1306731994776_ORIGINAL(1).jpg 

Rủi ro về một cuộc đối đầu quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam đang gia tăng. Mặc dù hai nước có mối quan hệ gần gũi giữa hai đảng trong hàng thập kỷ, kể từ năm 2011, cả hai nước đều đã khẳng định các tuyên bố chủ quyền mâu thuẫn nhau đối với Biển Đông. Bắc Kinh tuyên bố rằng 90% Biển Đông là vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ. Trung Quốc đã nhiều lần đưa các giàn khoan dầu vào các khu vực tranh chấp, nạo vét và chiếm đóng các thực thể của quần đảo tranh chấp Hoàng Sa, và đã xây dựng ít nhất một và có khả năng là nhiều đường băng, cho mục đích quân sự, ở quần đảo Trường Sa.

Việt Nam cũng đã nỗ lực sử dụng các hoạt động thăm dò dầu mỏ để khẳng định chủ quyền đối với các khu vực tranh chấp của vùng biển này và như đưa tin đã đụng độ với các tàu Trung Quốc ở các vùng biển tranh chấp. Việt Nam đã tạo dựng quan hệ quân sự chặt chẽ với Mỹ, với các nước Đông Nam Á khác như Philippines, và với các cường quốc khu vực như Ấn Độ, tất cả đều khiến cho Trung Quốc vô cùng kinh ngạc. Hơn nữa, Việt Nam và Trung Quốc đang ngày càng cạnh tranh để giành ảnh hưởng ở lục địa Đông Nam Á, khu vực Việt Nam đã chi phối vào giữa những năm 1970 và cuối những năm 2000.

Các nguồn xung đột đang ngày càng gia tăng này có thể dẫn đến một cuộc đối đầu quân sự nghiêm trọng giữa hai nước trong 12-18 tháng tới, với những hậu quả lớn tiềm tàng đối với Mỹ. Do vậy, Mỹ nên tìm cách tháo ngòi nổ căng thẳng và giúp ngăn chặn một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.

Các kịch bản

Có 3 kịch bản có khả năng xảy ra mà có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng quân sự liên quan đến Trung Quốc và Việt Nam. Bắt đầu với khả năng xảy ra cao nhất, các kịch bản này bao gồm những điều sau:

Leo thang căng thẳng trên lãnh thổ tranh chấp ở Biển Đông. Trong phần lớn những năm 1990 và 2000, Chính phủ Trung Quốc, mặc dù chưa bao giờ từ bỏ các yêu sách lâu đời đối với Biển Đông, đã sử dụng một cách tiếp cận ít quyết đoán hơn đối với tranh chấp với các bên yêu sách khác. Tuy nhiên, trong 5 năm qua, Trung Quốc đã tái khẳng định các yếu sách đối với gần 90% Biển Đông là vùng đặc quyền kinh tế của mình. Việt Nam đã phản ứng một cách mạnh mẽ, khởi động các dự án cải tạo đất ở quần đảo Trường Sa, đảo Sơn Ca và đảo Đá Tây. Hơn nữa, mặc dù Biển Đông luôn có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng, cái được nhìn nhận là giá trị kinh tế của vùng biển này đã gia tăng trong thập kỷ qua. Cơ quan khảo sát địa chất của Mỹ ước tính rằng vùng biển này có trữ lượng lên tới 290.000 tỷ foot khối khí đốt tự nhiên (1 foot khối xấp xỉ 0,028 m3). Biển Đông cũng chiếm khoảng 1/10 toàn bộ sản lượng đánh bắt cá toàn cầu hàng năm.

