0912trungmy_0e298(1).jpg

Sự quyết đoán ngày một rõ của Trung Quốc tại các vùng biển cách xa bờ đã khiến châu Á-Thái Bình Dương không khỏi bất bình và lo ngại. “Đường 9 đoạn” mà Trung Quốc tự vạch ra, coi đó là cơ sở cho các tuyên bố chủ quyền, bao trùm hầu hết Biển Đông, và thậm chí là chồng lấn với nhiều quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, có một thực tế là các lợi ích cốt lõi của Mỹ tại khu vực không thực sự bị đe dọa, và Trung Quốc biết rõ điều đó. Những cuộc tranh cãi gay gắt giữa giới học giả Washington không phải là về tầm quan trọng của những hòn đảo nhỏ hay đá không có người ở tại Biển Đông mà chủ yếu là về cuộc vật lộn của Mỹ trong việc duy trì vị thế bá chủ khu vực từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 hiện đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Tầm quan trọng của các tuyến đường biển trên Biển Đông, nơi khối lượng hàng hóa ước tính lên tới gần 5 nghìn tỷ USD được vận chuyển qua mỗi năm là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, các tuyến đường biển này chưa từng đối mặt với những đe dọa nghiêm trọng (trong thời bình), bởi cả Mỹ và Trung Quốc đều có chung những lợi ích kinh tế từ những hoạt động thương mại suôn sẻ của khu vực. Xét về mặt lịch sử, các lợi ích an ninh quốc gia của Mỹ tại Biển Đông không nhiều và không mấy thay đổi, kể từ khi tàu thương mại Empress of China thả neo ở cảng Quảng Châu năm 1784. Mỹ luôn tìm kiếm tự do hàng hải và hàng không, cũng như tự do thương mại tại châu Á. Tự do hàng hải là một lợi ích quan trọng mà Mỹ có thể và nên bảo vệ nếu có thể. Để đạt được mục tiêu này, Mỹ rõ ràng cần tiến hành thường xuyên hơn các cuộc tập trận tại Biển Đông, phối hợp cùng các đồng minh và đối tác chiến lược, để nhấn mạnh sự hiện diện cũng như các cam kết của Mỹ. Chiến dịch hải quân mà Chính quyền Donald Trump tiến hành hồi tuần trước gần hòn đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng ở Đá Vành khăn là một ví dụ tiêu biểu cho sự cương quyết của Washington. Tuy nhiên, với những phản ứng gay gắt từ phía Bắc Kinh, có thể thấy rằng chiến thuật này của Mỹ sẽ chỉ có những tác động hạn chế đối với thái độ cũng như cách hành xử của Trung Quốc.

Trung Quốc đã tỏ ra cương quyết hơn Mỹ, và điều này thể hiện qua việc họ quyết tâm thay đổi hiện trạng khu vực. Dư luận khu vực, chứng kiến cách Trung Quốc củng cố các tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông, đều cho rằng Mỹ khó có thể kiềm chế quốc gia này. Họ phải chấp nhận thực tế cuộc cạnh tranh địa chính trị bất đối xứng giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là Mỹ. Mối quan tâm của Bắc Kinh tại Biển Đông về bản chất là trên phương diện chính trị và chiến lược. Các hoạt động xây đảo mà họ tiến hành là nhằm khẳng định chủ quyền và thay đổi hình ảnh quốc gia sau “thế kỷ bị sỉ nhục”, một trong những nhân tố then chốt làm nên tính hợp pháp cho Đảng Cộng sản Trung Quốc. Về mặt chiến lược, Trung Quốc đang đẩy mạnh sức mạnh quốc phòng và gia tăng ảnh hưởng quyền lực hàng hải trong khu vực. Còn đối với Mỹ, Biển Đông chỉ là một phần trong mối quan hệ Mỹ-Trung rộng lớn. Ưu tiên chính sách hàng đầu của cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama trong mối quan hệ với Trung Quốc là Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu và thỏa thuận hạt nhân Iran, trong khi ưu tiên của Chính quyền Trump là thương mại và vấn đề Triều Tiên. Những tranh cãi ở Biển Đông đối với Mỹ rõ ràng chỉ là thứ yếu.

