướng lâu dài. Lần đầu tiên kể từ thế kỷ thứ 18, Châu Á trở thành tâm điểm của nền kinh tế toàn cầu và chính trị thế giới. Theo Hội đồng Tình báo Quốc gia, đến năm 2030, Châu Á được dự đoán sẽ vượt Bắc Mỹ và Châu Âu về sức mạnh toàn cầu được tính theo GDP, dân số, chi tiêu quốc phòng và đầu tư cho công nghệ. Trung Quốc là đầu tàu lớn nhất, nhưng phân tích tổng thể hơn thì hầu hết khu vực Châu Á đã tăng tưởng, đang tăng trưởng và sẽ tiếp tục tăng trưởng.

Vấn đề Biển Đông không chỉ là vấn đề về các đảo đá, bãi ngầm và nguồn tài nguyên. Mặc dù một số người so sánh Trung Quốc và Biển Đông với Mỹ và Caribê, nhưng sự so sánh này nhanh chóng mất tính thuyết phục do sự khác biệt hoàn toàn giữa hai vùng biển và sự thay đổi của nền kinh tế toàn cầu. Không giống Caribê vào giữa thế kỷ 19, Biển Đông đóng vai trò cầu nối của kinh tế thế giới. Tất cả các cường quốc biển đều phụ thuộc vào vùng biển này do đây là nơi một nửa tàu thuyền thương mại thế giới đi qua tính theo trọng tải hàng hóa (trị giá hơn 5,3 nghìn tỷ USD). Hơn nữa, các quốc gia Đông Nam Á chiếm đến gần 2/3 tỷ dân số và GDP đạt tới 4 nghìn tỷ USD tính theo sức mua tương đương (PPP); và các nền kinh tế này có nhiều triển vọng phát triển trong các thập kỷ tiếp theo. Cuối cùng, chúng ta đang sống trong, hay ít nhất nên đấu tranh để sống trong một thế giới quản trị bằng luật pháp, không phải bằng vùng ảnh hưởng, như thế giới của thế kỷ 19. Do đó, luật và trật tự sẽ là trọng tâm của lợi ích Mỹ ở Châu Á và Biển Đông.

Các đồng nghiệp của tôi và Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS) bắt đầu theo dõi chiều hướng hành xử cứng rắn của Trung Quốc gần đây kể từ năm 2009. Kể từ thời điểm đó, Trung Quốc đã chuyển từ cách tiếp cận giấu mình chờ thời sang tích cực, chủ động hơn trên Biển Đông và các khu vực khác. Mặc dù Trung Quốc đã có chút minh bạch hơn ở một số lĩnh vực, nhưng trong những lĩnh vực quan trọng Trung Quốc vẫn rất mập mờ. Như với yêu sách đường chín đoạn có tính bành trướng, Trung Quốc đơn giản là không muốn làm rõ nội hàm của yêu sách này.

Việc bành trướng có tính cơ hội chủ nghĩa của Trung Quốc ở Biển Đông được hỗ trợ bởi hàng loạt các hành động quân sự và phi quân sự đáng kể, với mục tiêu đạt được quyền kiểm soát lớn hơn đối với các nước láng giềng. Trung Quốc đang củng cố vị trí chiến lược thông qua chiến thuật cắt lát salami tiệm tiến của mình - chiến thuật này tạo ra những thay đổi lớn đối với nguyên trạng trong khi vẫn tránh được leo thang tình hình. Dự án xây dựng đảo thần tốc không chỉ nhằm thay đổi các dữ kiện thực tế trên thực địa trước khi các thủ tục pháp lý quốc tế diễn ra, mà còn nhằm giành được ưu thế ở khu vực và đe dọa các phải nghiêng về phía Trung Quốc. Nhất quán với thuyết tam chủng chiến pháp không động binh (non - kinetic) (bao gồm mặt trận thông tin, pháp lý và tâm lý), chính sách này của Trung Quốc là sự kết hợp giữa các yếu tố sức mạnh và tâm lý.