Vào tháng 5/2014, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC) thuộc sở hữu nhà nước đã đưa một giàn khoan dầu vào các vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Các tàu của hải quân và cảnh sát biển đã đối đầu xung quanh giàn khoan này, và các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã nổ ra ở Việt Nam. Mặc dù hai nước cuối cùng đã tháo ngòi nổ cuộc khủng hoảng này, một vài tuần lễ căng thẳng đã diễn ra sau đó khi mà các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc và Việt Nam đã phớt lờ nhau. Rất có khả năng rằng một vụ việc tương tự có thể sẽ nổ ra trong tương lai gần và leo thang; một số báo cáo vào tháng 7/2015 đã cho thấy rằng Trung Quốc đã bắt đầu tái triển khai một giàn khoan dầu cũng ở các vùng biển tranh chấp hồi năm 2014. Nếu CNPC một lần nữa thăm dò ở khu vực này hay ở các lô khai thác dọc bờ biển Việt Nam, các giàn khoan dầu của tập đoàn này có thể sẽ được các lực lượng bán quân sự ngày càng tinh vi và các tàu hải quân của Trung Quốc hộ tống. Trung Quốc đã mở rộng đáng kể căn cứ của nước này ở đảo Hải Nam để bố trí lực lượng hải quân ngày càng lớn mạnh của mình, trong khi Việt Nam cũng đã bắt đầu hiện đại hóa các lực lượng tàu nổi và tàu ngầm của mình.

Với việc các tàu hải quân của họ đối đầu nhau, Việt Nam và Trung Quốc có thể giao tranh chí tử. Hà Nội và Bắc Kinh có thể củng cố các vị trí của mình ở vùng biển này bằng nhiều tàu hải quân hơn, các cuộc tuần tra thường xuyên trên không, và các đơn vị lực lượng đặc nhiệm. Nếu hai bên không xuống thang, Trung Quốc và Việt Nam cuối cùng có thể lao vào một cuộc chiến hải quân, dù là có giới hạn.

Đọ súng ở biên giới trên bộ Trung-Việt. Biên giới trên bộ Trung-Việt ngày càng trở nên căng thẳng khi các lực lượng an ninh của cả hai bên đã đấu súng ít nhất hai lần vào năm 2014 và 2015. Lý do cho các sự cố này vẫn chưa rõ ràng – lực lượng biên phòng Trung Quốc có thể đã nổ súng vào những người Duy Ngô Nhĩ đang vượt biên. Nhưng chúng đã khiến cho biên giới trên bộ trở nên nguy hiểm hơn. Các cuộc đụng độ tới đây, đặc biệt là nếu chúng xảy ra đồng thời với những căng thẳng gia tăng vì các tranh chấp khác như Biển Đông hay sông Mekong, nơi các con đập ở thượng nguồn của Trung Quốc đã khiến Việt Nam rất giận dữ, có thể dẫn tới việc Trung Quốc và Việt Nam củng cố biên giới trên bộ, làm gia tăng nguy cơ leo thang quân sự hơn nữa.

Đụng độ quân sự không được dự tính trước xung quanh một cuộc diễn tập quân sự của Việt Nam với các đối tác chiến lược mới của Hà Nội. Việt Nam đã bắt đầu tiến hành các cuộc diễn tập quân sự theo nhiều hình thức khác nhau với một loạt các đối tác chiến lược đang mở rộng nhanh chóng của Hà Nội. Trong tương lai gần, các cuộc diễn tập này có thể sẽ bao gồm cả các cuộc diễn tập hải quân với Ấn Độ, Philippines, Singapore, và thậm chí là cả Mỹ và Nhật Bản. Các cuộc diễn tập này có khả năng sẽ bị Trung Quốc giám sát chặt chẽ, ngay cả khi các cuộc diễn tập diễn ra ở các vùng biển hay vùng trời ngoài Biển Đông; Bắc Kinh thường có thái độ thù địch với các quan hệ đối tác mới của Việt Nam. Khả năng xảy ra các sự cố không mong muốn, chẳng hạn như các máy bay bay sát nhau hay ép nhau hạ cánh, hay các tàu nổ súng gần nhau, sẽ leo thang.

