ChinaMakeWaves.jpg


Tóm tắt

Trong những năm qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tranh chấp Biển Đông, nhưng có rất ít tác phẩm nghiên cứu về yếu tố lịch sử của tranh chấp. Hầu hết các tác phẩm đều dựa vào một số ít các công trình nghiên cứu trong những năm 1970, 1980. Các tác phẩm này chỉ phản ánh kiến thức về vấn đề Biển Đông tại thời điểm đó. Hệ quả là bây giờ những tranh cãi về Biển Đông được đóng khung trong các thông số được thiết lập cách đây đã 40 năm. Tuy nhiên tìm hiểu một cách cẩn thận những tác phẩm đầu tiên này cho thấy đây là những nghiên cứu không dựa trên những nguồn tài liệu gốc cũng như không dựa trên bối cảnh lịch sử.

Giới thiệu

Công trình nghiên cứu đầu tiên bằng tiếng Anh về tranh chấp Biển Đông được ra đời sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chiếm đóng phía tây của Quần đảo Hoàng Sa năm 1974, và số lượng các công trình nghiên cứu cũng lên xuống cùng với diễn biến của tranh chấp. Đợt sóng mới nhất diễn ra sau khi Mỹ công bố chiến lược “xoay trục” tới Châu Á năm 2011. Kể từ đó, số lượng các công trình nghiên cứu, báo cáo của các viện nghiên cứu và các tác phẩm báo chí về Biển Đông đã gia tăng chóng mặt. Phần lớn trong số đó đề cập tới những diễn biến trong tranh chấp và chỉ điểm sơ qua về lịch sử của tranh chấp. Một số ít nghiên cứu thì đi sâu hơn một chút. Tuy nhiên, tất cả những tác phẩm này đều dựa vào bối cảnh lịch sử được đề cập trong số ít bài nghiên cứu và sách. Đáng lo ngại, tìm hiểu kĩ càng những nghiên cứu này cho thấy đây là những cơ sở không đáng tin cậy để dựa vào đó mà viết về lịch sử của Biển Đông.

Ai kiểm soát quá khứ sẽ điều khiển tương lai

Những bằng chứng không đáng tin cậy này đang phủ một lớp mây mù lên những cuộc tranh cãi về vấn đề Biển Đông. Nó làm sai lệch đi những đánh giá về tranh chấp ngay ở cấp cao của chính phủ - ở cả Đông Nam Á và Mỹ. Tôi sẽ sử dụng 3 ấn phẩm gần đây để chứng minh cho lập luận của mình: 2 bài “Bình luận” trong năm 2014 của Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, Singapore, được viết bởi học giả Trung Quốc Li Dexia và học giả Singapore Tan Keng Tat[1], một bài thuyết trình của cựu Phó Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc, ông Charles Freeman, tại Đại học Brown[2], và một công trình nghiên cứu trong năm 2014 của ông Pete Pedrozo thuộc Trung tâm Nghiên cứu Hải quân (Center for Naval Analyses – CNA) có trụ sở tại Mỹ.[3]

Điều đáng chú ý của những công trình nghiên cứu này – và chúng chỉ là số ít ví dụ của số lượng đồ sộ các công trình học thuật về Biển Đông – đó là chúng phụ thuộc vào các tài liệu lịch sử đã được xuất bản từ nhiều năm trước, gồm có: một số nhỏ các nghiên cứu được xuất bản trong những năm 70, đáng chú ý là một tác phẩm của Hungdad Chiu và Choon-Ho Park[4]; cuốn sách của Marwyn Samuels năm 1982 có tên Contest for the South China Sea (Giao tranh tại Biển Đông)[5]; cuốn sách của Greg Austin năm 1998 có tên China’s Ocean Frontier (Biên giới Đại dương của Trung Quốc)[6] và hai bài nghiên cứu của Jianming Shen được công bố năm 1997[7] và 2002[8].

Những tác phẩm này đã hình thành “nhận thức thông thường” về tranh chấp Biển Đông. Google Scholar tính toán rằng tác phẩm của Chiu và Park đã được trích dẫn trong 73 bài nghiên cứu khác, và con số dành cho cuốn sách của Samuels là 143. Những tác phẩm trích dẫn bài viết của các tác giả trên bao gồm một công trình của Brian Murphy năm 1994[9] và các công trình của  Jianming Shen trong các năm 1997 và 2002. Sau đó hai tác phẩm của Shen cũng được các tác giả khác trích dẫn, cụ thể là 34 trích dẫn cho tác phẩm năm 1997 và 35 trích dẫn cho tác phẩm 2002. Đặc biệt, tác giả Chi-kin Lo cũng trích dẫn các tác phẩm của Jianming Shen trong cuốn sách của mình được ấn bản năm 1989, cuốn sách này sau đó được trích dẫn trong 111 công trình của các tác giả khác.[10] Hầu hết các diễn giải lịch sử trong cuốn sách của Lo đều dựa vào tác phẩm của Samuels, cụ thể Lo đánh giá cao Samuels bởi đã “xử lý tỉ mỉ các dữ liệu lịch sử” (tr. 16). Đại tá (đã về hưu) Michael McDevitt, trong phần lời nói đầu mà ông viết lời giới thiệu cho Bài nghiên cứu của CNA, đã nói rằng cuốn sách Giao tranh tại Biển Đông “vẫn còn rất nhiều giá trị sau 40 năm”.

Đây là những nỗ lực đầu tiên nhằm giải thích lịch sử của tranh chấp đối với người đọc sử dụng tiếng Anh. Các tác phẩm này có cùng một số đặc điểm chung:

·         Chúng được viết bởi những chuyên gia về luật quốc tế hay khoa học chính trị chứ không phải bởi các nhà sử học hàng hải trong khu vực.

·         Chúng thường thiếu đi trích dẫn từ các nguồn tài liệu gốc.

·         Chúng có xu hướng dựa vào các nguồn từ truyền thông Trung Quốc mà trong đó không có trích dẫn tới các chứng cứ ban đầu hay các tác phẩm dựa trên những chứng cứ này.

·         Chúng có xu hướng trích dẫn các bài báo từ nhiều năm trước làm bằng chứng thực tế.

·         Chúng thường thiếu các thông tin về bối cảnh lịch sử

·         Chúng được viết bởi các tác giả có mối liên hệ rõ ràng tới Trung Quốc.

Những công trình ban đầu về tranh chấp Biển Đông

Các tác phẩm viết bằng tiếng Anh về tranh chấp Biển Đông xuất hiện ngay sau “Hải chiến Hoàng Sa” diễn ra vào tháng 1/1974, khi quân đội của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Trung Hoa đánh bật lực lượng của Việt Nam Cộng hoà (‘Nam Việt Nam’) khỏi phía tây của quần đảo này. Những phân tích đầu tiên là các tác phẩm báo chí, trong đó có một bài của Cheng Huan, một người Malayisa gốc Hoa, tại thời điểm đó là sinh viên luật tại London, và hiện giờ là một chuyên gia pháp lý có tiếng tại Hồng Kông. Đó là bài báo xuất hiện trên tờ Far Eastern Economic Review vào tháng ngay sau khi xảy ra vụ việc.[11] Trong bài báo đó, ông cho rằng “yêu sách lịch sử của Trung Quốc (đối với quần đảo Hoàng Sa) đã được ghi chép rõ ràng và đã có từ lâu đời kể từ thời cổ đại, và không một quốc gia nào có thể phản đối yêu sách này.” Nhận định của một sinh viên còn rất trẻ này đã được trích dẫn trong cuốn sách có tên ‘China’s Policy Towards Territorial Disputes’ của tác giả Chi-Kin Lo ấn bản năm 1989.[12] Phân tích đáng chú ý tiếp theo xuất hiện trong một bài báo của John F. Copper trên China Report số ấn bản tháng 5-6/1974.[13]

Những công trình học thuật đầu tiên được ra đời vào năm sau đó. Chúng bao gồm một bài nghiên cứu của Tao Cheng cho tờ Texas International Law Journal[14] và một bài phân tích khác của Hungdah Chiu và Choon-Ho Park cho tờ Ocean Development & International Law[15]. Năm 1976, Viện Nghiên cứu Châu Á tại Hamburg xuất bản tập chuyên khảo của một học giả Đức – Dieter Heinzig, có tên ‘Disputed islands in the South China Sea’ (Các quần đảo tranh chấp tại Biển Đông).[16] Đây là những bài viết có tính tiên phong nhưng nguồn tài liệu mà họ sử dụng – và do đó cả những phân tích của họ - không hề có tính trung lập.

