09/01/2014
Sự thay đổi các ưu tiên trong chính sách của Tổng thống Mỹ Barack Obama đã khiến Tổng thống Nga Vladimir Putin thất vọng, không quan tâm tới đề nghị của Washington trong việc giảm số đầu đạn hạt nhân.
Sau khi Tổng thống Obama từ chối đến St Petersburg và Moskva hồi mùa Hè 2013, những sự kiện quốc tế chứng tỏ mối quan hệ giữa hai cường quốc (Nga và Mỹ) đóng vai trò rất quan trọng. Điều này càng được minh chứng thông qua hàng loạt vấn đề như tình hình tài chính-kinh tế thế giới, cuộc đối thoại Trung-Mỹ, hay như vấn đề xoay trục chiến lược của Mỹ sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương...
Chủ đề an ninh
Hóa ra là chủ đề an ninh toàn cầu luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của nền chính trị thế giới. Thậm chí có thể thấy ở đây mối quan hệ giữa Moskva và Washington đã và vẫn tiếp tục đóng một vai trò rất quan trọng. Nước cờ ngoại giao thành công của Moskva trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng Syria và vấn đề vũ khí hóa học đã giúp làm giảm bớt tình trạng căng thẳng trên thế giới, cho dù con đường tìm ra giải pháp hữu hiệu nhất cho các vấn đề trên còn dài và còn phải vượt qua rất nhiều khó khăn, trở ngại, và tất cả những điều này, hầu hết đều phụ thuộc vào mối quan hệ giữa Nga và Mỹ. Khả năng nối lại các cuộc đàm phán mới về chương trình hạt nhân của Iran - một vấn đề then chốt trong việc không phổ biến vũ khí hạt nhân, cũng phụ thuộc vào tính chất mối quan hệ Nga-Mỹ. Quan hệ Nga-Mỹ cũng có thể chi phối hiệu quả cuộc chiến chống khủng bố quốc tế, giải quyết hòa dịu cuộc khủng hoảng Trung Đông, Nam Caucasus, hay chi phối tình hình khu vực Nam Á, Trung Á, đặc biệt là sau khi NATO rút quân khỏi Afghanistan trước cuối năm 2014.
Tuy nhiên, cho dù thấy rõ "sức mạnh" chi phối trong sự "tương tác ngoại giao" giữa Nga và Mỹ (cũng như mối quan hệ Nga với Liên minh châu Âu-EU), thì lúc này, mối quan hệ ấy vẫn còn nhuốm màu ảm đạm. Có vẻ như nguyên nhân chính của tình trạng này là do ảnh hưởng từ chính sách của mỗi nước cũng như mối quan hệ tay đôi giữa các quốc gia. Tại Nga, sau những làn sóng biểu tình trong các năm 2011-2012, giới cầm quyền đã rút ra một kết luận rằng sự hợp tác ngày một chặt chẽ của phương Tây (chẳng hạn như "mối quan hệ thời hiện đại" của Dmitry Medvedev với giới chức phương Tây; một Barack Obama đã được "cài đặt lại"; hay Hiệp định đối tác mới với EU; một hệ thống phòng thủ tên lửa (NMD) chung và tiến trình tiếp tục giải trừ vũ khí hạt nhân...), đã cho phép Mỹ và các đồng minh xóa mờ dần hệ thống chính trị, hình thành nên "nền dân chủ quản lý". Do đó, bánh xe đột ngột chuyển từ "Sự lựa chọn châu Âu của Nga" trước đó sang "con đường Á-Âu" và tiếp tục hướng Đông - hợp tác kinh tế, chính trị và quân sự với các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nơi đạt được tăng trưởng kinh tế dương.
Điều này, chắc chắn không phải là nguyên cớ dẫn tới sự đối đầu theo kiểu thời Chiến tranh Lạnh. Nhưng chính sách cách ly phương Tây cũng như thói quen bài phương Tây (trong mọi trường hợp, kể cả chỉ bằng lời nói) xuất hiện khá rõ ràng. Trên nền tảng của chiến dịch tuyên truyền khổng lồ về mối đe dọa quân sự nước ngoài tại Nga, một chương trình chưa từng có nhằm tái trang bị kỹ thuật cho quân đội và hải quân, trị giá 19 nghìn tỉ rúp, đã được bắt đầu từ cuối năm 1970 và kéo dài đến hết năm 2020. Chương trình này được gọi là Chương trình Vũ khí Nhà nước năm 2020 (của Nga). Đối với Mỹ, việc một vị Tổng thống da màu lần đầu tiên lên nắm quyền đã đem lại những đổi thay về mặt xã hội trong đường lối đối nội lẫn chính sách đối ngoại. Cụ thể vị tổng thống này đã đề cao vai trò của Liên hợp quốc (LHQ) và nhấn mạnh cần hành động dưới sự bảo trợ của LHQ, cần hạn chế sử dụng vũ lực và giải trừ vũ khí hạt nhân. Sự thay đổi trong chính sách của Mỹ đã khiến phe đối lập theo đường lối dân tộc cực đoan và những thế lực phản động tôn thờ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đặc biệt bất ngờ. Phe đối lập còn tìm cách chi phối chính quyền, duy trì tâm lý bài Nga hết sức sâu sắc cũng như đòi chi phối tổng thống (Mỹ) trong các chính sách đối nội và đối ngoại. Trong suốt bề dày lịch sử mối quan hệ Nga-Mỹ kéo dài 200 năm cũng chưa bao giờ chứng kiến một sự tương tác trong các vấn đề chính trị một cách khó cắt nghĩa được đến như vậy.