Các chỉ dấu đáng báo động

Một số chỉ dấu đáng báo động sẽ cho thấy rằng nguy cơ xảy ra đối đầu quân sự đang gia tăng. Trong số những dấu hiệu chung nhất về tình trạng quan hệ song phương đang ngày một xấu đi sẽ là những điều sau:

Các tuyên bố công khai chính thức của Trung Quốc và Việt Nam. Mặc dù cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều không cho phép phương tiện truyền thông tiếp cận các lãnh đạo cấp cao, cả hai chính phủ đã tổ chức các cuộc họp báo để tố cáo nhau sau các thông báo chính sách liên quan đến Biển Đông, biên giới Trung Quốc-Việt Nam và các vấn đề gây tranh cãi khác. Các cuộc họp báo và thông báo công khai bằng văn bản này có xu hướng bao gồm các cáo trạng kết tội nhau của phát ngôn viên cấp cao của Trung Quốc hoặc Việt Nam. Tin tức về các cuộc họp báo ở Bắc Kinh hay Hà Nội liên quan đến quan hệ Trung-Việt do đó nên được xem là một dấu hiệu chung của tình trạng căng thẳng song phương đang gia tăng.

Huy động các cuộc phản kháng công khai. Vào một số dịp trong 3 năm qua, các cuộc biểu tình lớn chống Trung Quốc đã được tổ chức ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thường để phản đối các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, mặc dù đôi khi cũng để phản đối các hành động khác của Bắc Kinh. Sự hiện diện của các cuộc phản kháng công khai chống Trung Quốc ở Việt Nam hay các cuộc tập hợp chống Việt Nam ở Trung Quốc sẽ là một dấu hiệu của sự căng thẳng song phương đang gia tăng.

Những thông báo về các quan hệ đối tác chiến lược mới của Việt Nam. Việt Nam đang tích cực tìm cách chính thức hóa các mối quan hệ gần gũi hơn với thậm chí nhiều cường quốc khu vực hơn nữa, chẳng hạn như Indonesia, những nước có chung lo ngại về sự thống trị của Trung Quốc. Một thông báo về quan hệ đối tác chiến lược mới của Việt Nam với một nước châu Á khác như Indonesia hẳn sẽ được nhìn nhận như một dấu hiệu tiềm năng của căng thẳng đang gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh.

Đưa các giàn khoan dầu vào các vùng biển tranh chấp và/hoặc các tuyên bố chủ quyền. Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều đã sử dụng các tuyên bố chính thức, thường được đưa ra trong các cuộc hội nghị của đảng, để đưa ra các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Họ cũng sử dụng các công ty dầu khí do nhà nước sở hữu như công cụ để khẳng định chủ quyền đối với các khu vực tranh chấp. Trong quá khứ, cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều đã phản ứng mau lẹ với các hoạt động thăm dò dầu mỏ và khí đốt mới của bên kia bằng cách tăng cường tuần tra ở các khu vực tranh chấp hay cắt dây cáp của các tàu khảo sát. Do vậy, các tuyên bố chính thức hay các thông báo về hoạt động thăm dò mới ở Biển Đông có thể báo hiệu một cuộc khủng hoảng quân sự sắp xảy đến.

Các cuộc diễn tập của quân đội gần biên giới trên bộ Trung-Việt. Do cả Trung Quốc lẫn Việt Nam hiện nay đều không tiến hành các cuộc diễn tập quân sự thường xuyên gần biên giới trên bộ, các cuộc tập trận gần biên giới có thể báo hiệu một cuộc đối đầu sắp xảy đến.

Các hoạt động chuẩn bị quân sự của Trung Quốc để đáp trả các cuộc diễn tập đã được thông báo trước của Việt Nam và các đối tác của nước này. Các máy bay chiến đấu của Trung Quốc trong những năm gần đây đang ngày sẵn sàng bay áp sát một cách nguy hiểm với các máy bay trinh sát và máy bay chiến đấu của nước ngoài, cả ở trong không phận gần và xa bờ biển Trung Quốc hơn rất nhiều. Trung Quốc và Việt Nam không có thỏa thuận nào về các nguyên tắc đối với các cuộc va chạm trên không, và Trung Quốc cũng không có thỏa thuận nào về va chạm trên không với các đối tác của Việt Nam, kể cả Mỹ. Các báo cáo về những vụ Trung Quốc đánh chặn máy bay Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam đang tiến hành các cuộc diễn tập với các đối tác của Hà Nội, nên được xem là các chỉ dấu cảnh báo chiến thuật.

