Tóm tắt

- Tuyên bố về “đường 9 đoạn” của Trung Quốc ở Biển Đông không chỉ tác động đến các nước có tuyên bố chủ quyền tranh chấp, mà còn đến lợi ích sống còn của các cường quốc Ấn Độ-Thái Bình Dương vốn phụ thuộc vào tự do hàng hải ở vùng biển này.

- Tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh và quyền quản trị bị nghi vấn mà họ tuyên bố được dựa trên những diễn giải lịch sử và pháp lí một chiều, bỏ qua quyền lợi thực chất của các nước khác theo luật pháp quốc tế.

- Do tuyên bố “đường 9 đoạn” là có vấn đề về pháp lí, Trung Quốc đang nhanh chóng hành động để áp đặt một nguyên trạng mới, và sẽ yêu cầu các bên tranh chấp khác kí một thỏa thuận song phương thừa nhận tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc để đổi lại quan hệ tốt đẹp.

- Hải quân của những cường quốc như Mỹ và Nhật Bản đang tập trung đến Biển Đông để đối phó với nguy cơ quyền tự do đi lại của họ ở vùng biển xa này sẽ không được Trung Quốc tôn trọng.

- Trong khi tình hình có vẻ khó khăn cho các nước nhỏ có tranh chấp, họ vẫn có những động lực đáng kể sau:

i. Việc tham vấn chung các quy định quốc tế để đảm bảo quyền và lợi ích của bản thân đã đưa họ vào cùng một hướng đi;

ii. Họ có quyền hợp pháp ở Biển Đông trừ phi họ kí vào các thỏa thuận khẳng định mình không có. Kiên định với mục tiêu này sẽ duy trì quyền lợi của họ và giúp thế giới đang bị phân tán có thời gian nhận thức về tình hình ở Biển Đông. Luật pháp quốc tế ủng hộ lợi ích của các nước nhỏ vẫn được duy trì và tạo ra cơ sở cho các cường quốc khác bảo vệ các quy định này ở Biển Đông;

iii. Nghịch lí là sự đối đầu giữa các cường quốc lại cho các nước nhỏ động lực để tạo ra sự khác biệt quan trọng trong việc tình hình sẽ diễn biến như thế nào;

iv. Cuối cùng, các nước nhỏ đang ở vị trí có thể đưa ra một giải pháp hợp tác cho điều có khả năng trở thành một thế bế tắc nước lớn không hữu ích.

Tuyên bố “đường 9 đoạn” của Trung Quốc

Tuyên bố của Trung Quốc như thế nào?

Bất kì cuộc thảo luận nào về vấn đề căng thẳng trên Biển Đông cũng bắt đầu với tuyên bố “đường 9 đoạn” của Trung Quốc. Nó được biến đổi từ “đường 11 đoạn” trên một bản đồ được một quan chức chính phủ Quốc dân Đảng (KMT) vẽ ra năm 1947. Đường này đại diện cho tuyên bố chủ quyền của nước Cộng hòa Trung Hoa đối với gần như toàn bộ Biển Đông sau khi tuyên bố quản lí vùng biển này của Nhật Bản đã bị bỏ trống sau năm 1945. Đảng Cộng sản Trung Quốc (CPC) đã thay đổi một chút đối với tuyên bố này khi chỉ xóa bớt 2 đoạn ở khu vực Vịnh Bắc Bộ vào năm 1953.

Ngày nay, Trung Quốc tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cãi đối với các quần đảo ở Biển Đông và vùng biển liền kề, và được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển liên quan cũng như ở đáy biển và vùng đất dưới đáy” trong “khu vực 9 đoạn”. Trong khi đó, các nước duyên hải Biển Đông tuyên bố chủ quyền đảo và EEZ dựa trên cơ sở pháp lí và lịch sử riêng của mình trong “khu vực 9 đoạn”. Cơ sở cho quyền chủ quyền của Trung Quốc là lịch sử, dựa trên những bản đồ và hồ sơ văn bản cho thấy sự hiện diện của người Trung Quốc ở vùng này.

Làm thế nào Trung Quốc thúc đẩy kiểm soát toàn diện tuyên bố “đường 9 đoạn”?