Kết quả mang tầm chiến lược
Cuộc đối thoại về kiểm soát vũ khí hạt nhân lúc này dường như đang đi vào ngõ cụt, do những bất đồng giữa các bên xung quanh chương trình phòng thủ tên lửa (NMD) của Mỹ và NATO. Tiếp đó, mối bất hòa này càng lớn dần bởi sự khác biệt chiến lược, địa chính trị và mâu thuẫn mang tính ý thức hệ.
Tuy nhiên, việc thực hiện thành công giải trừ vũ khí hóa học tại Syria và ngăn chặn một cuộc chiến tranh mới ở vùng Vịnh Persian (chống Iran), đã mở ra những cơ hội mới cho phép nối lại các cuộc đối thoại nghiêm túc về vũ khí chiến lược. Cuối cùng, ngay cả Liên Xô và Mỹ, từng là hai đối thủ trong cuộc đối đầu mang tính toàn cầu lại đã cùng nhau tiến hành cuộc đàm phán kéo dài tới hơn 20 năm và kết thúc bằng việc ký một loạt hiệp ước lịch sử. Những văn kiện này khi đó không hề đề cập đến mối quan hệ đối tác chiến lược, song giới chức cả hai bên đều tuân thủ bởi những lý do hết sức thực tế: đó là làm giảm nguy cơ chiến tranh, hạn chế lực lượng tên lửa-hạt nhân, từ đó giúp giảm các chương trình đối phó lẫn nhau và sự chạy đua vũ trang.
Mặc dù tại thời điểm này, Nga không thể hiện sự quan tâm đến hiệp ước tiếp theo, song những văn bản này vẫn thích hợp với thời cuộc. Năm 2012, Vladimir Putin đã công bố một chương trình khá chi tiết nhằm hiện đại hóa các lực lượng chiến lược của Nga, theo đó đến năm 2020 phải trang bị 400 tên lửa đạn đạo liên lục địa hiện đại (ICBM). Điều này có nghĩa là trung bình mỗi năm Nga phải trang bị từ 44 - 45 tên lửa đạn đạo liên lục địa. Có không ít nghi ngờ về ngân sách và liệu ngành công nghiệp quốc phòng Nga có thể duy trì mức tăng trưởng như vậy? Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, có thể tin rằng Nga sẽ triển khai lực lượng tên lửa nói trên với quy mô nhỏ hơn. Và trong tương lai, áp lực về tài nguyên của Nga sẽ còn tăng gấp nhiều lần. Hiện Nga đang cùng lúc nghiên cứu, chế tạo và triển khai năm loại tên lửa đạn đạo liên lục địa trên đất liền (ICBM) và tên lửa đạn đạo phóng đi từ tàu ngầm (SLBM) gồm tên lửa "Yars", "Biên giới", tên lửa đạn đạo liên lục địa hạng nặng sử dụng chất lỏng mới để thay thế cho loại tên lửa đạn đạo liên lục địa hạng nặng R-36M2 "Voevoda" mà phương Tây gọi là Satana, cũng như tên lửa "The Blue" và "Bulava".
Ngoài ra, Nga cũng chi một lượng lớn tiền mặt cho hệ thống quản lý thông tin và bảo vệ hàng không vũ trụ, tái trang bị kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang thông thường, mở rộng khả năng ký các hợp đồng dịch vụ, nâng cao công tác đào tạo và khả năng sẵn sàng tác chiến, tăng phụ cấp tiền và cải thiện chế độ nhà ở cho quân nhân. Thực hiện những mục tiêu trên, với một nền kinh tế trì trệ thì viễn cảnh thâm hụt ngân sách sẽ là nhãn tiền.
Nếu có thể tiết kiệm nâng cấp lực lượng chiến lược, mà lực lượng này không bao giờ thực sự tham chiến (trong thực tế đây là lực lượng răn đe hạt nhân), thì số tiền này có thể được dùng cho các nhu cầu quân sự khác, mà trước hết - cho các lực lượng vũ trang thông thường, bởi rất có thể các lực lượng này có khả năng phải tham gia cuộc chiến thực sự ở quy mô khu vực hoặc toàn cầu. Đơn giản nhất để tiết kiệm tiền mà không làm mất tính cân bằng chiến lược và sự ổn định, đó là nên theo đuổi Hiệp ước cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược (START).