Các tác động đối với lợi ích của Mỹ

Bất kỳ cuộc khủng hoảng quân sự nào liên quan đến Trung Quốc và Việt Nam đều có thể làm tổn hại đến các lợi ích của Mỹ, nhưng thiệt hại tiềm tàng đối với các lợi ích của Mỹ bắt nguồn từ một cuộc khủng hoảng trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ lớn hơn rất nhiều so với thiệt hại bắt nguồn từ một cuộc xung đột biên giới trên bộ.

Đông Á đã chứng kiến một cuộc chạy đua vũ trang hải quân và không quân nhanh chóng trong thập kỷ vừa qua. Một sự tăng tốc hơn nữa của cuộc chạy đua vũ trang đó, cùng với nhiều cuộc thử nghiệm hơn các phương tiện của hải quân và không quân, làm gia tăng khả năng tính toán sai lầm, đối đầu và thậm chí là chiến tranh công khai.

Mặc dù có khả năng rằng cuộc chạy đua vũ trang này có thể khiến cho sự tính toán sai lầm và xung đột có thể xảy ra hơn, một cuộc khủng hoảng trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc về lý thuyết có thể phục vụ lợi ích của Mỹ ở châu Á. Một cuộc khủng hoảng bắt nguồn chủ yếu từ hành động gây hấn của Trung Quốc, và hành động đó vấp phải một phản ứng của Mỹ thúc đẩy Trung Quốc phải lùi bước và ngăn chặn xung đột, có thể khiến các nước châu Á tăng cường quan hệ quân sự với Mỹ. Các nước như Malaysia và Singapore vốn đã là đối tác của Mỹ có thể tìm cách chính thức hóa quan hệ với Mỹ thông qua các hiệp ước và hạn chế sự hợp tác quân sự của họ với Trung Quốc. Các nước như Indonesia hiện có quan hệ quân sự hạn chế với Mỹ có thể sẽ tìm cách nhanh chóng mở rộng quan hệ quân sự.

Tuy nhiên, một kịch bản mà trong đó một cuộc khủng hoảng trên biển khiến các nước châu Á thúc đẩy quan hệ với Mỹ, tuy chiến tranh hải quân được ngăn chặn, không thể cho là điều dĩ nhiên. Nếu một cuộc khủng hoảng trên biển nổ ra và phản ứng của Mỹ là không hiệu quả, làm kéo dài cuộc xung đột và không thể buộc Trung Quốc rút lui, ngay cả các đối tác thân cận của Mỹ cũng có thể tìm cách tăng cường quan hệ với Trung Quốc mà không có lợi cho quan hệ quân sự với Washington. Thậm chí nếu phản ứng của Mỹ đối với một cuộc khủng hoảng trên biển có hiệu quả, khiến cho Bắc Kinh phải lùi bước, một số nước châu Á, chẳng hạn như Indonesia hay Malaysia, vẫn có thể quyết định tăng cường quan hệ quân sự với Trung Quốc và giảm bớt sự hợp tác của họ với Mỹ, vì họ tính toán rằng không có cách nào để ngăn cản các hành động quyết đoán của Trung Quốc ở các vùng biển châu Á trong dài hạn. Và ngay cả nếu Washington có phản ứng hiệu quả đối với một cuộc khủng hoảng, và các nước châu Á tìm kiếm quan hệ quân sự gần gũi hơn với Mỹ, các nước này vẫn có thể tiếp tục nhanh chóng mở rộng năng lực hải quân và không quân của họ. Những rủi ro của một cuộc chạy đua vũ trang dẫn đến sự tính toán sai lầm và leo thang ở các vùng biển và vùng trời châu Á sẽ tiếp tục tồn tại.