Bài nghiên cứu của Cheng dựa chủ yếu vào các nguồn tài liệu của Trung Quốc cùng với thông tin từ truyền thông Mỹ. Những nguồn tài liệu chính của Trung Quốc, là các tạp chí thương mại, cụ thể là 2 ấn bản đáng chú ý của tờ Wai Jiao Ping Lun [Wai Chiao Ping Lun] (Foreign Affairs Review) có trụ sở tại Thượng Hải vào năm 1933 và 1934 và của tờ Xin Ya Xiya yue kan [Hsin-ya-hsi-ya yueh kan] (New Asia Monthly) vào năm 1935. Chúng được bổ sung với những thông tin từ tạp chí tin tức có tên Ming Pao Monthly có trụ sở tại Hồng Kông trong những năm 1973 và 1974. Một số báo khác được trích dẫn bao gồm Kuo Wen Chou Pao (National News Weekly), được xuất bản tại Thượng Hải trong thời gian từ 1924 tới 1937, Renmin Ribao [Jen Ming Jih Pao](People’s Daily) và tờ New York Times. Học giả Cheng không đề cập gì tới các nguồn tài liệu của Pháp, Việt Nam hay Philippines ngoại trừ một bài báo được ấn bản năm 1933 của tờ La Geographie mà đã được dịch và in lại trên tờ Wai Jiao Ping Lun.

Công trình của Hungdah Chiu và Choon-Ho Park cũng dựa vào những nguồn tương tự. Trong những đoạn viết đáng chú ý, các tác giả này đã trích dẫn dẫn chứng dựa trên những bài báo được xuất bản năm 1933 của tờ Wai Jiao Ping Lun[17] và tờ Wai Jiao Yue Bao [Wai-chiao yüeh-pao] (Diplomacy monthly),[18] và bài báo được xuất bản năm 1934 của tờ Fan-chih yüeh-k'an [Geography monthly][19] cũng như bài báo được xuất bản năm 1933 của tờ Kuo-wen Chou Pao [National news weekly] và bài báo của tờ báo thuộc sự quản lý của Chính phủ có tên Wai-chiao-pu kung-pao, [Gazette of the Ministry of Foreign Affairs].[20] Công trình của Chiu và Park bổ sung thông tin này với tài liệu được thu thập từ một ấn phẩm của tác giả Cheng Tzu-yüeh, được xuất bản tại Thượng Hải năm 1948, cuốn sách Các ghi chép chung về địa lý của các đảo phía Nam)[21] và các tuyên bố của chính phủ Đài Loan trong những năm 1956[22] và 1974[23].

Hai học giả Chiu và Park cũng sử dụng một vài nguồn tham khảo của Việt Nam, đáng chú ý là 8 thông cáo báo chí và bản tóm lược của Đại sứ quán Việt Nam Cộng hoà tại Washington. Họ cũng đề cập tới “một vài tài liệu chưa từng được công bố thuộc sở hữu của tác giả”. Tuy nhiên, phần lớn nguồn mà họ sử dụng vẫn tới từ truyền thông Trung Quốc.

Trong công trình ra đời một năm sau đó, Dieter Heinzig dựa vào các ấn bản của hai tờ báo có trụ sở tại Hồng Kông có tên Ch’i-shih nien-tai (Seventies Monthly) (số ra tháng 3/1974) và Ming Pao Monthly[24] (số ra tháng 5/1974).

Điều đáng chú ý là tất cả những công trình nghiên cứu có vai trò nền móng này đều sử dụng nguồn tham khảo chủ yếu từ các bài báo của truyền thông Trung Quốc được ấn bản tại thời điểm mà các tranh cãi về vấn đề Biển Đông đang trong giai đoạn bị chính trị hoá. 1933 là năm mà Pháp chính thức sáp nhập các thực thể tại Quần đảo Trường Sa – hành động đã gây ra sự phẫn nộ rộng khắp tại Trung Quốc, 1956 là năm mà một thương nhân Philippines, Tomas Cloma, tuyên bố hầu như toàn bộ Quần đảo Trường Sa thuộc về quốc gia độc lập riêng của ông có tên ‘Freedomland’ – động thái này đã khiến Đài Loan, Trung Quốc và Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối; và 1974 là năm xảy ra Hải chiến Hoàng Sa. Các bài báo được ấn bản trong 3 giai đoạn đó không thể được xem như là các nguồn phản ánh bằng chứng thực tế một cách trung lập và không thiên vị. Đúng hơn, chúng nên được xem như những bài viết ủng hộ một số quan điểm quốc gia cụ thể. Điều này không có ý cho rằng tất cả những bài viết này đều là không chính xác, nhưng chúng ta cần phải kiểm chứng chúng với nguồn tài liệu gốc. Đây là điều mà những tác giả này đã không làm.

Mô thức mà Cheng, Chiu và Park và Heinzig đưa ra sau đó được lặp lại trong cuốn sách Contest for South China Sea của Marwyn Samuels.[25] Bản thân tác giả Samuels cũng thừa nhận sự thiên vị dành cho Trung Quốc trong nguồn tư liệu được sử dụng cho cuốn sách. Trong phần giới thiệu, ông nói rằng “đây không phải là công trình nghiên cứu về lịch sử hàng hải của Việt Nam hay Philippines, hay về chính sách đại dương hay lợi ích ở Biển Đông. Đúng hơn, ngay cả khi những yêu sách trái ngược nhau được xem xét kĩ càng, mối quan tâm ở đây là tính chất thay đổi trong chính sách đại dương của Trung Quốc.” Cùng với những vấn đề đó, Samuels thừa nhận rằng các công trình nghiên cứu Châu Á của ông chủ yếu dựa vào kho lưu trữ của Đài Loan. Tuy nhiên, những hồ sơ quan trọng liên quan đến các động thái của Đài Loan tại Biển Đông trong những năm đầu thế kỷ 20 chỉ được giải mật hồi năm 2008/9, rất lâu sau khi tác phẩm của ông được xuất bản.[26]

Vào cuối những năm 1990, có thêm một đợt sóng bùng nổ các tác phẩm về lịch sử của tranh chấp Biển Đông. Năm 1996, Daniel Dzurek, cựu nhân viên Ban Địa lý của Bộ Ngoại giao Mỹ - người sau đó đã trở thành nhà tư vấn trong lĩnh vực dầu mỏ - đã viết một bài nghiên cứu cho Đơn vị Nghiên cứu Biên giới Quốc tế của Đại học Durham; và năm 1998, nhà phân tích người Úc Greg Austin cũng cho ra đời một cuốn sách về Biển Đông. Chương viết về lịch sử trong cuốn sách của Austin có đề cập tới cuốn sách của Samuels, công trình nghiên cứu của Chiu và Park, và một văn bản được Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra vào tháng 1/1980 có nhan đề ‘chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với Quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Hoàng Sa)’[27] và một bài báo của Lin Jinzhi trên tờ People’s Daily.[28] Tác phẩm của Dzurek cũng tương tự.

