060205-N-7130B-036.jpg

Mỹ sẽ làm gì nếu Trung Quốc tiếp tục xây dựng đảo trên bãi cạn Scarborough, tuyên bố một Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Trường Sa, hoặc bằng cách nào đó thẳng thừng tiến hành các bước đi nhằm củng cố quyền lực hơn nữa ở Biển Đông bất chấp luật pháp quốc tế và những đòi hỏi của Mỹ? Tổng thống Obama phải suy nghĩ điều này một cách rất cẩn thận khi ông tới thăm Trung Quốc lần cuối cùng với tư cách là tổng thống, vì điều đó trở thành câu hỏi quyết định tương lai mối quan hệ Mỹ-Trung.

Câu hỏi này hầu như không mang tính giả thuyết. Quả thực, nó vốn đã được nêu lên, mặc dù theo cách thức rõ ràng là khá ngẫu nhiên, ở cấp quân sự cao nhất, như tờ New York Times đã đưa tin một vài tháng trước. Tướng Dunford hỏi Đô đốc Harris trong cuộc đối thoại mà một phóng viên tình cờ nghe được: “Liệu ông có tiến hành cuộc chiến đối với bãi cạn Scarborough hay không?”. Nếu Đô đốc Harris trả lời, thì câu trả lời có lẽ không được nghe thấy”.

Câu hỏi xuất hiện bởi trong suốt một vài tháng qua, Washington có vẻ cảnh báo, bằng lời nói và hành động, rằng họ sẵn sàng sử dụng lực lượng vũ trang để ngăn chặn Bắc Kinh siết chặt quyền lực ở Biển Đông. Điều đó được cho là ý nghĩa của các hoạt động triển khai mở rộng của hai Nhóm tác chiến tàu sân bay, các chuyến thăm cấp cao và những tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng, những phát biểu thường xuyên của các sĩ quan quân đội Mỹ cấp cao, và một cuộc hội đàm qua điện thoại giữa Tổng thống Obama và Chủ tịch Tập Cận Bình.

Việc đưa ra kiểu cảnh báo này là một bước đi rất đáng lo ngại. Điều gì có thể nghiêm trọng hơn đối với một Tổng thống Mỹ ngày nay so với việc quyết định liệu, và trong hoàn cảnh nào, Mỹ có nên tiến hành chiến tranh với Trung Quốc hay không. Tuy nhiên, những cảnh báo này được đưa ra mà không có câu hỏi rõ ràng được thảo luận một cách nghiêm túc giữa các nhà phân tích và hoạch định chính sách Mỹ - chắc chắn không công khai, và cũng không riêng tư, như người ta có thể đánh giá từ giọng điệu dường như thoải mái trong thắc mắc của Tướng Dunford.

Vậy đây là những cảnh báo nghiêm túc, hay chỉ là “khoác lác”?

Phần lớn người dân ở Washington dường như giả định rằng họ sẽ không bao giờ đi đến thử thách này, vì Trung Quốc sẽ không bao giờ dám chiến đấu với Mỹ. Họ nghiễm nhiên cho rằng Trung Quốc sẽ luôn lùi bước trước khi Mỹ phải suy nghĩ nghiêm túc về việc liệu có tiến hành chiến tranh hay không.

Nhưng họ có thể đã sai. Trung Quốc đã đưa ra những cảnh báo cứng rắn của riêng mình, đe đọa sử dụng vũ lực chống lại bất kỳ sự can thiệp nào với tuyên bố chủ quyền của nước này ở Biển Đông. Điều đó cho thấy rằng họ giả định Mỹ sẽ lùi bước, như người Mỹ giả định rằng Trung Quốc sẽ làm vậy – một ví dụ kinh điển về sự phản chiếu hình ảnh giữa các đối thủ.

Chẳng ai phải ngạc nhiên khi Trung Quốc suy nghĩ theo hướng này. Giả định của họ có thể được củng cố bởi toàn bộ hình thái của các sự kiện bao gồm thất bại “Giới hạn đỏ” ở Syria, sự quở trách thận trọng của Obama xung quanh vấn đề Crimea và Ukraine, những xu hướng theo chủ nghĩa biệt lập trong các chiến dịch bầu cử sơ bộ ở Mỹ trong năm nay, và chính các hoạt động tự do hàng hải có phần thận trọng của Mỹ ở Biển Đông. Và tất nhiên, cuối cùng người Trung Quốc tin rằng các vấn đề được bàn đến có ý nghĩa quan trọng với họ nhiều hơn so với Washington.