Các phương án phòng ngừa

Mỹ có một số phương án để giảm bớt rủi ro xảy ra một cuộc khủng hoảng quân sự Trung-Việt, mặc dù ảnh hưởng của Mỹ đối với Trung Quốc và thậm chí Việt Nam còn hạn chế. Các phương án này bao gồm các chiến lược để thúc đẩy hợp tác; các phương án nhằm tăng cường khả năng của Việt Nam để răn đe các hành động của Trung Quốc đe dọa tự do hàng hải và/hoặc các lợi ích chiến lược của Mỹ; và các phương án sẽ cho phép Mỹ rút khỏi một cuộc xung đột Trung-Việt mà không đe dọa đến lợi ích chiến lược của Mỹ hay dính líu đến các đồng minh của Mỹ.

Thúc đẩy hợp tác. Một bộ quy tắc ứng xử cho các tàu bè đang hoạt động ở Biển Đông có thể là chiến lược hợp tác hiệu quả nhất. Trung Quốc và các nước Đông Nam Á đã tham gia các cuộc đàm phán về một bộ quy tắc ứng xử từ tháng 9/2013. Tuy nhiên, 10 thành viên của ASEAN đã bị chia rẽ về việc phải thúc đẩy mạnh mẽ một bộ quy tắc ứng xử như thế nào và một bộ quy tắc như vậy bao gồm những gì. Trong các tranh chấp khác, Trung Quốc đã chủ động phản ứng khi các nước ASEAN thể hiện một lập trường thống nhất. Mỹ có thể làm việc với Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác để tạo ra một lập trường thống nhất về bộ quy tắc ứng xử. Nếu Trung Quốc từ chối tham gia các cuộc thảo luận về bộ quy tắc ứng xử, Mỹ nên khuyến khích ASEAN phát triển một bộ quy tắc dự thảo của mình và công khai trình bày nó với Bắc Kinh.

Chiến lược hợp tác thứ hai có thể là thúc đẩy các dự án kinh tế và khoa học chung ASEAN-Trung Quốc ở Biển Đông, chẳng hạn như các chương trình hệ thống hóa hệ sinh thái biển. Các dự án khoa học này sẽ xây dựng lòng tin và có thể dẫn tới các dự án thăm dò dầu mỏ và khí đốt chung ASEAN-Trung Quốc, mà có khả năng làm giảm đáng kể tình trạng căng thẳng.

Chiến lược hợp tác thứ ba có thể là khuyến khích các cuộc tuần tra chung biên giới trên bộ Trung-Việt, mặc dù ảnh hưởng của Mỹ đối với các vấn đề liên quan đến biên giới trên bộ Trung Quốc-Việt Nam là cực kỳ hạn chế. Mặc dù lực lượng biên phòng hai nước thường xuyên tổ chức tham vấn và đôi khi trao đổi thông tin tình báo, họ không tiến hành các cuộc tuần tra chung, điều sẽ giúp các sỹ quan cấp cao liên lạc chặt chẽ hơn và làm giảm nguy cơ xảy ra nổ súng dọc biên giới.

Sử dụng các cuộc tập trận hải quân, mua bán vũ khí, các tuyên bố về chính sách của Mỹ và các cuộc tập trận chung để răn đe Trung Quốc. Một chiến lược phòng ngừa cũng có thể là một chiến lược răn đe, mà có thể sẽ được thực hiện ở Biển Đông đồng thời với việc Mỹ khuyến khích các biện pháp hợp tác. Mỹ có thể điều động các tàu hải quân của Mỹ đến các khu vực ở Biển Đông nơi Trung Quốc vừa ngăn không cho các tàu thuyền từ Việt Nam hay một nước khác đi lại, để chứng tỏ cam kết của Mỹ đối với tự do hàng hải.