Trung Quốc tiếp tục ấn định tốc độ chi tiêu quốc phòng của khu vực với việc gia tăng liên tục gần hai con số, đến nay đã vượt quá tốc độ tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc. Ví dụ, việc đầu tư vào tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo của Trung Quốc đang làm suy yếu ưu thế trước đây của hệ thống tấn công chính xác của Mỹ. Kết quả là, khả năng và sự sẵn sàng của Mỹ trong việc sử dụng sức mạnh tác chiến để bảo vệ các đồng minh và đối tác bị đặt nhiều nghi vấn trừ khi Mỹ có thể tìm ra được cách đáp trả hiệu quả. Trung Quốc cũng đang tích cực xây dựng nhiều khía cạnh sức mạnh hiệu quả hơn về mặt chi phí, cả về quân sự và phi quân sự, để ngăn cản các nước và cuối cùng là kiểm soát hoàn toàn vùng biển và vùng trời, cũng như không gian vũ trụ, trong và xung quanh Biển Đông, Biển Hoa Đông và eo biển Đài Loan.

Vì thế, chúng ta cũng cần nâng cao cấp độ các hoạt động của chúng ta để đối phó với các bất ổn tiềm tàng của khu vực. Điều quan trọng là trật tự tương lai cần được xây dựng dựa trên các nguyên tắc công bằng và rộng mở tương tự như những nguyên tắc đã làm nên sự thịnh vượng và ổn định đáng nể cho Châu Á và Trung Quốc. Theo đánh giá của tôi, Mỹ, cùng với các đồng minh và đối tác có thể tiếp tục hiện thực hóa tầm nhìn về một trật tự dựa theo luật, ổn định và rộng mở. Cho phép tôi liệt kê 10 thành tố thiết yếu của chính sách đối ngoại Mỹ nhằm xử lý vấn đề Biển Đông. Những thành tố này nhằm thúc đẩy hợp tác dựa trên sự rõ ràng về mục đích, sự công bằng, và sức mạnh nhiều mặt.

1)        Thứ nhất, Mỹ nên thường xuyên nhấn mạnh đến các nguyên tắc lâu dài cho Biển Đông. Ví dụ như quyền tiếp cận không bị ngăn trở đối với các tài sản chung toàn cầu, Mỹ cần phấn đấu củng cố luật lệ và ủng hộ nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp. Các quan chức của chúng ta sẽ kiên trì nêu rõ tầm nhìn tích cực của Mỹ về một trật tự dựa trên luật và có tính bao hàm. Luật tập quán quốc tế và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển cần phải được hoàn toàn tuân thủ, bao gồm quyền tự do hàng hải trong vùng đặc quyền kinh tế và quyền qua lại vô hại trong vùng lãnh hải. Hơn nữa, không được sử dụng vũ lực hay cưỡng ép để giải quyết tranh chấp, như đã từng xảy ra ở Hoàng Sa, Trường Sa và Bãi Scarborough. Mặc dù Mỹ sẽ vẫn giữ thái độ trung lập trong các tranh chấp chủ quyền, Mỹ có trách nhiệm đảm bảo rằng tranh chấp được giải quyết hay quản lý mà không sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hay ép buộc. Một cách lý tưởng nhất, các nguyên tắc xuất phát từ luật quốc tế hay giải quyết hòa bình tranh chấp cần được gắn với một chiến lược khu vực toàn diện và nhất quán.

2)        Thứ hai, Mỹ cần tái đầu tư vào sức mạnh kinh tế dài hạn, điều có thể đạt được chủ yếu bằng việc đẩy mạnh các mối quan hệ thương mại và phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dương. Hoàn tất đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) có thể chứng minh Mỹ có khả năng hoàn tất các hiệp định tự do thương mại phức tạp và tạo dựng các cấu trúc khu vực. Chúng ta cần chuẩn bị để đưa nhiều nền kinh tế hơn, từ Philippines đến Hàn Quốc, vào TPP, hiệp định thương mại đa phương quan trọng đầu tiên chú trọng vào các nền kinh tế mới dựa trên công nghệ thông tin và dịch vụ. Mỹ có thể sử dụng TPP để giành được lợi thế quan trọng với các nước BRICS trong việc xây dựng các luật lệ thương mại trong tương lai.

