_________________________us-navy-400x266.jpg

 

Mỹ và Trung Quốc đang tiến tới một cuộc đối đầu quyết định về quyền tự do hàng hải ở Biển Đông. Hải quân Mỹ sẵn sàng cho tàu chạy gần 7 đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng ở quần đảo Trường Sa trong suốt 2 năm qua, như là một biện pháp nhằm thách thức bất kỳ yêu sách chủ quyền quá mức hoặc bất hợp pháp nào của Trung Quốc ở đó. Trong khi đó, tại Bắc Kinh, sự chống đối các Hoạt động tự do hàng hải (FONOP) của Mỹ xung quanh những đảo nhân tạo này đang trở nên cứng rắn, như được chứng minh bằng mối đe dọa mà Tân Hoa xã do nhà nước Trung Quốc điều hành chỉ ra:

“Những âm mưu kích động [của Mỹ] nhằm xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông đang phá hoại hòa bình và sự ổn định khu vực và quân sự hóa các vùng biển… Trung Quốc sẽ không bao giờ dung thứ cho bất kỳ sự khiêu khích hoặc xâm phạm chủ quyền nào từ Mỹ hoặc bất kỳ nước nào khác, đúng như Mỹ đã từ chối làm vậy 53 năm trước đây [trong Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba]”.

Lời bình luận này đáng lo ngại vì một vài lý do. Thứ nhất, nó tiếp tục một xu hướng lời lẽ ngày càng mang tính đối đầu và leo thang. Tháng 5, Bắc Kinh mô tả FONOP của Mỹ xung quanh các đảo nhân tạo là “nguy hiểm và tắc trách”; giờ đây chúng là một sự khiêu khích không thể dung thứ và là sự xâm phạm chủ quyền. Thứ hai, vì nó được viết bởi cơ quan phát ngôn của Đảng thuộc sở hữu nhà nước, nên bài viết này có sức nặng lớn hơn so với lời đe dọa đôi lúc cay độc từ một vị tướng nghỉ hưu của PLA. Thứ ba, lời lẽ này khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc bị trói chặt hơn nữa vào những lập trường cứng rắn hơn, hạn chế lựa chọn của họ để xuống thang và thỏa hiệp. Cuối cùng, nó cho thấy Mỹ và Trung Quốc tiến gần thế nào tới một cuộc khủng hoảng mà đáng nhẽ có thể tránh đươc và cần phải tránh.

 

Không phải là cuộc đọ sức đầu tiên của họ

Mặc dù phần lớn bị lãng quên, nhưng đây không phải là cuộc đối đầu trực tiếp đầu tiên giữa Trung Quốc và Chính quyền Obama, và đó không phải là lần đầu tiên mà Chính quyền Obama xử lý tình huống một cách tồi tệ. Ngày 26/3/2010, vào đầu nhiệm kỳ đầu tiên của Obama, một tàu ngầm nhỏ của Triều Tiên đã tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ, vô cớ nhằm vào tàu hộ tống nhỏ Cheonon của Hải quân Hàn Quốc ở Hoàng Hải, làm đắm tàu và khiến 46 thủy thủ thiệt mạng.

Trong khi Trung Quốc từ chối lên án cuộc tấn công, kết quả là Washington và Seoul tuyên bố tiến hành một loạt cuộc tập trận hải quân nhằm thể hiện quyết tâm trước sự gây hấn của Triều Tiên. Ngày 1/1, tin tức báo chí quả quyết rằng Mỹ và Hàn Quốc sẽ tiến hành các cuộc tập trận hải quân ở Hoàng Hải, do tàu sân bay George Washington của Mỹ dẫn đầu. Tàu sân bay George Washington đã đi qua Hoàng Hải cho đến tận tháng 10 năm trước đó mà không gặp phải sự phản kháng lớn nào từ Bắc Kinh, nhưng Trung Quốc đã phản ứng trước tuyên bố này bằng cách quả quyết về “sự phản đối kiên định” đi kèm với lời bình luận hiếu chiến từ các tướng PLA đã nghỉ hưu. Trò chơi thi gan về ngoại giao đã xảy ra sau đó. Trước tiên, Obama tìm cách thỏa hiệp, tổ chức các cuộc tập trận do tàu sân bay George Washington dẫn đầu ở Biển Nhật Bản ít gây tranh cãi hơn. Nhưng động thái này đã được hiểu như là một dấu hiệu cho thấy sự yếu kém của Mỹ và là nỗi hổ thẹn đối với Hàn Quốc, nước đã công khai tuyên bố tàu sân bay George Washington sẽ sát cánh bên nước này ở Hoàng Hải.

Đầu tháng 8, Lầu Năm Góc tuyên bố rằng “trong những tháng tới”, tàu sân bay George Washington quả thực sẽ tham gia các cuộc tập trận ở Hoàng Hải. Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ James Steinberg giải thích: “Trung Quốc đang phải chịu đựng ‘sự sỉ nhục’ từ các cuộc tập trận ở gần bờ biển của họ, và mặc dù chúng không được nhắm mục tiêu vào Trung Quốc, các cuộc tập trận này là kết quả trực tiếp của việc Trung Quốc ủng hộ Triều Tiên và không sẵn sàng lên án sự gây hấn của họ”.