Điều quan trọng là phải làm rõ những vấn đề đó là gì. Chúng không phải về các đá và bãi ngầm ở Biển Đông, hoặc thậm chí về những nguyên tắc rộng lớn hơn của luật biển quốc tế. Những vấn đề đó đơn giản là đang được sử dụng, bởi cả 2 bên, trong một cuộc cạnh tranh sâu sắc hơn nhiều xung quanh tương lai của trật tự khu vực châu Á và vai trò tương ứng của họ trong đó. Cuộc cạnh tranh này đơn giản và rất rõ ràng: Mỹ muốn duy trì sức mạnh chiến lược hàng đầu ở châu Á, và Trung Quốc muốn thay thế nước này. Những lợi ích do đó rất lớn – đặc biệt là đối với Trung Quốc, theo quan điểm của Bắc Kinh.

Khi ông Obama lần đầu tiên tới thăm Bắc Kinh với tư cách là tổng thống vào năm 2009, ông đã hy vọng và mong đợi rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục chấp nhận trật tự khu vực châu Á lâu đời dựa trên sự lãnh đạo chiến lược của Mỹ. Phần lớn tư duy của Mỹ về, và các chính sách hướng tới, Trung Quốc vẫn giả định rằng có thể nhẹ nhàng thuyết phục Bắc Kinh làm điều đó.

Nhưng tất cả bằng chứng giờ đây đều chỉ sang hướng khác. Trung Quốc dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình không chấp nhận trật tự khu vực do Mỹ dẫn dắt. Thay vào đó nước này muốn xây dựng một trật tự mới ở châu Á, dựa trên cái mà Tập Cận Bình gọi là “mô hình quan hệ nước lớn kiểu mới”. Cả hai bên đã chọn cách sử dụng các tranh chấp biển ở Biển Đông để thúc đẩy lập trường của mình. Cách ứng xử quyết đoán của Bắc Kinh thể hiện họ là cường quốc mới xác lập và khả năng của nước này – ít nhất là cho đến nay – thách thức sự chỉ trích của Washington. Washington đã sử dụng cách ứng xử của Bắc Kinh nhằm khơi dậy mối quan ngại của châu Á về tham vọng của Bắc Kinh, tập hợp sự ủng hộ chống lại nước này, và gần đây nhất là “vạch ra ranh giới vô hình” để cảnh báo Bắc Kinh không tiến xa hơn.

Nhưng nếu Tập Cận Bình kết luận rằng những cảnh báo của Washington là “khoác lác”, ông sẽ muốn tìm cách làm bẽ mặt Obama, hoặc người kế nhiệm ông này, bằng cách hành động khiêu khích công khai như xây dựng một căn cứ trên bãi cạn Scarborough khiến Mỹ phải chứng tỏ họ không nói chơi.

Và khi đó Washington sẽ làm gì? Bước đi đầu tiên có thể là áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế và ngoại giao. Người ta có thể tưởng tượng chúng có lẽ bao gồm việc ngừng các cuộc đàm phán về Hiệp định đầu tư song phương (BIT) và hủy vòng đàm phán tiếp theo của Đối thoại Chiến lược và Kinh tế. Nhưng không ai có thể kỳ vọng một cách nghiêm túc rằng Trung Quốc sẽ oằn mình dưới áp lực yếu ớt như vậy.

Vì vậy câu hỏi hóc búa này phải có câu trả lời. Chúng ta có thể hình dung ra cảnh tượng trong Phòng Tình huống. Các cố vấn ngoại giao và chiến lược nhắc nhở tổng thống rằng đây không phải là về các đảo hoặc vùng biển của người khác: uy tín của Mỹ và tương lai quyền lãnh đạo của nước này ở châu Á đang gặp nguy. Lùi bước và để cho Trung Quốc coi thường những cảnh báo của Washington sẽ hủy hoại toàn bộ vị trí của Mỹ ở châu Á, và củng cố vị trí của Trung Quốc. Những nguy cơ do đó là rất lớn, và lập luận ủng hộ hành động quân sự trở nên rõ ràng vì lẽ đó.

Nhưng lời khuyên về mặt quân sự cũng rõ ràng không kém: quyết định tiến hành chiến tranh là vô cùng rủi ro và rất tốn kém. Hầu như không có cơ hội nào cho một chiến thắng nhanh chóng, ít tốn kém, và sạch sẽ. Trái lại, triển vọng là tình trạng bế tắc, hoặc leo thang, hoặc cả hai. Mỹ sẽ mất số lượng đáng kể tàu chiến và máy bay. Các đồng minh như Úc và thậm chí cả Nhật Bản cũng đều miễn cưỡng bị kéo vào. Đây sẽ là sự can dự quân sự nghiêm trọng nhất của Mỹ ít nhất là kể từ sau Việt Nam. Không ai có thể nói nó sẽ kết thúc như thế nào. Và không ai có thể hoàn toàn chắc chắn rằng nó sẽ kết thúc trước khi leo thang tới ngưỡng hạt nhân.