         Chúng ta cũng cần nhiều năng lượng, sự sáng tạo, và nguồn lực hơn để hình thành một sáng kiến phát triển đa phương nghiêm túc của riêng chúng ta. Chúng ta có thể chờ xem Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á của Trung Quốc (AIIB) và sáng kiến “Một vành đai, một con đường” bổ trợ như thế nào cho các thể chế của hệ thống Bretton Woods hiện hành và các sáng kiến phát triển khác. Tuy nhiên, chúng ta có thể làm tốt hơn trong lĩnh vực hợp tác phát triển, so với một kế hoạch vá víu như Sáng kiến Hạ nguồn Mê Công. Quốc hội nên đề nghị chính quyền hiện nay và trong tương lai một chiến lược phát triển bao gồm các đề xuất sáng kiến mới. Tôi đã hình dung trong đầu một mối quan hệ đối tác công - tư quốc tế quan trọng hỗ trợ cho sự phát triển con người ở Châu Á. Thay vì cố gắng đuổi theo sự đầu tư của Trung Quốc về cơ sở hạ tầng vật chất, tôi cho rằng Mỹ nên tập trung vào một nền kinh tế tri thức mới, nguồn nhân lực và giáo dục, khoa học, kỹ thuật và năng lượng - những lĩnh vực mà Mỹ có lợi thế so sánh.

3)        Thứ ba, Mỹ cần làm sâu sắc quan hệ và tăng cường sự ủng hộ ngoại giao lẫn thực chất cho ASEAN. Vai trò trung tâm của ASEAN đã luôn là nguyên lý then chốt trong cách tiếp cận của Mỹ đối với kiến trúc đa phương khu vực. Nhưng Mỹ nên làm nhiều hơn nữa để thúc đẩy sự đoàn kết ASEAN và các thể chế do ASEAN làm trung tâm ở ít nhất bốn cấp độ: với toàn thể ASEAN, với các nước ASEAN yêu sách, với từng nước thành viên ASEAN và với các đồng minh và đối tác biển trong và bên ngoài ASEAN (bao gồm Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc). Ở cấp độ ban đầu, Mỹ nên tiếp tục tìm cách duy trì đồng thuận ASEAN đối với các chuẩn mực liên quan đến luật pháp và giải quyết hòa bình tranh chấp. Các đối tác chính như Singapore và Indonesia có thể khá quan trọng và cả Thái Lan, đồng minh lâu năm của chúng ta, nước đang là điều phối quan hệ ASEAN - Trung Quốc.

4)        Cố gắng để đạt được đoàn kết ASEAN đối với một số nguyên tắc cơ bản là việc làm hữu ích, nhưng Mỹ có thể tìm kiếm hoạt động ngoại giao hiệu quả hơn bằng cách thúc đẩy đồng thuận mạnh mẽ hơn giữa các nước yêu sách. Do đó, kiến nghị thứ tư là, Mỹ có thể giúp các nước ASEAN yêu sách (không chỉ Philippines và Việt Nam, mà cả Malaysia và Brunei) đi đến một hiểu biết chung và hợp tác để cùng đạt một mục tiêu chung công bằng đối với tất cả các nước. Các nước này có thể giảm thiểu khác biệt, đặt ra kỳ vọng chung về cách ứng xử, và thúc đẩy các tiếp cận mang tính hợp tác đối với an ninh và ngoại giao. Điều này không nhất thiết phải bao gồm việc giải quyết tất cả các tranh chấp chủ quyền và quyền tài phán - điều không thể khả thi trong bất kỳ trường hợp nào nếu không có sự tham gia của Trung Quốc. Nhưng việc hợp tác đạt được hiểu biết chung phản ánh một cách đáng tin cậy các nguyên tắc gắn liền với luật và việc giải quyết hòa bình tranh chấp. Trung Quốc đã cố gắng ngăn chặn việc hình thành đồng thuận khu vực bằng cách làm giảm tốc độ của các tiến trình như đàm phán COC giữa Trung Quốc và ASEAN. Một sự đồng thuận khả thi giữa các nước ASEAN yêu sách có thể phá vỡ sự kiềm tỏa này của Trung Quốc. Đồng thời, Mỹ nên giúp các nước yêu sách ASEAN cùng làm việc hướng về mục tiêu chung trên bằng cách hỗ trợ trong các lĩnh vực như ngoại giao, điều phối, chuyên gia pháp lý và như tôi sẽ nhấn mạnh dưới đây, năng lực tác chiến.