Bước đi thứ hai có thể là sử dụng ngoại giao công khai và cá nhân để làm rõ các cam kết của Mỹ đối với các đồng minh có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông. Các nhà lãnh đạo Mỹ có thể tuyên bố công khai rằng các lực lượng của Mỹ sẽ đến trợ giúp bất kỳ đồng minh hiệp ước nào nếu họ đối mặt với các cuộc tấn công vô cớ tại các khu vực ở Biển Đông mà nhiều nước có tuyên bố chủ quyền. Hiện nay, các quan chức Mỹ chỉ nói một cách mơ hồ rằng tự do hàng hải ở Biển Đông là một lợi ích quốc gia của Mỹ.

Hơn nữa, Mỹ có thể giảm thiểu khả năng các tuyên bố công khai của nước này gây thù địch với Trung Quốc bằng cách đồng thời đưa ra các cảnh báo công khai cho các đối tác của mình ở khu vực Biển Đông – Việt Nam, Philippines, Indonesia và Malaysia – rằng Mỹ sẽ không nhất thiết phải bảo vệ họ trong một cuộc xung đột trên biển nếu họ gây ra khủng hoảng. Những ví dụ về sự khiêu khích như vậy có thể là trường hợp một nước tấn công các tàu của Trung Quốc trước hay ngăn không cho các tàu Trung Quốc đi qua các vùng biển quốc tế.

Bước đi thứ ba có thể là giúp nâng cấp khả năng phòng thủ của Việt Nam bằng cách mở rộng danh mục vũ khí sát thương của Mỹ bán cho Hà Nội, điều đã được Quốc hội Mỹ thông qua vào mùa Thu 2014, bao gồm cả máy bay và tàu hải quân. Mỹ cũng có thể giúp cải thiện khả năng phòng thủ của Việt Nam bằng cách tổ chức các cuộc diễn tập chiến đấu thường niên Mỹ-Việt. Các hình thức răn đe này có thể đẩy các lực lượng của Mỹ, Việt Nam và Trung Quốc lại sát nhau và làm gia tăng nguy cơ xảy ra tính toán sai lầm. Tuy nhiên, sự răn đe có thể hiệu quả trong việc ngăn không cho Trung Quốc triển khai sức mạnh theo những cách thức mà có thể kích động một cuộc đối đầu với các láng giềng của nước này.

Giảm bớt dính líu đến một cuộc đối đầu trên bộ Trung-Việt ở lục địa Đông Nam Á. Một chiến lược giảm thiểu sự dính líu của Mỹ trong bất kỳ xung đột biên giới trên bộ tiềm tàng nào hay sự đối địch lớn hơn ở lục địa Đông Nam Á có thể là sự lựa chọn tốt nhất cho Mỹ. Mỹ có lợi ích chiến lược và kinh tế rất nhỏ ở phần lớn lục địa Đông Nam Á; biên giới trên bộ Trung-Việt không có tầm quan trọng đáng kể đối với nền kinh tế Mỹ, và Mỹ đã cho phép các đối tác khác ở châu Á giải quyết tranh chấp biên giới trên bộ mà không cần bất kỳ sự can dự của Mỹ.

Các phương án kiềm chế

Mỹ có thể sử dụng một số biện pháp phòng ngừa để tháo ngòi nổ một cuộc khủng hoảng quân sự. Các phương án này, mặc dù bị hạn chế bởi thực tế rằng Việt Nam không phải là một đồng minh hiệp ước và quan hệ Mỹ-Trung vẫn còn nhiều bất đồng, có từ các chiến lược thúc đẩy sự đồng lòng xuống thang cho tới các biện pháp mang tính cưỡng ép hơn.

