Chuyến đi của Kissinger là một cuộc cách mạng ngoại giao. Đổi mới quan hệ Mỹ-Trung đã thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu vào đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh và dọn đường cho Trung Quốc mở cửa kinh tế. Đây là một quyết định, hơn bất cứ một quyết định nào khác, đã định nghĩa tình hình thế giới ngày nay. Những việc bà Clinton đã làm và những điều bà đã nói trong chuyến thăm châu Á sẽ đánh dấu hoặc là sự kết thúc của thời đại mà Kissinger đã mở ra từ bốn thập kỷ trước, hoặc là sự khởi đầu của một giai đoạn hoàn toàn mới của kỷ nguyên đó.

 

Chuyến thăm của bà Clinton đã gửi đi tín hiệu rõ ràng nhất rằng Mỹ chưa sẵn sàng chấp nhận bá quyền khu vực của Trung Quốc. Bên lề Hội nghị ASEAN tại Hà Nội, bà Clinton đã thách thức Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì về tuyên bố rằng chủ quyền của Bắc Kinh đối với Quần đảo Trường Sa ở Biển Đông giờ đây là "lợi ích cốt lõi". Theo định nghĩa đó, Trung Quốc coi các đảo (mà Việt NamPhilippines cũng tranh chấp chủ quyền) là một phần của đại lục giống như Tây Tạng và Đài Loan, và coi can thiệp nào từ bên ngoài là điều cấm kỵ.

 

Phản đối lại điều đó, Clinton đã đề xuất Mỹ sẽ giúp thành lập một cơ chế quốc tế để dàn hòa các tuyên bố chủ quyền chồng lấn giữa Trung Quốc, Đài Loan, Phi-líp-pin, Việt Nam, In-đô-nê-xi-a và Mã-lai-xi-a hiện nay tại Biển Đông. Đối với Trung Quốc, sự can thiệp này của bà Clinton là một cú sốc. Xem xét sự hưởng ứng nhiệt tình của nước chủ nhà Việt Nam, cho dù bà có chỉ trích hồ sơ nhân quyền của Việt Nam, thì có lẽ Ngoại trưởng Mỹ đã nêu vấn đề này chí ít là do có phần thúc giục của Việt Nam và có thể của cả Mã-lai-xi-a và Phi-líp-pin.

 

Một mối lo sợ chung đã xuất hiện tại Châu Á về việc Trung Quốc tìm cách sử dụng sức mạnh hải quân ngày càng lớn mạnh của mình để thống trị không chỉ các vùng nước nhiều dầu mỏ tại Biển Đông, mà cả những tuyến hàng hải tấp nập nhất thế giới tại khu vực này. Do vậy, quả là một tin vui khi bà Clinton sau đó đã khẳng định sự cam kết chặt chẽ hơn của Mỹ đối với an ninh hàng hải ở những vùng biển xung quanh Trung Quốc bằng việc đích thân tham dự cuộc tập trận chung trên biển và trên không cùng với Hàn Quốc ngoài khơi phía đông Bán đảo Triều Tiên. Tương tự như vậy, quan hệ quân sự giữa Mỹ và giới cao cấp nhất của quân đội In-đô-nê-xi-a, vốn đã bị đình trệ vài thập kỷ qua, nay được phục hồi trong chuyến thăm châu Á của bà Clinton.

 

Những cuộc tập trận này cảnh báo trực tiếp nhất cho Bắc Triểu tiên về sự cam kết chặt chẽ của Mỹ đối Hàn Quốc, tiếp sau sự việc Bắc Triều tiên làm chìm tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc hồi đầu năm nay. Có thể còn quan trọng hơn nữa là các cuộc tập trận này khẳng định quân đội Mỹ không phải đang bị quá phân tâm bởi Iraq và Aghnistan đến mức không bảo vệ được lợi ích quốc gia sống còn của Mỹ tại châu Á.