Đóng góp đáng kể tiếp theo là của Jianming Shen, một luật sư người Mỹ gốc Trung Quốc có tham gia cộng tác với Trường Đại học Luật St. John’s tại New York. Năm 1997, ông viết một bài báo đáng chú ý trên tờ Hastings International and Comparative Law Review. Giống như tờ Texas International Law Journal, tờ Review là một ấn bản do sinh viên biên tập. Có lẽ không cần phải nói rằng một ban biên tập gồm toàn chỉ những sinh viên luật sẽ không thể là cơ quan có năng lực tốt nhất để đánh giá các công trình nghiên cứu về lịch sử hàng hải tại Châu Á. Sau bài báo đó, Shen có thêm một bài báo trên một tạp chí có uy tín hơn, tờ Chinese Journal of International Law – mặc dù nhiều phần trong bài báo đó chỉ đơn giản là dẫn lại từ bài báo đầu tiên.

Hai bài báo của Shen đã có ảnh hưởng đặc biệt rộng rãi – ví dụ, công trình nghiên cứu năm 2014 của CNA đã trích dẫn ít nhất 170 lần. Tuy nhiên, qua kiểm chứng, nguồn của học giả Shen cũng mù mờ như nguồn của những học giả trước đó. Phần viết về lịch sử trong đó cung cấp bằng chứng cho công trình nghiên cứu năm 1997 của ông dựa chủ yếu vào 2 nguồn. Một là cuốn sách được biên tập bởi Duanmu Zheng có tên Guoji Fa (International Law) được xuất bản bởi Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh năm 1989 (được trích dẫn ít nhất 18 lần).[29] Nhưng Duanmu không phải là một nhà sử học trung lập. Năm 1990 ông trở thành thẩm phán có vị trí quan trọng số 2 ở Trung Quốc: Phó Chánh án Toá án Nhân dân Tối cao Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Trung Hoa – và sau đó là một trong những nhà soạn thảo Luật Cơ bản Hồng Kông.[30] Nói cách khác, ông đã từng là quan chức cấp cao của Trung Quốc. Tất cả các chú thích tới Guoiji Fa trong công trình của Shen đều trích dẫn tới trang 155 và 156 của cuốn sách. Hai trang này không hề trích dẫn các nguồn tài liệu gốc; đó chỉ là những ghi chép từ một câu chuyện chưa được chứng thực. Đáng chú ý là 18 năm sau công trình nghiên cứu của Shen, không tác giả nào kiểm chứng trích dẫn này cả - nhưng họ lại sử dụng bài nghiên cứu này mà không hề có một lưu ý nào về điều đó.

Nguồn sử liệu quan trọng khác của Shen đó là một bộ các giấy tờ từ Hội nghị chuyên đề về Các quần đảo tại Biển Đông được tổ chức vào năm 1992 bởi Viện Chiến lược Phát triển Biển, trực thuộc Cục Hải dương Nhà nước Trung Quốc (SOA) (được trích dẫn ít nhất 11 lần). Trớ trêu thay khi mà tư liệu của Cục Hải dương Nhà nước Trung Quốc và của một nhân vật trong ngành tư pháp Trung Quốc sau đó đã được sử dụng trong các công trình của Giáo sư Shen, và hiện giờ lại được Trung tâm Phân tích Hải quân (CNA) sử dụng, mà đây lại là một trong những cơ quan cung cấp thông tin về lịch sử Biển Đông cho Lầu Năm Góc.

Không ai trong số các tác giả kể trên là chuyên gia về lịch sử hàng hải tại Biển Đông. Thay vào đó, họ chỉ là nhà khoa học chính trị (Cheng), nhà địa lý (Samuels), luật sư (Chiu và Park và Shen) hay chuyên gia về quan hệ quốc tế (Heinzig và Austin). Thông thường, trong các tác phẩm của mình, họ không kiểm chứng mức độ chân thực trong các văn bản được họ trích dẫn, họ cũng không đề cập gì tới bối cảnh ra đời của những văn bản đó. Cụ thể, Cheng và Chiu và Park sử dụng cách phân loại không phù hợp với bối cảnh lịch sử - chẳng hạn như họ dùng từ “quốc gia” để mô tả mối quan hệ trước thời kỳ hiện đại giữa các thực thể chính trị tại Biển Đông – đây là giai đoạn mà quan hệ chính trị hoàn toàn khác biệt so với thời điểm hiện tại.

Cũng đáng chú ý là Cheng, Chiu và Shen đều là người gốc Trung Quốc. Cheng và Shen đều tốt nghiệp cử nhân luật tại Đại học Bắc Kinh. Chiu tốt nghiệp tại Đại học Quốc gia Đài Loan. Dĩ nhiên, điều này không đương nhiên dẫn tới kết luận rằng họ có sự thiên vị, nhưng chúng ta có lý do để cho rằng họ sẽ quen thuộc hơn với các văn bản cũng như quan điểm của Trung Quốc. Cả Samuels và Heinzig cũng là học giả Trung Quốc.

Những bằng chứng sai lệch

Không ngạc nhiên khi những tác phẩm đầu tiên bằng tiếng Anh về tranh chấp Biển Đông, được viết bởi những tác giả Trung Quốc và dựa trên nguồn tài liệu của Trung Quốc, ủng hộ cho luận điểm của phía Bắc Kinh. Nhận định của Cheng (tr. 277) là, “có lẽ là đủ để nói rằng lập trường của Trung Quốc đối với những quần đảo tranh chấp ở Biển Đông là ‘yêu sách có lý hơn’”. Chiu và Park (tr. 20) kết luận rằng “so với Việt Nam, yêu sách của Trung Quốc đối với chủ quyền Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa tỏ ra có sức nặng hơn”. Quan điểm của học giả Shen được thể hiện một cách rõ ràng ngay từ tiêu đề các nghiên cứu của ông: ‘International Law Rules and Historical Evidence Supporting China’s Title to the South China Sea Islands’ (Các quy định của luật quốc tế và bằng chứng lịch sử ủng hộ cho quyền sở hữu của Trung Quốc đối với các quần đảo tại Biển Đông) và ‘China’s Sovereignty over the South China Sea Islands’ (Chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo tại Biển Đông).

Những kết luận này vẫn còn ảnh hưởng đến tận bây giờ: ví dụ, chúng được trích dẫn trong các nghiên cứu của Li và Tan năm 2014. Tuy nhiên, nếu xem xét kĩ càng hơn cơ sở mà các học giả trên dựa vào để đưa ra nhận định của mình, chúng ta sẽ thấy đây là những nhận định thiếu sót một cách nghiêm trọng. Những bài báo trong những năm 1933, 1956 và 1974 không thể được xem như là cơ sở trung lập, đúng hơn đây là những tài liệu có sự thiên vị về lịch sử tranh chấp.

Phạm vi của bài viết không đủ để đề cập hết những nhận định mà các tác giả đã đưa ra về những sự kiện trước thế kỷ 19. Tóm lại, những tác phẩm của Cheng, Chiu và Park, Samuels và Shen đều cùng chia sẻ một giả định: Trung Quốc vẫn luôn là một cường quốc về hải quân, thương mại và đánh bắt cá với ưu thế vượt trội tại Biển Đông. Ví dụ, Cheng nói về giả định này như sau, “đây luôn là một phần quan trọng của tuyến đường biển từ Châu Âu tới phương Đông kể từ thế kỷ 16, là nơi trú ẩn cho ngư dân từ Đảo Hải Nam, và từ lâu đã là cửa ngõ cho các thương nhân Trung Quốc từ nam Trung Quốc tới Đông Nam Á” (tr. 266).