Hợp tác: Khuyến khích Hà Nội và Bắc Kinh sử dụng các đường dây nóng và các cuộc gặp gỡ cấp cao, và thúc giục các đối tác của Việt Nam ngay lập tức tổ chức các cuộc gặp với các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc và Việt Nam đã mở một đường dây nóng vào năm 2013 để các nhà lãnh đạo hàng đầu có thể đàm thoại trực tiếp với nhau, cả hai chính phủ đã phớt lờ công cụ này trong suốt cuộc khủng hoảng vào tháng 5/2014. Hơn nữa, hai nước trong 1 tháng đã từ chối sắp xếp một cuộc gặp cấp cao giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc.

Nếu một thế đối đầu khác xảy ra ở Biển Đông vì các cuộc diễn tập quân sự của Việt Nam, hay dọc biên giới Trung-Việt, Washington có thể khuyến khích cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh lập tức sử dụng đường dây nóng riêng của họ; mặc dù Việt Nam không phải là một đồng minh, Mỹ có lẽ có nhiều ảnh hưởng hơn với Hà Nội so với bất kỳ cường quốc bên ngoài nào khác. Nếu khủng hoảng quân sự bắt nguồn từ các sự cố sau các cuộc diễn tập của Việt Nam với các đối tác như Philippines hay Ấn Độ, Mỹ có thể thúc đẩy các nước như Philippines – mà Washington có ảnh hưởng đáng kể – để đề xướng các cuộc gặp gỡ của các nhà lãnh đạo nước này với Bắc Kinh, một cách bí mật nếu cần thiết, để xuống thang khủng hoảng.

Cưỡng ép: Triệu tập một cuộc họp khẩn của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Nếu một cuộc khủng hoảng quân sự Trung-Việt bắt nguồn từ bất kỳ tình huống nào trong 3 tình huống bất ngờ này leo thang thành bạo lực chết người, Mỹ phải mạnh mẽ thúc giục Tổng thư ký Liên Hợp Quốc triệu tập một cuộc họp khẩn của Hội đồng Bảo an. ASEAN lúc này không thể làm trung gian hòa giải cho cuộc khủng hoảng liên quan đến Hà Nội bởi Tổng thư ký ASEAN hiện nay là một nhà ngoại giao Việt Nam. Việc triệu tập một cuộc họp khẩn của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đối với Trung Quốc có thể có vẻ giống như một chiến lược nhằm công khai làm bẽ mặt Bắc Kinh, nhưng Washington cần phải làm rõ với Bắc Kinh và Hà Nội rằng mục tiêu sẽ là đem lại một nơi gặp gỡ để thảo luận. Tuy nhiên, Mỹ và các nước khác sẽ vẫn bảo lưu quyền sử dụng phiên họp này để đề xuất các giải pháp kêu gọi một hoặc cả hai bên đang có xung đột xuống thang nếu không sẽ phải đối mặt với các biện pháp trừng phạt, mặc dù Trung Quốc có thể dùng quyền phủ quyết của mình để ngăn chặn bất kỳ nghị quyết nào mà nước này phản đối.

Cưỡng ép: Báo hiệu cam kết của Mỹ đối với Việt Nam. Nếu một cuộc khủng hoảng quân sự nảy sinh do các hành động quyết đoán và vô cớ của Trung Quốc ở Biển Đông, hay một phản ứng của Trung Quốc đối với một cuộc diễn tập quân sự Mỹ-Việt, cuộc khủng hoảng leo thang thành bạo lực gây tổn hại về người và đe dọa tự do hàng hải, và không có sự lựa chọn nào khác để tháo ngòi nổ cuộc đối đầu này, Washington có thể điều một nhóm tàu sân bay đến Biển Đông để thúc giục các nhà lãnh đạo của Bắc Kinh ngồi lại với các lãnh đạo cấp cao của Việt Nam và một trung gian hòa giải để giải quyết tranh chấp.