5)        Khuyến nghị thứ năm là xây dựng một liên minh biển bao gồm những quốc gia có cùng ý chí để đảm bảo vấn đề Biển Đông luôn giữ vị trí hàng đầu trong ngoại giao khu vực. Mỹ nên tận dụng khả năng hội họp của ASEAN để thành lập một liên minh rộng lớn hơn bao gồm các cường quốc biển. Các thành viên chủ chốt sẽ bao gồm cả Nhật Bản, Úc, Ấn Độ, tất cả những nước hiểu rằng Biển Đông là một bộ phận thiết yếu của nền kinh tế toàn cầu, chứ không phải chỉ là ao làng của một nước lớn. Chúng ta nhấn mạnh đến luật lệ và những kỳ vọng, đồng thời dự tính thấu đáo về một phản ứng chung trước những động thái được xem là khiêu khích như việc có thể tuyên bố Vùng nhận dạng Phòng không (ADIZ) ở Biển Đông. Do đó, từ cuộc gặp các ngoại trưởng ở ARF đến các thể chế ngoại giao mở hơn như Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng, Mỹ nên kiên quyết đưa vấn đề Biển Đông thành ưu tiên cao nhất để làm nản lòng Trung Quốc trong việc hành động quyết đoán và phản tác dụng ở Biển Đông.

6)        Sáu là Mỹ duy trì sự hiện diện liên tục ở Biển Đông. Singapore đã cho phép sự hiện diện đều đặn song thầm lặng của Mỹ, gần đây nhất qua việc đón bốn tàu chiến duyên hải. Việc ta cần bổ sung thêm lực lượng và tăng cường các thỏa thuận cho phép tiếp cận, ví dụ như kéo dài thời hạn các tàu lưu trú theo chế độ luân phiên như đã dự trù ở Philippines và công bố Úc, có thể củng cố cam kết của chúng ta đối với ổn định và can dự khu vực. Hoàn thiện việc nâng cấp lực lượng ở Guam và Marianas, dù các cơ sở này nằm ngoài Biển Đông, có thể mang lại cơ hội lớn cho việc tập trận và huấn luyện biển, trên không và lực lượng tuần duyên trong toàn khu vực. Tôi tin rằng những bước đi này nhất quán với định hướng chiến lược quân sự trong chính sách tái cân bằng của Mỹ.

7)        Thứ bảy, Mỹ nên ủng hộ một cơ chế minh bạch đối với các vùng chồng lấn trong khu vực, có thể phục vụ nhiều mục tiêu. Một cơ chế minh bạch không chỉ bao gồm cơ sở vật chất cho việc thu thập thông tin mà còn có các thể chế để xử lý thông tin và các kênh chính trị để chia sẻ thông tin, cả trong nội bộ và giữa các chính phủ. Ở tầm bao quát nhất, bằng việc ủng hộ sự minh bạch hơn nữa trong các diễn biến ở Biển Đông, chúng ta có thể giúp khu vực trang bị cho chính mình các dữ kiện để đối phó với mọi tình huống từ tìm kiếm cứu nạn hay hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai, cho đến việc củng cố các đảo nhân tạo hay triển khai các tàu mang tính chất gây hấn. Tận dụng quan hệ của chúng ta với các nước đồng minh như Philippines hay các quốc gia khác có cùng mong muốn, Mỹ có thể dựa vào cơ chế chia sẻ thông tin chung này để xây dựng một bức tranh hoạt động chung có độ chính xác cao đối với các kế hoạch tác chiến liên quan đến cảnh báo sớm và phản ứng với các tình huống khẩn cấp. Năng lực kỹ thuật để xây dựng một cơ chế như vậy vốn đã tồn tại, nhưng vẫn cần đến sự lãnh đạo của Mỹ để xây dựng khuôn khổ chính trị hỗ trợ cho kế hoạch này. Hãy hướng sự chú ý đến các hành động gây bất ổn, nhờ đó chúng ta có thể củng cố vai trò của ngoại giao tại các cuộc họp cấp cao khu vực và toàn cầu.