Tuy nhiên, nếu nhìn vào lịch sử Biển Đông dưới lăng kính mang nhiều tính thực nghiệm hơn, chúng ta sẽ thấy tình hình ở khu vực vào thời điểm đó là vô cùng phức tạp. Công trình của các sử gia Leonard Blussé, Derek Heng, Pierre-Yves Manguin, Roderich Ptak, Angela Schottenhammer, Li Tana, Nicholas Tarling và Geoff Wade[31] hé lộ rằng việc sử dụng vùng biển trong thời kì tiền hiện đại hỗn tạp hơn nhiều. Cho đến tận thế kỷ thứ 10, các tàu và thương nhân Trung Quốc gần như không đóng vai trò gì trong hoạt động thương mại thông qua đường biển. Thậm chí sau đó, Trung Quốc chưa bao giờ là thế lực chiếm ưu thế vượt trội mà họ phải chia sẻ vùng biển với người Mã Lai, Ấn Độ, Ả rập và Châu Âu. Nghiên cứu của François-Xavier Bonnet[32], Ulises Granados[33]  và Stein Tonnesson[34] cũng cho thấy hình thái tương tự tiếp tục cả trong thế kỷ 20.

Các tác phẩm trong giai đoạn đầu thế 20 cho thấy rằng nhà nước Trung Quốc thậm chí gặp rất nhiều khó khăn trong việc kiểm soát đường bờ biển của chính họ, và hoàn toàn không có năng lực áp đặt thẩm quyền đối với những quần đảo nằm cách đó hàng trăm dặm. Ví dụ, hai bài báo trên tờ The Times of London trong tháng 1/1908 mô tả sự bất lực của chính quyền Trung Quốc trong việc kiểm soát ‘nạn cướp biển’ tại sông Tây Giang – con sông nội địa chảy từ Quảng Châu.[35] Bài báo năm 1909 trên tờ The Examiner, một tờ báo của Úc, cho chúng ta biết rằng những người ngoại quốc (“2 người Đức, 1 người Nhật và vài người Mã Lai”) đã bắt đầu khai mỏ trên Đảo Hải Nam mà phải rất lâu sau đó các nhà chức trách mới có thể phát hiện ra.[36] Bài báo cũng ghi nhận sự hiện diện của người ngoại quốc trên Quần đảo Hoàng Sa, những người này đã khắc tên mình vào một số cây trên đảo. [37]

Những gì mà các tác phẩm này hé mở đó là một Biển Đông cho đến tận giữa thế kỷ 20 về cơ bản vẫn trong tình trạng không được quản lý, ngoại trừ một vài trường hợp can thiệp không liên tục của các chính phủ nước ngoài nhằm ngăn chặn nạn cướp biển. Chỉ đến năm 1909, sau vụ lùm xùm liên quan đến việc chiếm đóng Đảo Đông Sa (Pratas Island) của một doanh nhân khai thác phân chim người Nhật tên là Nishizawa Yoshiji, các nhà chức trách Trung Quốc mới bắt đầu quan tâm đến các quần đảo ngoài khơi. [38]

Phản đối hoạt động khảo sát của Đức

Tuy nhiên, trong cuốn sách của mình, Samuels (tr. 52) lập luận rằng phía Trung Quốc đã ngầm đưa ra yêu sách của mình đối với Quần đảo Trường Sa từ ngay năm 1883, khi mà – theo tác phẩm của ông – triều đình nhà Thanh chính thức lên tiếng phản đối chuyến thám hiểm được chính phủ Đức tài trợ tới Quần đảo Trường Sa. Khẳng định này dựa trên nguồn là xuất bản tháng 5/1974 của tờ báo Ming Pao Monthly có trụ sở tại Hồng Kông mà không dựa vào những bằng chứng bổ trợ khác. Chiu và Park (trong chú thích 47) thì quy về một bài báo được ấn bản 50 năm sau khi sự kiện được cho là đã xảy ra, cụ thể là ấn bản tháng 9/1933 của tờ Wai Jiao Yue Bao (Wai-chiao yüeh-pao) [Diplomacy monthly],[39] Heinzig cũng trích dẫn ấn bản của Ming Pao - tài liệu mà Samuels đã dựa vào để khẳng định rằng sau khi phía Trung Quốc đưa ra phản đối, Đức đã đình chỉ cuộc thám hiểm.

Những tuyên bố trên có vẻ như khó có thể xảy ra bởi các chuyên gia bản đồ của Đức đã vẽ bản đồ Quần đảo Hoàng Sa (chứ không phải Trường Sa) trong khoảng thời gian từ năm 1881 đến 1883, hoàn thành công việc của họ và sau đó cho ra một hải đồ. Ấn bản tiếng Pháp của hải đồ đó được xuất bản năm 1885.[40]

Công ước Pháp – Thanh 1887

Samuels lập luận rằng Hiệp ước Pháp – Thanh 1887 được đàm phán bởi chính phủ Pháp, đại diện cho Bắc Kì, chính là thoả thuận quốc tế phân chia các đảo cho phía Trung Quốc (tr. 52). Cụ thể, Điều 3 của Hiệp ước quy định các đảo ở phía đông kinh tuyến Pa-ri 105°43’ thuộc về Trung Quốc. Nhưng Samuels và các tác giả khác đã không nhận ra rằng Hiệp ước này áp dụng cho Bắc Kỳ - khu vực phía bắc của Việt Nam bây giờ và do đó nó chỉ có thể áp dụng cho các đảo tại Vịnh Bắc Bộ. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm sâu ở phía Nam, thuộc địa phận của An Nam và Nam Kỳ, và do đó không nằm trong phạm vi của Hiệp ước.

Bí ẩn của chuyến hành trình năm 1902

Ngoài ra còn một số nhầm lẫn về thời điểm chuyến đi đầu tiên của các quan chức Trung Quốc ra Quần đảo Hoàng Sa. Samuels (tr. 53), dựa vào bài báo năm 1974 trên tờ Ming Pao Monthly, đưa ra thời điểm là năm 1902 và chuyến thăm thứ 2 là vào năm 1908. Austin và Dzurek cũng đồng quan điểm với Samuels. Li và Tan (2014) cũng khẳng định về chuyến đi năm 1902, ngoài ra còn bổ sung thêm một chuyến đi khác vào năm 1907. Cheng thì cho rằng thời điểm là vào năm 1907, dựa trên một vài nguồn tham khảo trong năm 1933,[41] tương tự Chiu và Park cũng tham khảo tới ấn bản năm 1933 của tờ Kuo-wen chou-pao. Tuy nhiên, trái ngược với những nghiên cứu này – được viết sau sự kiện mà họ mô tả lần lượt là 26 năm và 72 năm, nếu kiểm tra thông tin báo chí vào thời điểm đó, chúng ta sẽ thấy rõ rằng không có chuyến hành trình nào diễn ra vào năm 1907, mà nó chỉ diễn ra vào năm 1909.[42] Nhà sử học Ulises Granados cho rằng nguyên nhân của sự nhầm lẫn có thể là bởi quyết định về chuyến hành trình được đưa ra vào năm 1907 nhưng đến năm 1909 người ta mới thực hiện chuyến đi này.[43] Điều này cũng cần phải xác minh.

Chúng ta có lý do để tin rằng có sự nhầm lẫn về chuyến đi năm 1902. 35 năm sau đó, vào tháng 6/1937, trưởng Khu Hành chính Số 9 của Trung Quốc, Huang Qiang, đã được cử đi trong một nhiệm vụ bí mật tới Quần đảo Hoàng Sa – một phần là để kiểm tra xem có hiện diện của Nhật trên Quần đảo này hay không.