Đối với Mỹ, sau năm 2020, nước này cũng sẽ học tập Nga lần lượt nâng cấp các lực lượng chiến lược của mình. Theo đó, từ đầu thập kỷ tới sẽ nghiên cứu chế tạo một mẫu máy bay ném bom mới, sau năm 2030 chế tạo thế hệ tiếp theo của ICBM trên đất liền, và sau đó là hệ thống tên lửa trên biển để thay thế tên lửa "Trident". Để hoàn thành tiến trình này, theo ước tính sơ bộ, Mỹ sẽ phải mất hơn 900 tỷ USD. Trong bối cảnh đang phải đối mặt với tình trạng thâm hụt ngân sách và vấn đề nợ công, Washington cần hết sức tiết kiệm, kể cả đối với các chương trình mang tầm chiến lược. Và chỉ có một Hiệp ước START mới thay thế cho Hiệp ước START hiện tại sẽ hết hạn vào năm 2020, mới có thể giúp Nga và Mỹ cùng tiết kiệm ngân sách. Nga cũng không nên thờ ơ với quy mô hiện đại hóa các lực lượng hạt nhân chiến lược (SNF) của Mỹ cũng như những hệ thống thay thế hiện tại. Bởi vì điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến chi phí của Nga trong việc duy trì sự cân bằng, ảnh hưởng đến "sức sống" của lực lượng răn đe của Nga, cũng có nghĩa là sự ổn định của cân bằng chiến lược. Bởi vậy Hiệp ước START tiếp theo có thể đóng một vai trò quan trọng.
Tuy nhiên, gần đây xuất hiện dấu hiệu cho thấy Mỹ đang rời bỏ tiến trình cắt giảm vũ khí chiến lược, sau khi hồi mùa Hè vừa qua Moskva tỏ ra thờ ơ với đề nghị của Washington về giảm trần đầu đạn hạt nhân từ 1550 xuống còn 1000 đơn vị. Trong tháng 11/2013, Lầu Năm Góc đã tỏ ra bi quan về triển vọng có thể ký một thỏa thuận mới với Nga về vấn đề này. Và có lẽ, Mỹ đã chọn con đường hiện đại hóa các lực lượng hạt nhân chiến lược của mình, trong trường hợp không thể ký một văn bản (START) mới với Nga sau năm 2020 và khi đó sẽ rảnh tay hành động. Một thế hệ mới các chính trị gia và chuyên gia thường có vẻ như đều có cảm tưởng rằng lịch sử bắt đầu từ chính họ, và họ không quan tâm tới quá khứ cũng như không "đếm xỉa" gì tới giá trị của lịch sử. Trong khi đó, lịch sử gần nửa thế kỷ các cuộc đàm phán giữa hai cường quốc về vũ khí chiến lược cho thấy Nga và Mỹ đã lần lượt đổi vai cho nhau trong việc thể hiện sự quan tâm tới vấn đề này nói chung, cũng như các vấn đề kỹ thuật và hệ thống vũ khí cụ thể nói riêng. Trong thập kỷ qua, Moskva đã nỗ lực hết sức nhằm tìm cách đạt được một văn bản hiệp ước mới với Mỹ, trong khi Mỹ gần như không quan tâm đến điều đó. Đến thời điểm này, tình hình đã đảo ngược. Có khả năng là trong những năm tới, tình thế này sẽ lại một lần nữa thay đổi, mặc dù vị thế của Nga lúc đó tương đối lép vế hơn so với hiện nay: kết quả thực hiện Chương trình Vũ khí Nhà nước (của Nga) đến năm 2020 đã trở nên rõ ràng, trong khi đó Mỹ chỉ mới bắt đầu Kế hoạch hiện đại hóa các lực lượng chiến lược kéo dài 20 năm của họ. Dù sao, trong tương lai xa, để đạt được "giấc mơ" giải trừ hoàn toàn vũ khí hạt nhân, nó có thể sẽ gây ra những cuộc tranh luận nảy lửa giữa Nga và Mỹ.
Chặng đường tiêu hủy tên lửa-hạt nhân
Từ năm 2009, Moskva đặc biệt quan tâm tới việc phát triển hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia (NMD). Khi đó, Nga đề xuất đến điều kiện đòi hỏi Mỹ phải có cam kết bằng văn bản pháp lý đảm bảo rằng NMD của Mỹ "không nhằm vô hiệu hóa" các lực lượng tên lửa phòng thủ của Nga. Và đây thực chất là một hiệp ước mới về phòng thủ tên lửa. Tháng 11/2011, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev cho rằng: "Những cam kết này phải được hình thành trên cơ sở pháp lý một cách chặt chẽ. Đó không thể là những lời hứa suông mà phải là những đảm bảo chắc chắn và có tính khách quan, theo đó trước hết phải quy định rõ các tiêu chuẩn về kỹ thuật-quân sự... Những cam kết này phải bảo đảm NMD của Mỹ và NATO nếu triển khai ở châu Âu sẽ không gây tổn hại tới lợi ích của Nga, cũng như không được phép làm mất thế cân bằng hạt nhân chiến lược của Nga".