         Khu vực Biển Đông là một khu vực cần nhiều hơn nữa những đoàn quốc hội đi tìm hiểu tình hình thực tế. Các chuyến thăm đến khu vực nên bao gồm cả Trung Quốc, nơi mà việc lắng nghe những quan điểm khác nhau có thể giúp ích trong việc mở ra các cuộc thảo luận sâu rộng và dần dần xây dựng nên hiểu biết chung.

8)        Thứ tám, bên cạnh việc xây dựng nhận thức về lĩnh vực biển, chúng ta cũng nên xây dựng năng lực phòng thủ và răn đe ở cả cấp quốc gia và đa quốc gia để hỗ trợ sự tiếp cận tự do ở Biển Đông. Liên minh biển rộng lớn hơn được đề cập kể trên có thể tiến hành tuần tra trên biển và trên không định kỳ, thậm chí hàng quý để xem xét lại các diễn biến đồng thời tạo ra khả năng đối phó với mọi thách thức từ an ninh phi truyền thống đến an ninh truyền thống. Mục đích của việc này là phòng vệ, cung cấp cho các nước nhỏ hơn sự đảm bảo an ninh và hi vọng có thể ngăn cản các hành động đơn phương hung hăng hoặc các hành động sử dụng vũ lực để thay đổi nguyên trạng.

9)        Thứ chín, Mỹ nên tìm cách làm rõ các loại hành động có thể phản đối và những hành động mà Mỹ nên hợp tác với các bên khác để áp đặt cái giá phải trả. Soi lại các nguyên tắc cơ bản và mong muốn tăng cường sự hiện diện và can dự của Mỹ tại khu vực, Mỹ nên nêu rõ quan điểm phản đối và sẽ tiếp tục phản đối một số loại hành động nhất định trên toàn bộ Biển Đông. Các chi tiết chính xác về những hành động này cần được nghiên cứu kỹ lưỡng bởi một nhóm các chuyên gia chính phủ về luật biển quốc tế. Nhưng để mô tả lập luận này, tôi kiến nghị một số dạng hành động mà Mỹ nên cân nhắc phản đối như sau: (a) phong tỏa, bao vây bất kỳ thực thể nào hiện đang chiếm đóng bởi một bên khác, ví dụ như Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) do Philippines chiếm đóng; (b) chiếm giữ hoặc xâm phạm bất kỳ thực thể đang được chiếm đóng bởi các bên khác, như việc Trung Quốc chiếm nửa phía Tây của quần đảo Hoàng Sa từ Miền Nam Việt Nam năm 1974 và Đá Gạc Ma năm 1988; (c) xâm lấn vùng lãnh hải bất kỳ đảo nào do các bên khác chiếm giữ; (d) chiếm bất kỳ thực thể chưa bị chiếm đóng bằng cách ngăn chặn sự tiếp cận của các bên yêu sách khác, như trường hợp Trung Quốc gần đây cấm Philippines tiếp cận Bãi cạn Scarborough; (e) xây dựng các đảo nhân tạo và mở rộng các đảo tự nhiên hoặc nhân tạo; (f) đưa ra các tuyên bố chủ quyền với các thực thể không phải là đảo ví dụ như các thực thể không nổi trên mặt nước khi mức thủy triều cao, hoặc tuyên bố chủ quyền với các thực thể nổi khi thủy triều thấp nhưng lại nằm ngoài vùng lãnh hải 12 hải lý của một đảo nổi, như trường hợp Đá Vành Khăn, Đá Subi; (g) yêu sách đường cơ sở không phù hợp với các quy định của UNCLOS; (h) yêu sách lãnh hải hoặc vùng đặc quyền kinh tế dựa vào đường cơ sở không phù hợp với các quy định của UNCLOS, ví dụ các đường cơ sở dựa vào các điểm nổi khi thủy triều thấp hoặc vào các đảo nhân tạo nằm ngoài phạm vi 12 hải lý tính từ các đảo; (i) yêu sách chủ quyền đối với một vùng biển quá rộng lớn, không phù hợp với luật quốc tế về phân định biển như trường hợp Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với vùng biển bên trong đường 9 đoạn; (j) yêu sách các vùng biển mà gắn với đất liền hoặc các đảo, như trường hợp Trung Quốc dùng quyền lịch sử để yêu sách vùng biển trong đường 9 đoạn; (k) thiết lập vùng cảnh báo quân sự sai trái như trong trường hợp Trung Quốc triển khai giàn khoan nước sâu HD981 hoặc trong trường hợp máy bay do thám của Hải quân Mỹ P-8 Poseidon; và (l) thiết lập các vùng nhận diện phòng không (ADIZ) bao trùm các thực thể tranh chấp và các vùng biển xung quanh.