Nhưng ông cũng có một nhiệm vụ khác – có thể thấy qua phụ lục mật kèm theo báo cáo của ông. Một đoạn trích của phụ lục này đã được Ủy ban Địa Danh Tỉnh Quảng Đông in lại vào năm 1987.[44] Tàu của ông chở theo 30 cột mốc bằng đá - một số ghi năm 1902, một số ghi năm 1912 và một số khác ghi năm 1921. Trên Cồn Bắc, họ chôn 2 cột ghi năm 1902 và 4 cột ghi năm 1912; trên Đảo Linh Côn (Lincoln Island), đội tàu này chôn 1 cột ghi năm 1902, 1 cột ghi năm 1912 và 1 cột ghi năm 1921 và trên Đảo Phú Lâm (Woody Island), 2 cột ghi năm 1921. Cuối cùng, trên Đảo Đá (Rocky Island), họ chôn 1 cột mốc duy nhất ghi năm 1912. 

Các cột mốc này bị quên lãng cho đến tận năm 1974, khi mà, sau Hải chiến Hoàng Sa, chúng được tìm thấy và ‘khám phá’ này được đăng tải rộng rãi trên báo chí Hồng Kông - như Ming Pao Monthly. Chuyến đi năm 1902 không hề tồn tại này từ đó được đưa vào sử sách. Chỉ tới tận bây giờ nó mới bị nhà địa lý học người Pháp đang làm việc tại Manila - Francois-Xavier Bonnet – làm sáng tỏ. [45]

Tên các đảo

Trong bài viết năm 1997, Shen khẳng định Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ‘đã thẩm tra lại tên các đảo ở Biển Đông’ năm 1932. Trên thực tế ủy ban chính phủ đó chỉ đơn giản dịch hay phiên âm tên Tiếng Anh hoặc tên quốc tế hiện có. Kết quả là một vài những cái tên tiếng Trung tiếp tục được dùng để vinh danh các đội khảo sát người Anh vốn là những người đầu tiên lập bản đồ các thực thể tại đây. Trong quần đảo Hoàng Sa có Líng yang Jiao [Linh Dương Tiêu] - dịch từ Antelope Reef (Đá Hải Sâm) - vốn được đặt tên theo một tàu khảo sát Antelope của Anh. Jīn yín Dǎo [Kim Ngân Đảo] - Money Island (Đảo Quang Ảnh) - không phải được đặt tên theo tiền và bạc - mà theo tên tổng giám sát William Taylor Money của Bombay Marine - đoàn tàu của Công ty Đông Ấn.

Phản đối ngoại giao năm 1933?

Một lập luận then chốt trong yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa là câu khẳng định thường xuyên rằng Trung Hoa Dân Quốc đã chính thức phản đối Chính Phủ Pháp sau khi nước này chính thức sáp nhập một số thực thể thuộc Quần đảo Trường Sa vào ngày 26/7/1933. Đúng là sự sáp nhập đã gây kinh ngạc trong chính phủ và làm dấy lên làn sóng dân tộc chủ nghĩa trong công chúng. Tuy nhiên, liệu có hay không một phản đối chính thức? 

Tao Cheng, trong bài nghiên cứu năm 1975, đã dẫn một bài báo trong Xin Ya Ya Xi Yue Kan [Hsin-ya-hsi-ya Yueh kan (New Asia Monthly)] xuất bản hai năm sau vụ sáp nhập đó - năm 1935.[46] Chiu và Park đề cập trong một chú thích rằng “có bằng chứng cho thấy Trung Quốc đã phản đối.” Họ tham khảo bài viết của Cho Min[47] trong Wai-chiao yüeh-pao (Diplomacy monthly) và một cuốn sách Các ghi chép chung về địa lý của các đảo phía Nam năm 1948 của Cheng Tzu-yüeh.[48] Tuy nhiên, họ thừa nhận rằng “Ngày Trung Quốc đưa ra phản đối không được ghi chép trong cuốn sách của Cheng, và cũng không được đề cập tới trong ‘Bản ghi nhớ về bốn quần đảo lớn của Đài Loan ở Biển Đông’ do Bộ Ngoại Giao Đài Loan công bố vào tháng 2/1974. Xem Lien-ho-pao [United daily news], ấn bản nước ngoài, ngày 25/2/1974, tr. 3.” 

Việc Trung Quốc đưa ra phản đối vào năm 1933 cũng xuất hiện trong bài thuyết trình của Đại Sứ Freeman và trong bài của CNA – trong đó trích dẫn tác phẩm của Shen. Trong bài báo năm 1997, Shen trích dẫn hai nguồn: Cheng, và Chiu và Park - nhưng như chúng ta đã thấy - các tác giả này không nêu ra bất kỳ tài liệu tham khảo nào cho khẳng định của mình. Trong bài nghiên cứu năm 2002, Shen dẫn các bài viết của hội nghị chuyên đề của Cục Hải Dương Nhà nước Trung Quốc.[49] Những bài viết trên không thể tìm thấy bên ngoài Trung Quốc, nhưng có bằng chứng cho thấy rõ rằng thông tin trong những công trình đó là không chính xác.

Francois-Xavier Bonnet đã tìm được hồ sơ của Mỹ cho thấy rằng ngay sau tuyên bố của Pháp, chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu viên lãnh sự của mình ở Manila, ông Kuan-ling Kwong đến hỏi chính quyền thực dân Mỹ về bản đồ có thông tin vị trí Quần đảo Trường Sa. Nhờ đó chính phủ ở Nam Kinh mới hiểu được rằng những đảo này không thuộc Quần đảo Hoàng Sa và sau đó đã quyết định không đưa ra bất kỳ phản đối chính thức nào.[50]

Mặc dù rất khó - chứng minh chắc chắn hoàn toàn là không có tuyên bố này, nhưng điều có nhiều khả năng xảy ra hơn là đã không có một phản đối chính thức nào từng được chính phủ Trung Quốc gửi tới Pháp. Trong tất cả các trang báo trên tờ Shen Bao, chúng ta không thấy bất kỳ đề cập nào tới một phản đối chính thức và cũng không tác giả nào có thể trích dẫn một văn bản phản đối từ nguồn tư liệu của chính phủ. Trong nghiên cứu của mình năm 2002, Jianmeng Shen chỉ đề cập tới ý định đưa ra phản đối của chính phủ.[51] Theo Bonnet, nguyên do của việc này có thể thấy rõ từ biên bản cuộc họp của Hội đồng quân sự Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 1/9/1933, “Tất cả các nhà địa lý chuyên nghiệp của chúng ta nói rằng Đảo Tri Tôn (Triton Island) [thuộc Hoàng Sa] là đảo cực nam của lãnh thổ của chúng ta.”[52] Trung Hoa Dân Quốc quyết định rằng họ không có yêu sách đối với quần đảo Trường Sa vào thời điểm đó và do đó không có gì để phản đối. 

Nghiên cứu của Chris Chung, một nghiên cứu sinh người Canada, chỉ ra rằng vào năm 1946, các hồ sơ của Trung Hoa Dân Quốc đã đề cập việc Trung Quốc phản đối chính thức vào năm 1933 như thể đó là sự thật. Điều này sau đó đã trở thành cách biện minh của Trung Quốc cho việc ‘đòi lại’ những đảo này từ Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ 2.[53]

Tóm lại, điều có vẻ đã xảy ra là trong khoảng thời gian 13 năm sau khi Pháp sáp nhập các đảo, giới cầm quyền Trung Hoa Dân Quốc đã thay đổi cách nhìn nhận của mình về những gì đã xảy ra vào năm 1933. Theo giả thuyết của tôi, các quan chức Trung Quốc đã nhầm một phản đối có thật năm 1932 về hoạt động của Pháp ở quần đảo Hoàng Sa với một phản đối không hề tồn tại trong năm 1933 về quần đảo Trường Sa.