Chính quyền Obama đã không chấp nhận điều kiện này (và giả sử nó có được soạn ra thì Quốc hội cũng sẽ không phê chuẩn). Nhưng công bằng mà nói, các cuộc đối thoại về phòng thủ tên lửa giữa Nga và Mỹ tuy không mang lại kết quả mong đợi, song cũng không phải hoàn toàn vô ích.
Chính quyền Obama đã hai lần đơn phương rà soát lại các chương trình này. Trong năm 2009, Mỹ đã buộc phải hủy bỏ kế hoạch triển khai một số bộ phận cấu thành NMD cũng như hệ thống radar phòng thủ tại Cộng hòa Czech và Ba Lan, bởi chúng đã gây sự phản ứng mạnh mẽ từ phía Nga. Sau đó, vào đầu năm 2013, Mỹ bỏ qua giai đoạn thứ tư kế hoạch triển khai NMD theo từng giai đoạn tại châu Âu (giai đoạn này chủ yếu nhằm triển khai các thành tố của NMD tại Ba Lan và vùng biển phía Bắc). Giai đoạn này đặc biệt gây nguy hiểm cho Nga, khi mà quỹ đạo của ICBM xuất phát từ các căn cứ quân sự ở phía Tây của đất nước theo hướng Bắc Đại Tây Dương.
Mặc dù đối với Quốc hội (Mỹ), vốn coi NMD là một hệ thống "màu nhiệm", thì những quyết định mà cơ quan này đưa ra cũng đều phải dựa trên các thông số kỹ thuật, mà trong đó không thể không tính đến mối quan tâm của Nga. Điều này được chứng minh bằng một tình tiết hồi năm 2012, khi Tổng thống Mỹ nói nhỏ với Medvedev rằng: "Ông hãy chuyển lời tới ông Vladimir Putin rằng sau bầu cử (tổng thống Mỹ), tôi có thể được quyền linh hoạt hơn về NMD". Song vô tình câu nói này đã được micro tăng âm, và dẫn đến một loạt cuộc công kích nhằm vào Obama. Trong lịch sử các cuộc đối thoại chiến lược giữa hai cường quốc hạt nhân, chưa bao giờ Moskva và Washington nhất trí với nhau về các bước đi quân sự, chỉ có duy nhất một ngoại lệ là vào năm 1991, Nga đã ủng hộ một sáng kiến của Mỹ để cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến thuật.
Ngoài ra, trong Hiệp ước START năm 2010, Mỹ đã nhượng bộ trước sự chỉ trích mạnh mẽ của Quốc hội trong quá trình phê duyệt hiệp ước này. Cụ thể, điều 5, khoản 3 của Hiệp ước nêu: "Mỗi bên không được chuyển đổi và không được sử dụng bệ phóng của ICBM và SLBM để triển khai lắp đặt thay thế cho nhau". Điều này có nghĩa là hàng trăm tên lửa "Minuteman", hay các tên lửa đánh chặn SM-3 Block IIB (Standard Missile-3 Block IIB) của Mỹ cũng chưa chắc đã bảo vệ được vùng trời nước Mỹ. Tuy nhiên, Moskva cho rằng những nhượng bộ nói trên của Mỹ là không đủ. Rõ ràng, không chỉ các đánh giá chiến lược đóng vai trò quyết định trong vấn đề này, mà các lý do chính trị còn được coi trọng hơn. Hơn nữa tất cả các chuyên gia có thẩm quyền nhất tại Nga, đều có chung một nhận định rằng NMD của Mỹ, nếu phát triển theo đúng dự định, sẽ không thể làm suy yếu tiềm năng răn đe hạt nhân của Nga, trong điều kiện lực lượng chiến lược này của Nga cũng được nâng cấp đúng theo kế hoạch. (Điều này trước đây đã được những các chuyên gia nổi tiếng đề cập. Đó là các Tổng Công trình sư chế tạo tên lửa Yuri Solomonov và Gerbert Yefremov; các vị tướng lĩnh Viktor Esin, Vladimir Dvorkin, Pavel Zolotarev, Valentin Kuznetsov, cùng các chuyên gia dân sự, như Viện sĩ Sergei Rogov và nhiều người khác).