Sau đó các cố vấn kinh tế phụ họa theo, cảnh báo thẳng thừng rằng hậu quả kinh tế toàn cầu của ngay cả một sự gián đoạn ngắn ngủi trong quan hệ kinh tế Mỹ-Trung cũng không thể đếm xuể, nhưng rõ ràng là tồi tệ hơn rất nhiều so với Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Và các cố vấn chính trị tự hỏi làm thế nào để có thể thuyết phục cử tri Mỹ về tất cả những điều này.

Khi đó, và chỉ khi đó, với những thực tế khắc nghiệt này đặt trên bàn, liệu tổng thống có thực sự đương đầu với lựa chọn mà sẽ làm được nhiều hơn bất kỳ điều gì khác để xác định vị trí của Mỹ trên thế giới trong những thập kỷ tới hay không. Sau Chiến tranh Lạnh, dễ dàng giả định rằng Mỹ có thể vẫn mãi là cường quốc chiến lược hàng đầu ở các khu vực quan trọng như châu Á, châu Âu và Trung Đông với hầu như không có phí tổn và rủi ro. Về giả định đó, gần như tất cả mọi người đều dễ dàng nhất trí rằng việc duy trì ưu thế của Mỹ trong những khu vực này là mục tiêu không phải bàn cãi của chính sách Mỹ.

Nhưng giờ đây giả định đó rõ ràng chứng tỏ sai lầm. Tại châu Á, Mỹ một lần nữa phải đối mặt với cuộc tranh giành kinh điển về chính trị quyền lực khi nước này tìm cách bảo vệ vị trí của mình trong trật tự khu vực chống lại một đối thủ rất đáng gờm. Do đó nước này một lần nữa đối đầu với lôgích cứng rắn của hoạt động chính trị quyền lực: rằng cuối cùng vị trí của một nước trong một trật tự quốc tế được xác định bởi các vấn đề mà họ rõ ràng sẵn sàng tiến hành chiến tranh với một đối thủ nước lớn vì chúng.

Vì vậy, chẳng hạn, trật tự Chiến tranh Lạnh ở châu Âu về căn bản được xác định bởi sự sẵn sàng hiển nhiên của cả Mỹ và Liên Xô tiến hành chiến tranh với nhau nhằm ngăn chặn bất kỳ sự dịch chuyển ranh giới nào giữa các phạm vi ảnh hưởng tương ứng của họ, và trật tự đó đã sụp đổ khi điều trở nên rõ ràng là người Xôviết không còn sẵn sàng làm vậy nữa.

Khi đó, câu hỏi lớn là liệu Mỹ có sẵn sàng chiến đấu chống lại Trung Quốc để duy trì ưu thế của mình ở châu Á hay không? Câu hỏi này không thể được trả lời đơn giản bằng cách nhắc lại những đường lối cũ về tầm quan trọng của việc duy trì liên minh và duy trì trật tự dựa trên các nguyên tắc. Những điều trong phân tích cuối cùng đơn giản có nghĩa là đạt được các mục tiêu quốc gia sâu xa nhất của Mỹ, chứ không phải bản thân chúng đã là điều quan trọng.

Vậy những mục tiêu sâu xa nhất đó – an ninh lãnh thổ và sự lành mạnh của nền kinh tế nước này – thực sự được phản ánh như thế nào bởi điều xảy ra ở châu Á? Liệu Mỹ có thể vẫn an toàn và thịnh vượng ở trong nước mà không phải là cường quốc chi phối ở châu Á hay không? Liệu sự chi phối đó có thực sự quan trọng để biện minh cho phí tổn khổng lồ cho cuộc chiến với Trung Quốc mà bản thân cuộc chiến đó sẽ gây đe dọa nghiêm trọng tới cả an ninh lẫn sự thịnh vượng của Mỹ hay không? Đây là những câu hỏi mà Mỹ phải giải quyết khẩn cấp.

Trong khi đó, cần phải rất thận trọng khi đưa ra những cảnh báo cho Trung Quốc về việc Mỹ sẵn sàng sử dụng vũ lực xung quanh các sự kiện ở Biển Đông. Nếu nước này không sẵn sàng tiến hành chiến tranh thì họ nên ngừng “khoác lác”. Còn nếu họ sẵn sàng, thì cần phải làm rõ điều đó một cách triệt để và đáng tin cậy, để Bắc Kinh không thể nghi ngờ gì nữa. Sự mập mờ hiện tại về giải pháp của Mỹ là tình huống nguy hiểm nhất có thể có./.

Tác giả Hugh White là Giáo sư về nghiên cứu chiến lược tại Đại học Quốc gia Úc. Bài viết đăng trên “The National Interest” (ngày 2/9).

Nhật Linh (gt)