Trung Quốc tìm cách chia rẽ các đối thủ nhỏ theo 4 cách. Trước tiên, họ sẽ không cho các nước không có tranh chấp vai trò giải quyết tranh chấp. Thứ hai, họ không cho cơ quan trọng tài quốc tế vai trò giải quyết tranh chấp. Thứ ba, họ tìm cách loại trừ việc thảo luận về tranh chấp Biển Đông ra khỏi hội nghị cấp cao ASEAN-Trung Quốc và các hội nghị bộ trưởng, thậm chí còn tìm cách ngăn cản các bộ trưởng ASEAN, tại các cuộc họp riêng của mình, đưa ra lập trường công khai mạnh mẽ về những hành động quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông. Trung Quốc chỉ đồng ý thảo luận về Bộ Quy tắc ứng xử (COC) với ASEAN ở cấp chuyên viên bên lề. Cuối cùng, Trung Quốc sẽ giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán song phương với từng quốc gia có tranh chấp. Tác động tổng hợp của cách tiếp cận này là tối thiểu hóa năng lực kháng cự cá nhân và tập thể của các nước tranh chấp trong ASEAN trước đòi hỏi của Trung Quốc.

Tiếp đó, trong khi thảo luận về COC với ASEAN, Trung Quốc hành động theo nhiều cách để đảm bảo việc kiểm soát của mình trong tuyên bố “đường 9 đoạn”. Họ điều các đội tàu cá ngày càng vào sâu hơn trong vùng biển tranh chấp và đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh bắt hàng năm tại đây. Để bảo vệ lợi thế của mình, và đối phó với các nước khác, Bắc Kinh cũng mở rộng quy mô, năng lực và phạm vi tuần tra của lực lượng cảnh sát biển và dân quân của mình. Để bảo vệ lực lượng tiền đồn dân sự này, Hải quân PLA cũng triển khai các đội tàu và máy bay để răn đe các nước đối đầu về ý định đối kháng quân sự.

Cuối cùng, để củng cố việc kiểm soát những góc xa nhất của vùng lãnh thổ trong tuyên bố “đường 9 đoạn”, Trung Quốc đã tiến hành một chiến dịch xây dựng đảo nhân tạo ở 7 điểm thuộc quần đảo Trường Sa trong năm qua. Những đảo này phục vụ hai mục đích. Thứ nhất, hỗ trợ việc triển khai và các hoạt động dân sự và quân sự ở khu vực này, và thứ hai là để có thể tuyên bố vùng biển chủ quyền xung quanh những đảo nhân tạo này bất cứ khi nào họ muốn, điều có thể làm gián đoạn quyền tự do hàng hải (FON) ở trung tâm của Biển Đông, tạo ra cái mà Đô đốc Harry B. Harris, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ, gọi là “bức tường cát”.

Tại sao tuyên bố “đường 9 đoạn” của Trung Quốc lại gây quan ngại cho các nước khác?

Tuyên bố chủ quyền lịch sử của Trung Quốc và các tuyên bố lịch sử và pháp lí của các nước duyên hải khác là mâu thuẫn. Bên cạnh đó, cộng đồng quốc tế nhất trí rằng tuyên bố lãnh thổ và quyền lãnh hải kèm theo phải được phân định theo luật pháp quốc tế. Trong trường hợp Biển Đông, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), mà tất cả các bên tranh chấp đã phê chuẩn, đưa ra cơ chế để thiết lập quyền lãnh hải và giải quyết tranh chấp biển, và luật pháp quốc tế nói chung đưa ra những cơ chế khác để giải quyết quy chế lãnh thổ cho các đảo.

Quan ngại chung là Trung Quốc dường như không chấp nhận UNCLOS là cơ sở cuối cùng để thiết lập các tuyên bố chủ quyền và giải quyết tranh chấp. Trước tiên, “đường 9 đoạn” không dựa trên tọa độ địa lí chính xác. Nó mơ hồ và dễ thay đổi. Bắc Kinh không giải thích việc hình thành các đoạn này như thế nào từ lãnh thổ trên bộ của Trung Quốc theo nguyên tắc UNCLOS.

Thứ hai, mục tiêu chính xác của tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc cũng không rõ ràng. Trung Quốc có tuyên bố chủ quyền không thể tranh cãi đối với chỉ các thực thể đảo ở trong đường giới hạn đó? Hay vùng biển? Hay cả hai? Mối quan hệ đích chính xác giữa tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với quy định pháp lí hiện hành cũng không được giải thích, song chúng ta có thể nhận thấy định giới của “đường 9 đoạn” đó, vốn không thể phân định từ lãnh thổ trên bộ hiện hành của Trung Quốc theo nguyên tắc UNCLOS, và những động thái quyết đoán của Trung Quốc về quyền chủ quyền, chẳng hạn như quyền ngăn cản quân đội nước ngoài tiếp cận vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình, là không nhất quán với các nguyên tắc pháp lí hiện hành.