Một điều nữa là ý tưởng phát triển hệ thống phòng thủ tên lửa chung, rõ ràng là quá sớm và thậm chí trong một chừng mực nào đó, nó thậm chí còn là điều không tưởng. Trước hết, việc xây dựng NMD chung sẽ vấp phải hai trở ngại cơ bản về chính trị và chiến lược. Đầu tiên là trở ngại chính trị. Trên thực tế, hệ thống phòng thủ tên lửa chung có nghĩa là một bên "đặt cược" cuộc sống của hàng triệu công dân của mình phụ thuộc vào sự cam kết chính trị và các thông số kỹ thuật của NMD của bên kia. Phụ thuộc lẫn nhau như thế khác nào một mối quan hệ đồng minh chặt chẽ, trong đó không nên chỉ bó gọn trong lĩnh vực quốc phòng, mà còn cần phải có chí hướng chung trong các chính sách đối ngoại và quân sự. Ngay cả các hệ thống phòng thủ tên lửa hiện tại của Mỹ ở châu Âu và khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng không phải là một hệ thống cho phép hợp tác với các đồng minh theo đúng nghĩa của nó, trong khi hệ thống này của Mỹ, một phần được đặt tại lãnh thổ các nước đồng minh, và một số thành tố khác lại được các đồng minh khai thác sử dụng hoặc tăng cường cho hệ thống của họ.
Nga và Mỹ không có mối quan hệ như vậy, và trong tương lai gần cũng chưa thể có được điều này. Trong nhận thức muộn màng, rõ ràng sẽ thật là ngây thơ khi nghĩ rằng bằng các giải pháp kỹ thuật có thể giúp một số yếu tố của NMD ăn nhập với nhau, cũng như có thể phá vỡ thực tế quân sự-chính trị mang tính nền tảng như mối quan hệ giữa hai nước hiện nay. Rõ ràng, Mỹ mở rộng hệ thống NMD của mình nhằm bảo vệ mình và các đồng minh chống lại tên lửa từ Iran , Triều Tiên, và tuy không chính thức công nhận, song phía sau hậu trường, rõ ràng, NMD của Mỹ còn nhằm chống lại Trung Quốc. Nga chưa bao giờ chính thức thừa nhận mối đe dọa đối với nền an ninh từ các nước này. Tuy nhiên, Moskva đã nhiều lần bày tỏ quan ngại về tiềm năng tên lửa hạt nhân của Pakistan , Israel , Anh, Pháp... Có một điều lạ lùng là trong các cuộc đàm phán từ 2009-2011, Nga và Mỹ đều không nhắc tới khái niệm "khu vực" khi bàn về vấn đề xây dựng Hệ thống phòng thủ tên lửa chung. Nếu được yêu cầu bảo vệ lẫn nhau chống lại tên lửa bay qua lãnh thổ của một bên về phía bên kia, điều đó có nghĩa là Nga có thể đã sẵn sàng để đánh chặn ICBM của Trung Quốc bay qua không phận của mình về hướng Mỹ hoặc Tây Âu? Và nếu như vậy, thì nó có thể có nghĩa gì ngoại trừ đó chính là một mối quan hệ liên minh giữa Nga với NATO để chống lại Trung Quốc? Hoặc điều đó hàm chứa ý định tạo ra một hệ thống phòng thủ tên lửa riêng của châu Âu, tách biệt khỏi châu Á? Và như vậy khác nào chấp nhận sự vô lý nếu soi rọi dưới quan điểm về sự cấp thiết phải tăng cường hợp tác toàn cầu, tăng cường khả năng hoạt động của một hệ thống phòng thủ tên lửa trong không gian toàn cầu với chế độ hoàn toàn tự động.
Trở ngại thứ hai là ở khái niệm chiến lược của một hệ thống phòng thủ tên lửa chung, ở trạng thái quan hệ quân sự-chính trị giữa Nga với Mỹ và NATO, dựa trên nền tảng răn đe hạt nhân lẫn nhau. Đằng sau khái niệm này là một hiện thực hết sức tàn nhẫn: hàng nghìn tên lửa với đầu đạn hạt nhân cho đến nay vẫn còn đang nhằm vào nhau và có khả năng hủy diệt hàng chục triệu công dân của phía bên kia chỉ trong vài giờ giao chiến (nên nhớ đó là một cuộc chiến tranh hạt nhân - chiến tranh hủy diệt). Trong nhiều thập kỷ sau Chiến tranh Lạnh, tiềm năng hủy diệt hạt nhân đã được giảm đáng kể, và sự răn đe về thực chất cũng đã được kiềm tỏa trong một trật tự chính trị nhất định. Nhưng hiểm họa về một cuộc chiến hạt nhân chưa bao giờ mất đi, và nó vẫn hiện hữu trong mối quan hệ chiến lược giữa các cường quốc. Thời gian gần đây trong nền chính trị Nga, người ta nhấn mạnh tới yếu tố tăng cường răn đe hạt nhân, cả về kỹ thuật cũng như trên "mặt trận tuyên truyền". Chẳng hạn, trong bài phát biểu tranh cử hồi năm 2012, Vladimir Putin đã nhấn mạnh rằng sẽ không thể có một thế lực nào dám mở một cuộc xâm lược quy mô lớn nhằm vào Nga, khi mà Nga còn đang sở hữu vũ khí hạt nhân - lực lượng răn đe chiến lược. Ông khẳng định: "Các lực lượng vũ trang thông thường vẫn tiếp tục giữ vai trò và tầm quan trọng nhất định bên cạnh lực lượng răn đe hạt nhân chiến lược. Trong mọi trường hợp và cho đến thời điểm này, cho dù chúng ta chưa có thêm loại vũ khí mới nào khác, thì đó vẫn là các tổ hợp vũ khí tấn công chiến lược thế hệ tiên tiến".