Các cuộc khảo sát trong thập niên 1930

Trong bài nghiên cứu năm 2002, Shen cho rằng Trung Hoa Dân Quốc, “đã tổ chức ba đợt khảo sát quy mô lớn cùng các hoạt động đặt tên lại lần lượt vào năm 1932, 1935 và 1947” (tr.107) nhưng không có hoạt động khảo sát nào được thực hiện ở quần đảo Trường Sa mà chỉ là việc sao chép lại bản đồ quốc tế. Điều này có vẻ là lý do tại sao Trung Hoa Dân Quốc đã dịch sai tên của James Shoal [Bãi Ngầm James] - ban đầu họ gọi thực thể này là Zengmu Tan. Zeng-mu chỉ đơn giản là phiên âm của từ James. Tan có nghĩa là bãi cát, trong khi thực tế thì ‘shoal’ là bãi ngầm. Với lỗi dịch thuật sơ đẳng này này, một mảnh đáy biển đã trở thành một đảo và được coi là lãnh thổ cực nam của Trung Quốc cho đến tận ngày hôm nay - dù nó không tồn tại! Những cái tên đó đã được Trung Hoa Dân Quốc sửa đổi lại năm 1947 (lúc đó Zengmu Tan trở thành Zengmu Ansha – Ansha có nghĩa là rạn san hô ngầm) và Trung Quốc chỉnh lại một lần nữa năm 1983.[54]

Tuyên bố Cairo

Shen (2002 tr. 139), và Li và Tan (2014 ) đồng quan điểm với Bộ Ngoại giao Trung Quốc khi cho rằng theo Tuyên bố Cairo 1943, phe đồng minh thời chiến đã trao các đảo ở Biển Đông cho Trung Quốc. Bài nghiên cứu của CNA bàn luận về khẳng định này và thẳng thừng bác bỏ nó trên cơ sở rằng,

"Tuyên bố Cairo, như được củng cố bởi Tuyên Ngôn Potsdam, chỉ quy định rằng Trung Quốc sẽ thu hồi lại Mãn Châu, Formosa [Đài Loan], và Pescadores [Quần đảo Bành Hồ] sau chiến tranh. Câu tiếp theo chỉ đơn giản nói rằng Nhật Bản sẽ bị trục xuất khỏi các ‘vùng lãnh thổ khác’ mà họ đã chiếm bằng vũ lực, nhưng không chỉ ra rằng những ‘vùng lãnh thổ khác’ đó sẽ được trả lại cho Trung Quốc. Dù không được nêu cụ thể, kết luận lôgic duy nhất là những ‘vùng lãnh thổ khác’ bao gồm cả Quần đảo Trường Sa và Quần đảo Hoàng Sa, vốn đã bị đoạt lấy bằng vũ lực từ tay Pháp chứ không phải từ tay Trung Quốc.” (tr. 97) 

Tuy nhiên, Freeman (2015) lập luận rằng vì nhà chức trách Nhật Bản sáp nhập Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa vào tỉnh Đài Loan của mình nên Tuyên bố Cairo trả chúng cùng với phần còn lại của ‘tỉnh Đài Loan’ về cho Trung Quốc. Nhưng Tuyên bố không đề cập đến từ ‘Đài Loan’, nó nói về Formosa và Pescadores. Kết luận lôgic là phe đồng minh chỉ đồng ý rằng hai quần đảo cụ thể này [Formosa và Pescadores] sẽ được trả lại cho Trung Quốc.

Việc quân Nhật Bản ở Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa đầu hàng

Cả bài nghiên cứu của CNA lẫn bài thuyết trình của Đại Sứ Freeman đều chuyển tải khẳng định rằng quân đội Trung Quốc tiếp nhận sự đầu hàng của các đơn vị của Nhật Bản đồn trú tại Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa vào cuối Thế Chiến thứ 2. Freeman cho rằng Hải Quân Mỹ trên thực tế đã chở lực lượng Trung Hoa tới hai quần đảo đó cho mục đích này. Trong trao đổi riêng với tác giả, ông đã không thể cung cấp bất kỳ bằng chứng bổ trợ nào cho khẳng định đó. 

Dựa trên những bằng chứng từ các tư liệu của quân đội Mỹ và Úc, khẳng định đó khó có thể là sự thật. Trong chiến tranh, Nhật Bản đã có các căn cứ quân sự trên Đảo Hoàng Sa (Pattle Island) và Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa và Đảo Ba Bình (Itu-Aba) thuộc quần đảo Trường Sa. Đảo Phú Lâm bị tàu ngầm USS Pargo nã pháo ngày 6/2/1945[55] và ngày 8/3 máy bay Mỹ ném bom đảo này cùng với Đảo Hoàng Sa.[56] Khi tàu ngầm USS Cabrilla ghé Đảo Phú Lâm vào ngày 2/7, cờ tam tài [ba màu] của Pháp còn đang treo, nhưng lúc đó cũng có với một lá cờ trắng ở trên nó.[57] Thời điểm chính xác mà quân đội Nhật rút khỏi Đảo Phú Lâm và Đảo Hoàng Sa cũng không rõ ràng. Máy bay Mỹ ném bom các đảo này vào tháng 3 và tháng 4/1945.[58] Một bài báo của Trung Quốc năm 1947 gợi ý rằng tàu chiến Mỹ đã đến Đảo Phú Lâm trong tháng 11/1945 nhưng không thông tin cụ thể về sự đầu hàng của quân đội Nhật.[59]

Đảo Ba Bình đã bị máy bay Mỹ ném bom napan ngày 1/5/1945.[60] Máy bay B-52 đánh bom Đảo Ba Bình 6 lần chỉ trong một tuần giữa tháng 7.[61] Hầu như tất cả mọi thứ đã bị tàn phá. 6 tháng sau đó, Hải Quân Mỹ phái một toán trinh sát đến hòn đảo này. Toán quân này đổ bộ lên đảo ngày 20/11/1945 và nhận thấy đảo không có người ở - người Nhật đã bỏ đi.[62]  Mãi cho đến hơn một năm sau đó - tháng 12/1946 mới có một phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc dùng tàu chiến cũ của Mỹ (vừa được chuyển cho Hải Quân Trung Hoa Dân Quốc) đi tới được đảo này. Không có bằng chứng nào cho thấy quân đội Trung Quốc đã tiếp quản sự đầu hàng của Nhật tại Quần đảo Trường Sa.

Kết luận

Việc xem xét lại các bằng chứng với nguồn rõ ràng cho thấy lịch sử về các quần đảo ở Biển Đông là hoàn toàn khác biệt so với cái lịch sử mà đã được đề cập trong hầu hết các tài liệu tham khảo thường được sử dụng. Nhà nước Trung Quốc chỉ bắt đầu quan tâm tới các quần đảo này từ thế kỷ 20. Chưa có bằng chứng nào về việc có viên chức nhà nước Trung Quốc đến quần đảo Hoàng Sa trước ngày 6/6/1909. Chỉ đến tận năm 1933, Trung Quốc mới chú ý tới Quần đảo Trường Sa - và tại thời điểm đó Trung Hoa Dân Quốc đã quyết định không đưa ra yêu sách đối với quần đảo này. Vấn đề nóng trở lại ngay lập tức sau Thế Chiến thứ hai, do có những nhầm lẫn về sự kiện xảy ra vào năm 1933 và lần đầu tiên trong lịch sử một quan chức nước này đặt chân lên Quần đảo Trường Sa ngày 12/12/1946. 