Các khuyến nghị chính sách

Chiến lược hiệu quả nhất của Mỹ để làm giảm nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng quân sự Trung-Việt là một chiến lược kết hợp: việc sử dụng ASEAN để thúc đẩy xây dựng lòng tin đa phương ở Biển Đông; thúc đẩy các đường lối chỉ đạo bằng văn bản và rõ ràng để giải quyết các tranh chấp trên biển; làm rõ hơn chính sách của Mỹ liên quan đến các đồng minh hiệp ước với các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông; tăng cường khả năng phòng thủ của Việt Nam và các đối tác Đông Nam Á khác để ngăn chặn các hoạt động ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông; và giảm thiểu sự can dự của Mỹ trong bất kỳ xung đột biên giới trên đất liền Trung-Việt nào.

Cụ thể hơn, Mỹ cần phải thực hiện các bước sau:

Tăng cường khả năng trung gian hòa giải của ASEAN. Khi một nhà ngoại giao từ một nước khác ngoài Việt Nam lên giữ chức Tổng thư ký ASEAN vào năm 2018, ASEAN có thể đóng một vai trò như một trung gian hòa giải giữa Trung Quốc và Việt Nam. Việt Nam, một trong những thành viên mới của ASEAN, coi trọng địa vị thành viên của mình trong tổ chức khu vực này và cố gắng phấn đấu để được xem là một nước chú ý đến vai trò lãnh đạo của ASEAN. Mỹ nên khuyến khích vai trò trung gian hòa giải của Tổng thư ký ASEAN và giúp tăng cường khả năng trung gian hòa giải xung đột của ban thư ký ASEAN. Mỹ nên tài trợ 2-4 triệu USD mỗi năm để giúp Viện Hòa bình và Hòa giải thuê thêm nhân viên và cử họ đi học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác từng làm trung gian hòa giải các cuộc xung đột ở Đông Nam Á, chẳng hạn như Na Uy.

Khuyến khích Trung Quốc và Việt Nam tiến tới có bản ghi nhớ về việc giải quyết các tranh chấp trên biển. Mỹ nên khuyến khích cả hai bên nối lại đàm phán về các nguyên tắc được thỏa thuận để xử lý tranh chấp trên biển Trung-Việt.

Coi bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông là một ưu tiên của ngoại giao Mỹ. Các quan chức Mỹ, kể cả Tổng thống Obama, nên sử dụng các chuyến công du Đông Á để thể hiện sự ủng hộ của Mỹ cho các cuộc đàm phán thường xuyên Trung Quốc-ASEAN về một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Đại sứ Mỹ tại ASEAN cần coi việc xác lập lập trường thống nhất của ASEAN về bộ quy tắc ứng xử là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của mình.

Làm rõ các lập trường của Mỹ về việc bảo vệ các đối tác ở Biển Đông. Mỹ nên sử dụng các tuyên bố công khai để xác định rõ hơn cam kết của Mỹ bảo vệ các lực lượng của Philippines tại các khu vực tranh chấp nếu họ bị tấn công vô cớ.

Mở rộng quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt. Mỹ cần làm việc để mở rộng quyền tiếp cận cho các tàu hải quân Mỹ ở vịnh Cam Ranh và tăng số lượng các chương trình huấn luyện cho các sĩ quan cao cấp của Việt Nam để chuẩn bị cho các cuộc diễn tập hải quân Mỹ-Việt trong tương lai. Mỹ cũng nên tăng cường bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, mặc dù các thương vụ này nên được giới hạn ở các phương tiện của hải quân và không quân.

Báo hiệu cho Hà Nội rằng Mỹ không sẵn lòng mở rộng hợp tác sang một cuộc xung đột biên giới trên bộ. Mỹ cần phải báo hiệu cho Hà Nội rằng hợp tác chiến lược Mỹ-Việt gần gũi hơn sẽ không bao gồm việc Mỹ bảo vệ biên giới trên bộ của Việt Nam – trừ khi Việt Nam có khả năng bị tấn công vô cớ – bằng cách giới hạn các cuộc diễn tập chung Mỹ-Việt ở các cuộc tập trận hải quân và không quân ở Biển Đông trong tương lai./.

Theo “The Diplomat

Vũ Hiền (gt)