Thứ ba, quyền chủ quyền mà Trung Quốc tuyên bố trong “đường 9 đoạn” này cũng không rõ ràng. Theo nguyên tắc UNCLOS, vùng biển chủ quyền của một nước chỉ kéo dài 12 hải lí tính từ đường cơ sở. Ngoài giới hạn đó, một nước có thêm 200 hải lí thuộc EEZ là vùng có đặc quyền khai thác tài nguyên biển. Song theo quy định hiện hành, vẫn có thể có mục đích khác trong EEZ, chẳng hạn như tự do đi lại, tự do tiếp cận và đi lại không bị cản trở của tàu chở hàng thương mại cũng như tàu và máy bay quân sự.

Vùng biển chủ quyền cũng cho phép tàu quân đội nước ngoài được “qua lại không gây hại”, có nghĩa tự do quá cảnh mà “không phương hại đến hòa bình, trật tự ổn định hay an ninh của quốc gia ven biển đó”. Tuy nhiên, một quan chức Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã giải thích tại sao việc máy bay tuần tra quân sự của Mỹ đã được yêu cầu rời khỏi không phận lân cận đảo nhân tạo ở Biển Đông như sau: “Tự do đi lại không có nghĩa là cho phép các nước khác được xâm nhập không phận hay hải phận thuộc chủ quyền. Tàu chiến và máy bay không được tự do đi lại”. Điều này cho thấy cách diễn giải “quyền chủ quyền” của Trung Quốc là khác biệt so với các quyền được UNCLOS đặt ra.

Thứ tư, Trung Quốc đã xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa. Trong khi các nước có chủ quyền tranh chấp khác cũng bồi đắp các đảo mà họ giữ, số lượng, quy mô, tốc độ và sự mở rộng địa lí từ hoạt động xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc từ cuối năm 2013 là lớn hơn rất nhiều. Hoạt động xây đảo của họ giờ đây chiếm tới 95% “vùng cát” ở Trường Sa. Trung Quốc có thể tuyên bố quy chế đảo tự nhiên đối với các đảo nhân tạo của họ, song UNCLOS đã khẳng định rõ rằng đảo nhân tạo không được có vùng biển chủ quyền, EEZ hay quyền sở hữu thềm lục địa.

Thứ năm, các nước duyên hải khác đang thúc đẩy các tuyên bố chủ quyền pháp lí và lịch sử của họ đối với các đảo và vùng biển bên trong “đường 9 đoạn”. Song, Trung Quốc từ chối đưa tranh chấp của mình ra trước cơ chế pháp lí quốc tế theo UNCLOS và luật pháp quốc tế nói chung để giải quyết những tranh chấp này, và bác bỏ khi các nước khác thực hiện quyền được làm như vậy của họ.

Mục tiêu của Trung Quốc là gì?

Nếu Trung Quốc tìm cách thiết lập “chủ quyền không thể tranh cãi” trong “đường 9 đoạn”, thì dường như họ đang thúc đẩy theo ba bước. Thứ nhất, thiết lập và bình thường hóa việc chiếm đóng, sử dụng và bảo vệ khu vực này một cách toàn diện. Tiếp theo, Bắc Kinh yêu cầu các nước khác thừa nhận nguyên trạng mới. Cuối cùng, Trung Quốc muốn các bên tranh chấp khác rút lại tuyên bố chủ quyền tranh chấp của mình và thừa nhận tuyên bố “đường 9 đoạn” của Trung Quốc thông qua các thỏa thuận song phương trực tiếp. Việc không áp dụng luật pháp quốc tế hay tiền lệ khác sẽ giúp các thỏa thuận song phương này có thể hợp pháp hóa tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.

Trung Quốc có những lợi ích gì?