Các bài hùng biện chính thức của Mỹ tuy ít nhắc tới sự răn đe hạt nhân, nhưng rõ ràng họ cũng sẽ không từ bỏ lực lượng chiến lược này. Như học thuyết quân sự Mỹ hiện nay nêu rõ "chừng nào vũ khí hạt nhân còn tồn tại, thì vũ khí hạt nhân của Mỹ sẽ còn giữ vai trò mang tính nền tảng trong việc ngăn chặn mọi cuộc tấn công hạt nhân vào nước Mỹ, cũng như các đồng minh và đối tác của Mỹ". Trong những điều kiện như vậy, để tạo dựng thành công một hệ thống phòng thủ tên lửa chung, thì cũng thật đáng nghi ngờ, nếu không muốn nói một cách bi quan hơn là khó lòng đạt được. Người ta có thể thành lập các trung tâm trao đổi dữ liệu chung về các vụ phóng tên lửa, chứ chưa thể xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa chung, ngay cả khi chỉ để cảnh báo về những vụ tấn công tên lửa. Trên thực tế, trong thập kỷ vừa qua đã có một dự án hợp tác mang tầm chiến thuật về hệ thống phòng thủ tên lửa chung, trong đó các chuyên gia về công nghệ thông tin của Nga, Mỹ và các nước NATO cùng nhau nghiên cứu. Nhưng tình hình chính trị thời điểm đó cũng khả quan hơn lúc này, nhất là khi hai bên còn ký được Hiệp ước về thủ tiêu tên lửa tầm trung và tầm ngắn hồi cuối năm 1987, theo đó, Nga và Mỹ nhất trí thủ tiêu hoàn toàn tên lửa trên đất liền, vốn có thể trở thành mục tiêu đánh chặn của các hệ thống phòng thủ tên lửa chiến thuật. Nhờ đó mà không phát sinh những mâu thuẫn do các vụ tấn công bằng tên lửa từ hai phía nhằm vào nhau. Tuy nhiên, thực tế cho thấy để đạt được sự thống nhất đối với những hệ thống phòng thủ mang tầm chiến lược, thì vấn đề lại hoàn toàn khác.
Có thể, nếu tính đến ý chí chính trị của các chính phủ, giới chuyên gia có thể soạn thảo một "lộ trình" hình thành hệ thống NMD theo từng giai đoạn, song song với việc cùng cắt giảm vũ khí hạt nhân. Nhưng bây giờ, các chuyên gia dự đoán rằng không những Nga và Mỹ không tiến tới tái lập quan hệ đối thoại quân sự, mà chẳng bao lâu nữa, còn đi theo hướng ngược lại. Vì sao lại có những phán đoán như vậy? Là bởi vì tình hình lúc này đã hoàn toàn thay đổi so với những năm 2010-2011. Trên thực tế, Moskva liên tục lên tiếng phản đối NMD của Mỹ và NATO. Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu mới đây nhấn mạnh rằng: "Có những vấn đề hết sức nan giải trong quan hệ giữa Nga và NATO, mà một trong số đó là Hệ thống phòng thủ tên lửa ở châu Âu. Hợp tác cùng xây dựng hệ thống này đã không thể có được, tuy chương trình NMD ở châu Âu đã được khởi động, song nỗ lực của chúng tôi, ý kiến của chúng tôi đã không được coi trọng, không được tính đến... Chúng tôi trước sau như một vẫn luôn ủng hộ quan hệ hợp tác cùng có lợi trong việc triển khai NMD... Nhưng trước khi triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa chung, chúng ta cần một sự đảm bảo pháp lý vững chắc và đáng tin cậy rằng NMD của Mỹ sẽ không được sử dụng chống lại khả năng răn đe hạt nhân của Nga". Nguyên tắc trên luôn được tôn trọng, nhưng trong thực tế, các nhà lãnh đạo Nga lúc này dường như không còn quan tâm đến ý tưởng thành lập một hệ thống phòng thủ tên lửa chung tại châu Âu, cũng như tất cả các cuộc đàm phán với Mỹ về chủ đề này. Điều này được chứng minh bằng thực tế, khi mà hồi tháng 10 vừa qua, báo chí Nga đưa tin Tổng thống Putin đã ra lệnh giải tán Nhóm công tác liên ngành do Phó Thủ tướng Dmitry Rogozin đứng đầu, chịu trách nhiệm đàm phán với Mỹ và NATO về vấn đề nói trên.