Năm 1933, 1956, 1974 và hiện nay cũng vậy, lịch sử về các quần đảo này được viết đi viết lại. Mỗi khi căng thẳng nổ ra, những người ủng hộ lập trường của Trung Quốc lại công bố các phiên bản mới của lịch sử vốn vẫn chỉ là tái chế những sai lầm trước đó và đôi khi lại bổ sung thêm nhiều sai lầm mới của chính họ. Khi mà các cách nhìn nhận này vượt qua rào cản ngôn ngữ và xuất hiện trong các tác phẩm tiếng Anh vào giữa thập niên 1970, nền móng lung lay của chúng lại tỏ ra có độ tin cậy cao đối với những người mới tìm tòi lịch sử lần đầu. Chúng đã được in trên các tạp chí học thuật phương Tây và ‘trở thành sự thật.’ Nhưng việc xem xét lại các nguồn của chúng làm lộ ra điểm yếu cố hữu của các tác phẩm này.

Đã đến lúc các nhà sử học, luật gia và và các chuyên gia phân tích quan hệ quốc tế thôi sử dụng những bằng chứng vô căn cứ này làm cơ sở cho lập luận của họ. Đây là thời điểm tất cả cùng chung tay để xem xét lại các nguồn tài liệu gốc của nhiềukhẳng định mà các tác giả này đưa ra cũng như đánh giá lại độ chính xác của chúng. Việc giải quyết các tranh chấp phụ thuộc vào điều đó.

Bài tham luận của ông Bill Hayton, Học giả thuộc Chương trình Châu Á, Chatham House trình bày tại Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần thứ 7.

 

 



[1] Li Dexia và Tan Keng Tat, South China Sea Disputes: China Has Evidence of Historical Claims. RSIS Commentary 165 ngày 15/8/2014. Xem tại http://www.rsis.edu.sg/wp-content/uploads/2014/08/CO14165.pdf. Xem thêm Li Dexia, Xisha (Paracel) Islands: Why China’s Sovereignty is ‘Indisputable’. RSIS Commentary 116 ngày 20/6/2014. Xem tại http://www.rsis.edu.sg/wp-content/uploads/2014/07/CO14116.pdf

[2] Charles Freeman, Diplomacy on the rocks. Remarks at a Seminar of the Watson Institute for International Studies, Đại học Brown, ngày 10/4/2015. http://chasfreeman.net/diplomacy-on-the-rocks-china-and-other-claimants-in-the-south-china-sea/

[3] Pete Pedrozo, China versus Vietnam: An Analysis of the Competing Claims in the South China Sea, Center for Naval Analyses, tháng 8/2014. Xem tại http://www.cna.org/sites/default/files/research/IOP-2014-U-008433.pdf

[4] Hungdah Chiu & Choon‐Ho Park (1975): Legal status of the Paracel and Spratly Islands, Ocean Development & International Law, 3:1, 1-28

[5] Marwyn S. Samuels, Contest for the South China Sea, Methuen New York, 1982.

[6] Greg Austin, China’s Ocean Frontier: International Law, Military Force, and National Development. ‪Allen & Unwin, 1998

[7] Jianming Shen, International Law Rules and Historical Evidence Supporting China’s Title to the South China Sea Islands, 21 Hastings International and Comparative Law Review. 1‐75 (1997‐1998)

[8] Jianming Shen, China’s Sovereignty over the South China Sea Islands: A Historical Perspective, CHINESE JIL (2002), tr. 94‐157

[9] Brian K. Murphy, Dangerous Ground: the Spratly Islands and International Law, Ocean and Coastal L.J. (1994), tr. 187–212

[10] Chi-kin Lo, China's Policy Towards Territorial Disputes: The Case of the South China Sea Islands. Routledge 1989

[11] Cheng Huan, A matter of legality. Far Eastern Economic Review. Tháng 2/1974

[12] Chi-Kin Lo, China’s Policy Towards Territorial Disputes. Routledge, London. 1989

[13] John F. Copper, China’s claims to South China Sea islands – China Report Vol 10 No. 3 May-June 1974, tr. 10-16

[14] Tao Cheng, Dispute over the South China Sea Islands, Texas International Law Journal 265 (1975)

[15] Chiu & Park (1975), đã dẫn

[16] Dieter Heinzig. ‘‪Disputed islands in the South China Sea: ‪Paracels, Spratlys, Pratas, Macclesfield Bank’ Institut für Asienkunde (Hamburg). 1976

[17] Wai-chiao p'ing-lun [The foreign affairs review], Shanghai, vol. 2, no. 10 (October 1933), tr. 64-65

[18] Wai-chiao yüeh-pao [Diplomacy monthly], vol 3, no. 3 (Peiping [Peking], September 15, 1933), tr. 78

[19] Fan-chih yüeh-k'an [Geography monthly], vol. 7, no. 4 (Nanking, April 1, 1934), tr. 2.

[20] Wai-chiao-pu kung-pao, [Gazette of the Ministry of Foreign Affairs] vol 6, no. 3 (July-September 1933), tr. 208

[21] Cheng Tzu-yüeh, Nan-hai chu-tao ti-li chih-lūeh [General records on the geography of southern islands] (Shanghai: Shang-wu ying-shu-kuan, 1948).

[22] Thông báo của Bộ Ngoại giao Đài Loan vào ngày 10/6/1956, đượ tóm tắt trong “Vietnamese Claim of Sovereignty Refuted," Free China Weekly, ngày 26/6/1956, tr. 3; Chung-yang jih-pao, ngày 11/6/1956, tr. 6; Shao Hsun-cheng, "Chinese Islands in the South China Sea," People's China, no. 13 (Peking, 1956)
 Foreign Languages Press.

[23] Lien-ho-pao [United daily news], overseas edition, ngày 25/2/1974, tr. 3; "Memorandum on Four Large Archipelagoes," ROC Ministry of Foreign Affairs (Tháng 2/1974).

[24] Ming Pao (yüeh-k’an) No. 101 tháng 5/1974

[25] Marwyn S. Samuels, Contest for the South China Sea’, Methuen, New York. 1982

[26] Chris P.C. Chung, “Since Time Immemorial”:
China’s Historical Claim in the South China Sea. MA Thesis, University of Calgary, tháng 9/2013. tr. 8

[27] PRC Ministry of Foreign Affairs, China’s indisputable sovereignty over the Xisha and Nansha islands, Beijing Review Vol. 23 No.7 1980, tr. 15-24

[28] Lin Jinzhi, Renmin Ribao (People’s Daily) ngày 7/4/1980. FBIS-PRC-80-085 30 April 1980 tr. E6

[29] Duanmu Zheng ed. Guoji Fa (International Law) Peking University Press, Beijing 1989

[30] Đáng thú vị, Duanmu không phải là thành viên của Đảng Cộng sản, nhưng lại tham gia vào Liên minh Dân chủ Trung Quốc (China Democratic League). Colin Mackerras, The New Cambridge Handbook of Contemporary China. ‪Cambridge University Press, 2001 ,tr.85.