Trung Quốc có thể trông đợi rất nhiều lợi ích thực chất từ nỗ lực của mình. Trước tiên, coi Biển Đông là vùng lãnh hải sẽ mang lại nguồn tài nguyên và lương thực đáng kể cho Trung Quốc. Thứ hai, Trung Quốc có thể muốn loại trừ quân đội nước ngoài khỏi Biển Đông nhằm đảm bảo không chỉ đường vận tải biển của Trung Quốc qua Biển Đông, mà còn là nơi trú ẩn an toàn cho tàu ngầm tên lửa đạn đạo hạt nhân của Trung Quốc đóng ở đảo Hải Nam. Và việc kiểm soát quân sự hoàn toàn ở Biển Đông sẽ cho Trung Quốc một nơi để tiến hành các hoạt động biển xa ở khu vực Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Thứ ba, dù ý tưởng quản lí chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông mới chỉ được biết một phần, song đến nay, Bắc Kinh tỏ ý rằng họ sẽ có lựa chọn hạn chế việc tự do đi lại tại đây nếu muốn bằng cách cho phép hoặc không cho phép quyền quá cảnh. Do 1/3 hoạt động quá cảnh thương mại toàn cầu diễn ra ở Biển Đông, sự tồn tại của lựa chọn này, bất kể liệu Trung Quốc có sẵn sàng hay thành công trong việc thực hiện nó hay không sẽ tác động đến sự cân bằng sức mạnh trong khu vực. Nó sẽ giúp Trung Quốc có ưu thế trước các nước duyên hải phụ thuộc vào thương mại ở Đông Á.

Cuối cùng, những lợi ích kinh tế, quân sự và chính trị thực chất này sẽ tạo thuận lợi cho một trật tự khu vực mới được hình thành theo lợi ích và nguyên tắc của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ tự do áp đặt quy định mới mà các nước khác trong khu vực phải tuân thủ, bất chấp luật pháp quốc tế.

Biển Đông: Xoáy nước căng thẳng chiến lược nước lớn

Bối cảnh ở Biển Đông hiện nay có tác động đến các cường quốc khác ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, từng được xem là những khu vực kinh tế và chính trị riêng biệt, ngày nay đang hình thành một vành đai lớn đơn nhất cho sự hội nhập và phát triển khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương, trải dài từ Nhật Bản qua eo biển Malacca đến Ấn Độ. Do một Biển Đông tự do đi lại là nhu cầu không thể thiếu đối với thương mại và đầu tư của các cường quốc Ấn Độ-Thái Bình Dương, và sau những nỗ lực đơn phương của Trung Quốc làm thay đổi nguyên trạng tại đây theo những cách đáng ngờ, Biển Đông đã và đang trở thành một xoáy nước của lợi ích chiến lược nước lớn.

Hơn 90% năng lượng nhập khẩu của Nhật Bản đi qua Biển Đông. Vì thế, tại Đối thoại Shangri La 2014, Thủ tướng Shinzo Abe đã khẳng định: “Nhật Bản sẽ ủng hộ hết mình đối với những nỗ lực của các nước ASEAN muốn đảm bảo an ninh vùng biển và vùng trời tại đây, cũng như bảo đảm toàn diện tự do hàng hải và hàng không”. Năm nay, khi được hỏi liệu Nhật Bản có tuần tra Biển Đông hay không, một sĩ quan quân đội hàng đầu của Nhật Bản khẳng định việc tuần tra giám sát “phụ thuộc vào tình hình, tôi cho rằng chúng tôi có thể cân nhắc làm như vậy”. Tháng 6 vừa qua, hải quân Philippines và Nhật Bản đã tiến hành tập trận chung gần Trường Sa. Nhật Bản đã cử 1 máy bay tuần tra P-3 và 20 lính tham gia.

Khoảng 5.300 tỷ USD giá trị hàng hóa thương mại Mỹ đi qua Biển Đông, và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ đặt trụ sở ở Honolulu có trách nhiệm đảm bảo tuyến thương mại mở từ Hawaii dọc theo khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương đến vịnh Persian. Trong một tuyên bố ở Hawaii về tình hình Biển Đông hôm 27/5, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter nói: “Mỹ sẽ bay, đi và hoạt động ở bất kì đâu luật pháp quốc tế cho phép, như chúng tôi đang làm ở khắp thế giới”. Bên cạnh việc chuyển năng lực răn đe quân sự lớn hơn đến châu Á và đưa ra một ý niệm hoạt động mới nhằm đảm bảo việc tiếp cận hàng hải tiếp diễn đến Tây Thái Bình Dương trong trường hợp có chiến tranh, từ năm 2010, Mỹ đã kí nhiều thỏa thuận hợp tác quốc phòng mới với một loạt quốc gia: Indonesia, Singapore, Philippines, Úc, Indonesia, Nhật Bản, Ấn Độ và Việt Nam.