Trung Quốc biết rõ rằng Chính quyền Trump không có chiến lược cụ thể đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Bất chấp những thiếu sót trong quá trình triển khai, chiến lược “xoay trục về châu Á” của cựu Tổng thống Obama vẫn có thể xem là một chiến lược khu vực toàn diện tổng hòa nhiều biện pháp ngoại giao, quân sự và kinh tế. Trong khi đó, quyết định rút Mỹ khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương của Chính quyền Trump thực sự lại là một cú sốc đối với các nước còn lại và gây tổn hại không nhỏ tới uy tín của Mỹ. Điều này vô hình trung đã giúp Trung Quốc “loại bỏ” những trở ngại đối với nhiều dự án mà họ thúc đẩy như “Vành đai và Con đường”, hay Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng châu Á (AIIB). Cũng giống như những gì từng diễn ra trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, sự suy yếu của Mỹ đã tạo điều kiện để Trung Quốc phát triển.

Thậm chí, khi đối diện với Chính quyền Obama luôn tỏ ra thận trọng với những thay đổi đơn phương và ủng hộ trật tự quốc tế dựa trên luật pháp, Bắc Kinh đã phớt lờ các nỗ lực ngoại giao của Mỹ, phớt lờ phán quyết của Tòa Trọng tài và thậm chí còn ngang nhiên thay đổi hiện trạng khu vực. Trung Quốc biết rõ rằng chừng nào còn muốn đảm bảo sự thông suốt các tuyến hàng hải ở Biển Đông, Mỹ sẽ còn tránh gây chiến với một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân như Trung Quốc chỉ vì những hòn đảo và đá mà họ không hề có tuyên bố chủ quyền, hay để bảo vệ Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), một văn bản mà chính Mỹ cũng không bao giờ phê chuẩn. Việc Mỹ chưa ký UNCLOS càng là cái cớ để Bắc Kinh xuyên tạc công ước này.

Có thể nói, Bắc Kinh đã tiến trước Washington vài bước trong việc củng cố các hiện trạng ở Biển Đông. Trung Quốc âm thầm đàm phán với ASEAN một bộ quy tắc ứng xử, đem lại gói viện trợ và các dự án đầu tư trị giá hàng tỷ USD cho Philippines, hay thậm chí là đang thăm dò một dự án sản xuất năng lượng chung với Manila, từng bước vô hiệu hóa đồng minh của Mỹ. Trung Quốc cũng đang lôi kéo nhiều quốc gia khác như Malaysia, với các khoản cho vay và đầu tư nhiều chục tỷ USD, thúc đẩy quan hệ quân sự với Kuala Lumpur và Thái Lan. Nếu ASEAN và Trung Quốc cùng đạt một bộ quy tắc thừa nhận những thực tế đang diễn ra, Mỹ sẽ không có nhiều lựa chọn ngoài việc phải chấp nhận chúng.

Trung Quốc dường như đã rút ra bài học từ việc quan sát cách các cường quốc “làm những gì họ có thể”. Trong một hội nghị ASEAN vào năm 2010, cựu Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì từng tuyên bố: “Trung Quốc là một nước lớn, và các nước khác là các nước nhỏ. Đó là sự thật”. Các cường quốc có thể phớt lờ hoặc phá vỡ luật lệ để phục vụ cho lợi ích của mình, và Trung Quốc rõ ràng hiểu được điều đó. Tham vọng bành trướng của Trung Quốc là điều rất đáng lo ngại, song dù muốn hay không người ta cũng phải thừa nhận rằng tầm ảnh hưởng của họ trong khu vực đang ngày càng lớn.

Mỹ cần đối diện với một câu hỏi chiến lược quan trọng: Họ có thể chấp nhận Trung Quốc nắm giữ một vai trò như thế nào trong khu vực? Và Trung Quốc cũng cần phải chấm dứt hy vọng rằng một ngày nào đó Mỹ sẽ biến mất khỏi khu vực, để tự trả lời một câu hỏi cụ thể hơn là họ có thể cho phép Mỹ có những hành động gì trong khu vực? Cả Mỹ và Trung Quốc cần phải phân biệt rõ giữa những gì mà họ muốn và những gì họ phải có. Đây sẽ là nhân tố then chốt để hai bên tìm cách cân bằng các lợi ích và tạo dựng một mối quan hệ Mỹ-Trung hiệu quả trong thế kỷ 21.

Tác giả là ông Robert Manning là chuyên gia về quan hệ Mỹ-Trung thuộc Viện nghiên cứu Hội đồng Đại Tây Dương và ông James Przystup là chuyên gia về châu Á thuộc Đại học Quốc phòng Quốc gia Mỹ. Bài viết đăng trên Tạp chí “Foreign Policy”.

Anh Thư (gt)