Những ưu tiên mới
Hoàn toàn có thể đoán định nguyên nhân vì đâu xảy ra tình huống trên. Trước hết, hiện nay trên thế giới không chỉ có hệ thống phòng thủ tên lửa lớn của Mỹ, mà là hai hệ thống lớn của Mỹ và Nga (vốn phát triển từ các chương trình phòng không-vũ trụ). Tháng 4/2011, trong một cuộc họp, Bộ Quốc phòng Nga đã quyết định thành lập Lực lượng Phòng thủ Hàng không-vũ trụ, với tiền thân là Lực lượng Vũ trụ. Quyết định này đã được chuẩn y bằng một sắc lệnh của Tổng thống Nga (D. Medvedev) ban hành sau đó 1 tháng. Chương trình nghiên cứu và triển khai các đơn vị của Lực lượng Phòng thủ Hàng không-vũ trụ Nga được cấp nguồn kinh phí lớn nhất, vào khoảng 20% kinh phí trong tổng thể Chương trình Vũ khí Nhà nước đến năm 2020, tương đương 3.400 tỷ rúp (106 tỷ USD). Trong khuôn khổ các chương trình phát triển Lực lượng Phòng thủ Hàng không - vũ trụ, ngoài việc nâng cấp Hệ thống cảnh báo các vụ tấn công bằng tên lửa sẵn có, Nga còn chú trọng xây dựng thêm các hệ thống cảnh báo sớm khác. Tăng cường trang thiết bị cho lực lượng này. Tuy việc tăng cường này có thể khiến không ít chuyên gia nghi ngờ về nguồn kinh phí cho mục tiêu này đến hết năm 2020, song hoàn toàn có đủ lý do để tin rằng việc trang bị vũ khí với quy mô lớn cho Lực lượng Phòng thủ Hàng không-vũ trụ của Nga là chương trình được ưu tiên nhất.
Đương nhiên, có thể thấy rõ việc Nga sẽ không cùng Mỹ và NATO tiếp tục dự án xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa chung ở châu Âu nữa. Lúc này chỉ có thể nói về khả năng tương thích giữa một số yếu tố hoặc thành tố của hai hệ thống này mà thôi. Nhưng cũng có thể biết trước rằng nó sẽ bị cản trở bởi những trở ngại chính trị và chiến lược. Hơn nữa, nếu NMD của Mỹ vốn chính thức được tạo ra để bảo vệ nước này trước nguy cơ từ các nước thứ ba (mặc dù Nga nghi ngờ rằng nó chống lại Nga), thì Lực lượng Phòng thủ Hàng không-vũ trụ (Nga) cũng đã được thành lập nhằm công khai chống Mỹ. Đương nhiên ý tưởng kết hợp hai hệ thống như vậy quả là không thể. Tháng 6/2013, khi đến thăm Nhà máy chế tạo tên lửa phòng không, Tổng thống Putin nói: "Hiệu quả chính của Lực lượng Phòng thủ Hàng không-vũ trụ Nga là đảm bảo sự ổn định của lực lượng răn đe chiến lược của chúng ta, bảo vệ đất nước trước mọi cuộc tấn công bằng các phương tiện hàng không-vũ trụ". Ông khẳng định: "Không một quốc gia nào trên thế giới, trừ Mỹ, có khả năng đe dọa sự ổn định của lực lượng hạt nhân chiến lược của Nga, và không quốc gia nào có đủ phương tiện để tấn công Nga từ trên không và vũ trụ".
Thứ hai, khi chọn xây dựng Lực lượng Phòng thủ Hàng không-vũ trụ Nga, giới chức nước này có thể đã phán xét rằng Mỹ không chỉ từ bỏ ý tưởng xây dựng một mô hình NMD chung rất ưu việt, mà còn tỏ ra lạnh nhạt với quan điểm của Nga đòi hỏi một sự "bảo đảm pháp lý để NMD của Mỹ không nhằm vào Nga". Tất nhiên, Moskva có thể đã không cản trở NMD của Mỹ, chừng nào Mỹ không cản trở Lực lượng Phòng thủ Hàng không-vũ trụ của Nga (nếu nó không nhằm vào Mỹ), song trên thực tế, điều đó là không có, bởi Nga thành lập lực lượng này thực chất là để công khai chống Mỹ.
Trong khi đó, Washington không thể hiện sự quan tâm đến các hiệp định như vậy cũng như không tỏ rõ vì sao lại không lo lắng về Lực lượng Phòng thủ Hàng không-vũ trụ của Nga, (cũng như các chương trình vũ khí tấn công chiến lược của Nga). Điều này có nghĩa rằng Mỹ hoặc không theo đuổi mục tiêu tìm cách chống lại Nga, hoặc coi những biện pháp của Nga là kém hiệu quả? Cả hai phương án trên đều đòi hỏi ở Moskva một sự phân tích hết sức nghiêm túc để có câu trả lời chính xác. Trong bài phát biểu của mình hồi năm 2012, Tổng thống Putin nhấn mạnh rằng: "Cam kết bảo đảm không phá vỡ sự cân bằng trên toàn cầu, thậm chí còn cho phép tạo ra một phương thức nào đó, giúp đảm bảo nền an ninh quốc tế một cách hiệu quả và ít tốn kém hơn cả NMD. Và chương trình cho phép bảo vệ Nga trước mọi cuộc tấn công bằng tên lửa, không gì khác hơn, chính là Lực lượng răn đe hạt nhân chiến lược và Lực lượng Phòng thủ Hàng không-vũ trụ mà Nga mới thành lập".