Dù Ấn Độ không muốn tham gia bất kì cơ chế tuần tra đa phương nào ở Biển Đông, nhưng họ có trách nhiệm quan trọng trong việc duy trì tự do đi lại ở đây. Ngày nay, hơn một nửa giá trị thương mại của Ấn Độ quá cảnh Biển Đông. Tại Hội nghị thượng đỉnh Đông Á 2015, Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Ấn Độ V.K Singh nói: “Ấn Độ ủng hộ tự do hàng hải ở vùng biển quốc tế, trong đó có Biển Đông, quyền được tự do hàng hải và hàng không, thương mại không gián đoạn và tiếp cận tài nguyên theo nguyên tắc của luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982. Các tranh chấp lãnh thổ cần phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, như đã được Ấn Độ và Bangladesh thực hiện gần đây qua cơ chế của UNCLOS”.

Trước khi trở thành các cường quốc kinh tế và hải quân Ấn Độ-Thái Bình Dương, Nhật Bản, Mỹ và có thể là Ấn Độ trong tương lai, đều phải củng cố sự hiện diện chiến lược của mình ở Biển Đông để phòng bị trong trường hợp lợi ích sống còn của họ bị đe dọa.

Làm thế nào các nước nhỏ có thể bảo vệ lợi ích của mình?

Các hành động đơn phương và cưỡng ép của Trung Quốc để thiết lập việc kiểm soát toàn diện khu vực “đường 9 đoạn” đã đối đầu với các nước tranh chấp nhỏ hơn, vốn không thể cưỡng lại sự xích lại gần của Trung Quốc, với viễn cảnh mất hoàn toàn kiểm soát vùng lãnh thổ mà họ tuyên bố chủ quyền. Các nước này gồm Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei, và Indonesia, tất cả đều là thành viên ASEAN, và vì thế lẽ tự nhiên sẽ quay sang ASEAN để tìm kiếm sự ủng hộ.

Tuy nhiên, ASEAN thiếu năng lực đảm bảo an ninh cho các nước thành viên trước sự cưỡng ép của các cường quốc. Ngoài ra, các thành viên ASEAN không có tranh chấp ở Biển Đông, và đang hưởng lợi lớn từ Trung Quốc, thiếu động lực để thách thức Trung Quốc ở Biển Đông. Vì thế, các nước ASEAN có tranh chấp phải tự mình hành động, và Trung Quốc đối mặt với rất ít sự kháng cự hiệu quả đối với việc thúc đẩy kiểm soát “đường 9 đoạn” của mình.

Điều này khiến tình hình trở nên vô vọng. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận ở bối cảnh lớn hơn, các nước nhỏ có 4 nguồn động lực đáng kể có thể giúp ảnh gây ảnh hưởng đến tình hình. Trước tiên, họ chia sẻ lợi ích trong việc tìm ra một giải pháp hòa bình, công bằng và hợp pháp cho tranh chấp này. Họ cũng có lí do để ủng hộ tự do đi lại so với việc Trung Quốc quản lý các tuyến vận tải đường biển và đường không quốc tế. Tất cả cho họ một cơ sở để có động lực lớn hơn thông qua hành động phối hợp.

Thứ hai, những nước có tranh chấp khác đã xác định quyền hợp pháp của mình ở Biển Đông mà họ sẽ không bị mất trừ khi tự mình từ bỏ. Nhận ra thực tế này, Trung Quốc đặt mục tiêu đàm phán thỏa thuận song phương với từng quốc gia nhỏ có tranh chấp để có được sự thừa nhận hợp pháp với tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, chia rẽ các nước này, và theo cách đó tạo ra quyền chính đáng hợp pháp của họ tại Biển Đông. Không có những thỏa thuận nhượng bộ chính thức đó, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc luôn bị để ngỏ trước thách thức pháp lí.

Bằng cách kháng cự lại áp lực từ Trung Quốc, các nước nhỏ sẽ giữ được quyền của mình. Việc Trung Quốc leo thang các hành động đơn phương và cưỡng ép để buộc họ từ bỏ tuyên bố chủ quyền sẽ gây cản trở kế hoạch “Con đường tơ lụa trên biển thế kỉ 21”; làm mờ đi sự hấp dẫn của “Cộng đồng cùng chung vận mệnh ở châu Á” mà Trung Quốc đứng đầu; và có nguy cơ dẫn đến sự can thiệp của bên thứ ba. Trung Quốc cần một cộng đồng hòa bình và khá giả để đạt được “Giấc mộng Trung Hoa” cho một xã hội phát triển hiện đại trước khi trở nên già cỗi. Cứ mỗi năm leo thang căng thẳng với các nước láng giềng lại làm đình trệ tiến bộ riêng của Trung Quốc và làm tăng khả năng thỏa hiệp hòa bình.