[31] Ví dụ, xem Leonard Blussé, Chinese century; The eighteenth century in the China Sea region, Archipel 58: 107-30. 1996; Derek Heng (2013) Trans-Regionalism and Economic Co-Dependency in the South China Sea: the Case of China and the Malay Region (tenth to fourteenth centuries AD), The International History Review, 35:3, 486-510; Pierre-Yves Manguin, The Southeast Asian Ship: An Historical Approach, Journal of Southeast Asian Studies, Vol. 11, No. 2 (tháng 9/1980), tr. 266-276; Roderich Ptak, The Northern Trade Route to the Spice Islands : South China Sea - Sulu Zone - North Moluccas (14th to early 16th century) Archipel. Vol 43, 1992. tr. 27-56; Angela Schottenhammer, The ‘‘China Seas’’ in world history: A general outline of the role of Chinese and East Asian maritime space from its origins to c. 1800. Journal of Marine and Island Cultures, (2012) 1, 63–86;

[32] Bonnet, Geopolitics of Scarborough Shoal. Discussion Paper #14. IRASEC (Research Institute on Contemporary Southeast Asia), Bangkok. Tháng 11/2012

[33] Ulises Granados, As China Meets the Southern Sea Frontier: Ocean Identity in the Making, 1902-1937. Pacific Affairs Vol. 78, No. 3 (Mùa thu, 2005), tr. 443-461

[34] Cụ thể, xem, Stein Tonnesson, The South China Sea in the Age of European Decline. Modern Asian Studies. Vol 40, Issue 01. Tháng 2/2006, tr. 1-57 and An International History of the Dispute in the South China Sea, East Asia Institute Working Paper No. 71 (2001)

[35] The Times “Chinese foreign relations” ngày 18/1/1908; tr. 5; The Times “The recent piracy in Canton waters”. Ngày 25/1/1908; tr. 5;

[36] The Examiner (Launceston, Tasmania) “China and her islands-keeping an eye on foreign nations” thứ 7 ngày 12/6/1909 tr.8

[37] The Examiner (Launceston, Tasmania) “China and her islands-keeping an eye on foreign nations” thứ 7 ngày 12/6/1909 tr. 8

[38] Xe  Granados (2005), đã dẫn

[39] Thông tin này được Chính quyền tỉnh Quảng Đông tiết lộ năm 1933. Xem Cho Min, "The Triangular Relationship Among China, France and Japan and the Question of Nine Islands in South Sea," Wai-chiao yüeh-pao [Diplomacy monthly], Vol 3, no. 3 (Peiping [Peking], ngày 15/9/1933); tr. 82, note 4.

[40] Hydrographic Office, The Admiralty, The China Sea Directory, Vol. 2, London, 1889, tr.103. Được trích trong Bonnet 2012. Xem thêm David Hancox and Victor Prescott, A Geographical Description of the Spratly Islands and an Account of Hydrographic Surveys Amongst Those Islands, Maritime Briefing Vol1 No6, International Boundaries Research Unit, University of Durham 1995 tr. 36

[41] Trích dẫn của Cheng: Saix, Iles Paracels, La Geographie (tháng 11-12/1933), được in lại trong 3 Wai Chiao Ping Lun (Foreign Affairs Review), No. 5 (Hu Huan-Yung Chinese transl. tháng 5/1934), tr. 65-72;, tr. 67; Hu, Fa-jen Mou-tuo Hsi-Sha Ch’ün-tao [The French Plot to Snatch the Paracel Islands], 3 Wai Chiao Ping Lun (Foreign Affairs Review), No. 4 (tháng 4/1934), tr. 92.

[42] "On Li Chun's Patrol of the Sea" Kuo-wen chou-pao [National news weekly], vol. 10, no. 33 (ngày 21/8/1933), tr. 6.

[43] Li Zhun, Xunhai ji [On the Sea Circuit] được in lại trong Zhongguo nanhai zhuqundao wenxian huibian, vol. 8 [Collected works on the archipelagos of the South China Sea, vol. 8] (Taipei: Taiwan xuesheng shuju, 1975), tr. 1. Được trích trong Ulises Granados, As China Meets the Southern Sea Frontier: Ocean Identity in the Making, 1902-1937. Pacific Affairs Vol. 78, No. 3 (mùa thu 2005), tr. 443-461 tr.447

[44] Committee of Place Names of the Guangdong Province [Guangdong sheng di ming wei yuan hui], Compilation of references of the names of all the South Sea islands [Nan Hai zhu dao di ming zi liao hui bian], Guangdong Map Publishing Company [Guangdong sheng di tu chu ban she], 1987, tr.289

[45] Bài tham luận của Francois-Xavier Bonnet tại Hội thảo Biển Đông Nam Á (Southeast Asia Sea conference), Ateneo Law Center, Makati, Manila. Ngày 27/3/2015. (Có tại: http://opinion.inquirer.net/84307/a-chinese-strategy-manipulating-the-record)

[46] Lu, Hsi-sha Ch'iin-tao Chih-yao [A Brief Note on the Paracel Islands], 9 Hsin Ya Hsi Ya Yueh Kan No. 6 (June 1935), tr. 50-54.

[47] Cho Min, "The Triangular Relationship Among China, France and Japan and the Question of Nine Islands in South Sea," Wai-chiao yüeh-pao [Diplomacy monthly], vol 3, no. 3 (Peiping [Peking], ngày 15/9/1933), tr. 78;

[48] Cheng Tzu-yüeh, Nan-hai chu-tao ti-li chih-lūeh [General records on the geography of southern islands] (Shanghai: Shang-wu ying-shu-kuan, 1948), tr. 80

[49] Jianming Shen, International Law Rules and Historical Evidence Supporting China’s Title to the South China Sea Islands, 21 Hastings International and Comparative Law Review. 1‐75 (1997) chú thích 160.

[50] François-Xavier Bonnet, Geopolitics of Scarborough Shoal, IRASEC Discussion Papers #14, Bangkok tháng 11/2012.

[51] Jianming Shen, China’s Sovereignty over the South China Sea Islands: A Historical Perspective, CHINESE JIL (2002), tr. 94‐157

[52] Wai Jiao bu nan hai zhu dao dang an hui bian [Compilation by the Department of Foreign Affairs of all the records concerning the islands in the South Sea], Vol. 1, Taipeh, 1995, tr. 47-49.
Được trích trong François-Xavier Bonnet, Geopolitics of Scarborough Shoal. Discussion Paper #14. IRASEC (Research Institute on Contemporary Southeast Asia), Bangkok. Tháng 11/2012

[53] Xem Ministry of Foreign Affairs, “Nansha Qundao [南沙群島, or the “Spratly Archipelago”],” The Historical Archives of the Department of Modern History in the Academia Sinica [Zhongyang Yanjiuyuan Jindaishi Yanjiusuo Dang’an Guancang 中央研究院近代史研究所檔案館藏], file series 019.3/0012, file 031. Điện tín chính thức của Bộ Ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc đề ngày 24/8/1946. Ministry of Foreign Affairs, Nansha Qundao [南沙群島, or the Spratly Archipelago], The Historical Archives of the Department of Modern History in the Academia Sinica [Zhongyang Yanjiuyuan Jindaishi Yanjiusuo Dang’an Guancang 中央研究院近代史研究所檔案館藏], file series 019.3/0012, file 145-146. Điện tín chính thức của Trung Hoa Dân Quốc cũng đề năm 1946, nhưng không rõ tháng bao nhiêu.

[54] Chen Keqin, Zhong guo nan hai zhu dao (China’s south sea islands) Hainan International Press and Publication Center, Haikou 1996

[55] A.B. Feuer, Australian Commandos: Their Secret War Against the Japanese in World War II (Mechanicsburg, Pennsylvania, 2006), Chương 6.

[56] US Navy Patrol Bombing Squadron 117 (VPB–117), Aircraft Action Report No. 92, có tại <http://www.fold3.com/image/#302109453>.

[57] US Navy, USS Cabrilla Report of 8th War Patrol, xem tại <http://www.fold3.com/ image/#300365402>.

[58] US Office of Naval Intelligence Review. Tháng 5/1956 tr. 189. Được trích trong David Muller, China as a maritime power, tr. 80. Carter & Mueller, đã dẫn.

[59] Ta Kung Pao [Da Gong Bao] (The Impartial) (Tianjin), ngày 1/2/1947. Được trích trong Granados (2006).

[60] United States Pacific Fleet, Patrol Bombing Squadron 128. Action report ngày 3/5/1945.

[61] Kit C. Carter and Robert Mueller, US Army Air Forces in World War II Combat Chronology 1941-1945. Center for Air Force History, Washington DC, 1991

[62] World War II War Diaries USS Sea Fox http://www.fold3.com/image/#301745082; USS CABEZON

http://www.fold3.com/image/#301980652; USS BUGARA http://www.fold3.com/image/#302085830