Nếu NMD được coi là "tốn kém và không hiệu quả", thì chương trình phòng thủ hàng không-vũ trụ của Nga cũng không nhằm xây dựng hệ thống NMD để bảo vệ các kho vũ khí hạt nhân chiến lược của Nga trước các cuộc tấn công bằng tên lửa đạn đạo chiến lược mang đầu đạn hạt nhân trên đất liền và trên biển của Mỹ. Trước đây, những loại tên lửa mang đầu đạn như vậy bao giờ cũng bị liệt vào diện nguy cơ tiềm tàng đối với Liên Xô/Nga. Nhiệm vụ chính hiện nay của Nga là bảo vệ lực lượng hạt nhân chiến lược trước sự tấn công của các hệ thống siêu chính xác có thể bắn tới Nga từ xa.
Rõ ràng, những loại vũ khí tối tân có thể nhằm vào các mục tiêu của Nga từ xa không phải là hệ thống NMD của Mỹ (đặt tại châu Âu), song các nhà lãnh đạo Nga vẫn coi NMD là hiểm họa quân sự chính yếu nhằm vào các công trình công nghệ cao. Có lẽ, ông Putin đã ám chỉ các hệ thống phòng thủ tên lửa này khi viết trong bài phát biểu của mình rằng: "Tất cả các loại vũ khí này, cùng với vũ khí hạt nhân có thể cho phép (NMD) đạt tới các thành tố mới về chất giúp Mỹ đạt được các mục tiêu chính trị và chiến lược. Những hệ thống vũ khí tương tự như vậy có thể đạt hiệu quả tương đương với sử dụng vũ khí hạt nhân, nhưng nó lại được 'chấp nhận' trên các phương diện chính trị và quân sự. Tóm lại, vai trò cân bằng chiến lược của lực lượng hạt nhân đang dần giảm sút trong việc ngăn chặn các cuộc xâm lược và tình trạng hỗn loạn".
Có thể nói sự tụt hậu về công nghệ của Nga thật đáng lo ngại, trong bối cảnh vai trò răn đe của lực lượng hạt nhân, (lực lượng vốn được giới chức Nga trông đợi nhiều nhất), đang bị giảm sút, thì đây thực sự là một viễn cảnh đáng báo động. Ngoài ra, những hệ thống tiên tiến lại mang đến sự bấp bênh nhiều nhất về cân bằng chiến lược và việc tính toán chính xác thế nào là vừa mức "răn đe hạt nhân". Và tình hình diễn biến càng phức tạp, thì những cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí lại càng trở nên cần thiết. Thậm chí cần phải duy trì thực hiện những thỏa thuận hiện hành như Hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung và tầm ngắn ký năm 1987 và Hiệp ước cắt giảm vũ khí tấn công chiến lược mới (START) ký năm 2010./.
Theo "Báo Độc lập" (Nga) (ngày 3/12)
Lê Sơn (gt)
Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông là chuỗi hội thảo thường niên do Học viện Ngoại giao (DAV) tổ chức, với mục tiêu thúc đẩy đối thoại chuyên sâu, cởi mở và thẳng thắn về những diễn biến đa chiều liên quan đến Biển Đông.
Ngày 1 tháng 7 năm 2022, Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao đã tổ chức kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Viện. Ngày 12 tháng 7 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định thành lập Viện Biển Đông, trực thuộc Học viện Ngoại giao, là đơn vị chuyên nghiên cứu về các vấn đề bảo vệ biển, đảo,...
Nhằm đẩy mạnh phong trào nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề liên quan đến Biển Đông cũng như tình hình khu vực và thế giới trong sinh viên đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng, Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông ban hành Quy định về Chương trình Học bổng Thắp sáng Đam mê Nghiên cứu Biển Đông.
Bất kể lo ngại về cam kết của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nước Mỹ dưới Chính quyền Joe Biden thực sự đã “quay lại”.
Chỉ trong vòng 1 tuần từ ngày 28/7 đến ngày 4/8, Cục Hải sự tỉnh Hải Nam và tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) liên tục ra 10 thông báo về các cuộc tập trận quân sự trên biển. Đáng chú ý nhất trong số đó là cuộc tập trận phạm vi lớn nhất trên Biển Đông kéo dài từ ngày 6-10/8. Các chuyên gia của Trung Quốc...