10)         Thứ mười, chúng ta nên lập một danh sách các lựa chọn chính sách “buộc trả giá” vượt ngoài giới hạn của cái giá về mặt uy tín và pháp lý để làm rõ rằng các hành động xấu sẽ phải trả giá. Quốc hội nên yêu cầu liên tục xây dựng một danh sách về các lựa chọn chính sách trong phần phụ lục của các chiến lược khu vực mang tính liên ngành trong tương lai. Tiến hành tuần tra liên quốc gia trên biển và trên không tương tự như các chuyến bay của máy bay do thám Mỹ P-8 sẽ đưa ra quan điểm rõ ràng về những hoạt động được UNCLOS cho phép. Tương tự, nếu một nước muốn xây dựng đảo nhân tạo cho mục đích quân sự trong vùng biển tranh chấp và sau đó lại đề xuất rằng đảo nhân tạo này có thể sử dụng cho các mục đích dân sự như hỗ trợ nhân đạo; vậy thì trong trường hợp có thiên tai ở khu vực, chúng ta có thể kiểm chứng đề nghị trên bằng việc đáp máy bay dân sự xuống một trong những đường băng mới nhất. Nếu Trung Quốc cố gắng ngăn chặn tiếp tế cho tàu hải quân Philippines BRP Sierra Madre mắc cạn tại Bãi Cỏ Mây, thì Mỹ có thể không chỉ đề nghị tiếp tế mà còn có thể cân nhắc điều động luân phiên một vài lính thủy đánh bộ tới khu vực này như là một phần đào tạo trong phân đội. Những động thái này và rất nhiều động thái khác là những điểm nhấn sức mạnh được vạch ra không phải để khơi mào xung đột mà để làm rõ hành vi nào chấp nhận được và không chấp nhận được, đồng thời củng cố các nhóm luật lệ mà khu vực nên và cần phải dựa vào đó để vận hành.

Tôi sẽ tóm tắt lại các lập luận của mình. Căng thẳng gia tăng ở Biển Đông đang có nguy cơ kìm hãm một trong những phát triển quan trọng nhất trong lịch sử hiện đại: sự trỗi dậy của Châu Á và trật tự do Mỹ xây dựng mà nhờ đó sự ổn định và thịnh vượng được duy trì. Sự trỗi dậy cứng rắn của Trung Quốc đang đe dọa ổn định khu vực. Quá trình hiện đại hóa quân đội nhanh chóng, việc sử dụng thường xuyên các biện pháp cưỡng chế có tính toán, và các chương trình xây dựng đảo nhân tạo kiêm căn cứ quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông đang trực tiếp làm suy yếu trật tự sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai và xói mòn uy tín của Mỹ. Việc Trung Quốc sử dụng tất cả mọi công cụ sức mạnh và chiến thuật cắt lát salami đã giúp Trung Quốc giành ưu thế trong cuộc cạnh tranh này. Trung Quốc đang dần làm mất thế cân bằng ở khu vực mà không phải trả bất kỳ cái giá lớn nào cho các hành động xấu của mình. Và Trung Quốc sẽ càng bạo dạn hơn trong việc tiến hành chính sách cơ hội và hiếu chiến để giành lấy ảnh hưởng ở khu vực. Nếu không có một đối trọng hiệu quả để buộc Trung Quốc thành thực hơn, bảo vệ quyền tự do hàng hải và quyền tiếp cận các tài sản toàn cầu cho tất cả các quốc gia và duy trì vai trò của tôn trọng luật pháp, Trung Quốc sẽ dần dần đạt được bá chủ trên toàn bộ Biển Đông. Bản điều trần này đã đưa ra một vài đề xuất chính sách toàn diện và thực tế mà Mỹ có thể hành động để bảo vệ các lợi ích của Mỹ cũng như của các nước đồng minh và đối tác trong các thập kỷ tới.

Dịch: Thuỳ Anh

Hiệu đính: Minh Ngọc