 

Phần tiếp theo của các cuộc tập trận này diễn ra ở biển Hoàng Hải, trong vùng biển quốc tế sát với Trung Quốc, thể hiện rõ cam kết của Mỹ đối với tự do trên biển châu Á. Ngay sau đó, hàng không mẫu hạm của Mỹ thăm Việt Nam lần đầu tiên từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc 35 năm trước đây.

 

Không ngạc nhiên gì khi Bắc Triều tiên la hét phản đối các cuộc tập trận này, thậm chí còn đe dọa đáp lại bằng “vật chất”. Còn Trung Quốc thì không chỉ tuyên bố việc Clinton can thiệp vào Biển Đông là “tấn công” Trung Quốc, mà còn tổ chức tập trận hải quân ở biển Hoàng Hải trước cuộc tập trận Mỹ-Hàn.

Chuyến thăm của bà Clinton quan trọng không chỉ vì nó thể cam kết sắt đá của Mỹ đối với an ninh của châu Á và phía Đông Thái Bình Dương, mà còn vì nó đã bóc trần với toàn thể châu Á mâu thuẫn cơ bản trong cốt lõi của chính sách đối ngoại của Bắc Kinh. Năm 2005, lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố thực hiện chính sách thúc đẩy “thế giới hài hòa” với mục tiêu là xây dựng quan hệ hữu nghị với các nước khác, nhất là các các nước láng giềng gần gũi. Nhưng tháng 8 năm 2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lại tuyên bố “trọng tâm của công tác ngoại giao là hỗ trợ xây dựng kinh tế.”

 

Dường như tất cả quan hệ đối ngoại giờ đây được xếp thấp hơn các quan tâm đối nội. Ví dụ, nỗi lo ngại hỗn loạn sẽ tràn lan nếu Bắc Triều tiên sụp đổ đã làm chính sách của Trung Quốc đối với Bắc Triều tiên trở nên nhu nhược. Và sự không khoan nhượng của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông là kết quả trực tiếp của lợi ích kinh tế mà Trung Quốc tin rằng đang nằm ở đáy biển tại đó. Do vậy mà Trung Quốc đã làm cho nhiệm vụ xây dựng quan hệ hữu nghị ở khu vực trở nên bất khả thi.

 

Ở châu Á, niềm hi vọng của ngày hôm nay là chuyến thăm của Clinton sẽ làm cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng châu Á là nơi trước tiên mà vai trò quốc tế của Trung Quốc đang được thử thách và định hình. Nói năng ngoa ngoắt và thái độ trịnh thượng bá quyền coi thường lợi ích các nước láng giềng nhỏ hơn chỉ tạo ra bất hòa, chứ không tạo ra hài hòa.

 

Một chính sách gây sức ép và đe dọa kiểu nước lớn của Trung Quốc đối với Việt Nam hay/và Phi-líp-pin về chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, hay việc chủ tâm đe dọa các nước láng giềng Nam Á nhỏ hơn, sẽ tiếp tục dóng hồi chuông báo động ở toàn bộ Thái Bình Dương và sẽ được coi là bằng chứng của tham vọng bá quyền của chính quyền Trung Quốc. Trừ khi Trung Quốc có thể giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền với các nước láng giềng, việc Trung Quốc tự nhận sẽ “trỗi dậy một cách hòa bình” sẽ là điều không thuyết phục không chỉ đối với Washington, mà còn đối với tất cả các thủ đô ở toàn châu Á.

 

Bốn mươi năm trước, việc Mỹ bắt tay Trung Quốc đã làm Nhật Bản và cả châu Á bị choáng. Chuyến thăm của bà Clinton đã làm điều ngược lại: nó đã làm Trung Quốc bị choáng – hi vọng rằng theo một cách mà nó sẽ làm cho cách sử xự của Trung Quốc ở khu vực trở nên có chừng mực hơn. Và, nếu như một cú sốc có thể có tác động làm yên lòng người khác, thì cú sốc này chắc chắn đã xoa dịu các quan ngại về cam kết lâu dài của Mỹ đối với an ninh khu vực./.

 

Đọc bản gốc tiếng Anh tại đây