Thứ ba, nghịch lí là thế bế tắc nước lớn nổi lên ở Biển Đông lại tạo động lực cho các nước tranh chấp nhỏ bằng năng lực hợp tác chiến lược của họ, hoặc không, với các cường quốc cạnh tranh giành lợi thế. Một mặt, họ có thể lựa chọn thừa nhận chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trong “đường 9 đoạn” và nhất trí “chấm dứt tư duy chiến tranh lạnh”, chẳng hạn như từ bỏ quan hệ an ninh với Mỹ vốn có từ Chiến tranh Lạnh. Họ sẽ có được an ninh trong một trật tự khu vực do Trung Quốc chế ngự. Mặt khác, họ có thể tiếp tục hợp tác với Mỹ, vốn cần sự hợp tác này để duy trì một năng lực tự do đi lại ở Biển Đông. Và nếu Nhật Bản, Ấn Độ và Úc cảm thấy cần phải thúc đẩy việc tiếp cận hải quân của họ ở Biển Đông, họ cũng sẽ cần sự hợp tác của các nước nhỏ có tranh chấp.

Rõ ràng, quyền được lựa chọn đường hướng và mức độ hợp tác với các cường quốc giúp các nước nhỏ dính líu đến tranh chấp có năng lực để gây ảnh hưởng đến kiểu trật tự sẽ nổi lên trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược này. Thậm chí, nếu họ có thể chỉ đưa ra những hành động độc lập không mang tính phối hợp, nhưng cùng đường hướng, thì vẫn có thể có tác động quyết định.

Cuối cùng, thời kì toàn cầu hóa hiện tại đã phơi bày điểm yếu của cách quản trị lấy nhà nước làm trung tâm. Ngày càng có nhu cầu hợp tác quản lí sự tương thuộc đang hướng thế giới đến những quy tắc về quản trị toàn cầu mang tính toàn diện. Đang có một cơ hội cho các nước nhỏ có tranh chấp đi đầu trong xu hướng này và độc lập đề xuất một thỏa thuận quản lí Biển Đông mang tính hợp tác. Chính do thiếu khả năng cưỡng ép, họ có năng lực thúc đẩy một giải pháp hòa bình và bình đẳng có thể chấp nhận được đối với các nước lớn đang gặp bế tắc trong việc tìm lối thoát. Các cường quốc dân chủ sẽ chấp nhận một thỏa thuận theo các quy định luật pháp quốc tế. Trung Quốc đã kí và phê chuẩn UNCLOS và có thể phải chấp nhận nhu cầu về một cách tiếp cận mới một khi nhận thấy rằng trong thế giới ngày nay, vũ trang không có nghĩa là cho họ quyền vượt trội.

Kết luận

Các nước nhỏ có tranh chấp ở Biển Đông không thiếu động lực, họ chỉ thiếu năng lực để sử dụng nó chừng nào họ còn bị cô lập và không nhận thức được về những lựa chọn của mình. Trước tiên, lợi ích căn bản sẽ gắn kết họ. Thứ hai, quyết định duy trì tuyên bố chủ quyền hợp pháp của họ sẽ khiến Trung Quốc không đạt được thành công họ cần, và sẽ duy trì quy tắc luật pháp quốc tế chấp nhận việc tự do đi lại ở Biển Đông. Thứ ba, quyền của các nước nhỏ có tranh chấp trong việc từ bỏ hay duy trì hợp tác với các nước lớn có thể có tác động quyết định đến tương lai trật tự khu vực. Và cuối cùng, do thế bế tắc nước lớn nổi lên, các nước nhỏ có thể đề xuất một lối thoát thông qua cùng hợp tác để duy trì quyền và lợi ích của mình cũng như mang lại lợi ích cho các nước lớn đang cạnh tranh ở Biển Đông.

David Arase là Giáo sư về Chính trị Quốc tế trung tâm Nghiên cứu Hopkins – Nam Kinh, đại học Nam Kinh. Bài viết được đăng trên Viện nghiên cứu ISEAS-Yusof Ishak.

Trần Quang (gt)