Tuy nhiên, nhiều tuần sau đó chính quyền một lần nữa thay đổi lộ trình khi một phát ngôn viên của Lầu Năm Góc tuyên bố tàu sân bay George Washington sẽ không tham gia các cuộc tập trận sắp tới ở Hoàng Hải. Tình trạng đối đầu đã đi tới hồi kết chỉ ngay sau một hành động hiếu chiến khác của Triều Tiên vào tháng 11. Chỉ vài tháng sau vụ tấn công vào Cheonon, Triều Tiên đã tiến hành một cuộc pháo kích táo bạo vào đảo Yeonpyeong của Hàn Quốc, khiến 4 người thiệt mạng và làm 18 người bị thương. Nhiều ngày sau đó, tàu sân bay George Washington được cử đến Hoàng Hải để tập trận và kể từ đó các tàu sân bay của Mỹ đã diễn tập ở Hoàng Hải nhiều lần mà không gặp phải sự phản đối lớn nào từ Bắc Kinh.

Thử thách mới ở Biển Đông 

Trong suốt 2 năm qua, Trung Quốc đã đổ gần 1.200 hecta cát lên trên 7 cấu trúc địa hình dưới nước và các bãi đá mà nước này chiếm đóng ở Biển Đông đang có tranh chấp, tạo ra “các đảo nhân tạo” mới trên nơi mà họ vốn đã xây dựng các cơ sở và đường băng cấp quân sự. Nhịp độ xây dựng nhanh chóng đã khiến cho phần lớn cộng đồng phân tích và Chính phủ Mỹ không kịp trở tay, chỉ thu hút được sự chú ý vào năm nay sau khi các tổ chức tư vấn chiến lược Mỹ như Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á bắt đầu công bố hình ảnh vệ tinh đầy sống động cho thấy phạm vi và quy mô chưa từng có của hoạt động cải tạo đất của Trung Quốc.

Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) không cấm việc cải tạo đất nhưng Điều 60 cấm các nhà nước đưa ra yêu sách về các quyền được mở rộng đối với những đảo nhân tạo được xây dựng trên cái mà trước đó chỉ là các bãi đá và bãi đất chỉ nổi lên khi thủy triều xuống (LTE). Thay vì vùng lãnh hải 12 hải lý có thể mở rộng được và Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý được trao cho các đảo “tự nhiên”, UNCLOS quy định rõ rằng các đảo nhân tạo chỉ được hưởng các quyền mà cấu trúc địa hình nguyên thủy có được trước khi cải tạo đất – một vùng lãnh hải 12 hải lý đối với các bãi đá nổi trên mặt nước khi thủy triều xuống, và một khu vực an toàn rộng 500m xung quanh các LTE khi thủy triều xuống thấp nhất.

Lo sợ rằng Trung Quốc có thể tuyên bố các quyền mở rộng đối với những đảo nhân tạo mới, gần như ngay lập tức, các nhà phân tích của Mỹ bắt đầu kêu gọi các “Hoạt động Tự do Hàng hải” (FONOP) xung quanh những đảo nhân tạo này. Chương trình FONOP, đi vào hoạt động kể từ năm 1979, đơn giản là liên quan đến việc cho tàu và máy bay đi qua các vùng biển và không phận nhằm thách thức (và nói rõ rằng Mỹ không công nhận) những yêu sách chủ quyền lãnh thổ quá mức và bất hợp pháp.

Tháng 5/2015, vấn đề FONOP nhận được sự chú ý nhiều hơn và cấp bách hơn khi Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ mời một nhóm đưa tin của CNN lên máy bay hải giám P-8 khi máy bay này tuần tra Biển Đông gần các đảo nhân tạo của Trung Quốc (nhưng không nằm trong phạm vi 12 hải lý). Chương trình được phát sóng sau đó trên CNN, nhóm đưa tin đã ghi lại được một người trực tổng đài của Trung Quốc tự xưng là “Hải quân Trung Quốc” và yêu cầu P-8 “phải rời khỏi ngay lập tức” – và người này nói rằng P-8 đang đi vào “vùng cảnh báo quân sự của Trung Quốc”.

Mặc dù Trung Quốc đã từ chối làm rõ nước này đang đòi hỏi vị thế gì cho các đảo nhân tạo, nhưng lời cảnh báo đã làm dấy lên quan ngại vì UNCLOS không công nhận một “vùng cảnh báo quân sự” cho bất kỳ cấu trúc địa hình nào ở bất kỳ khoảng cách nào, chứ chưa nói đến bên ngoài 12 hải lý. Sự cố này đã dẫn đến những lời kêu gọi tiếp tục yêu cầu Chính quyền Obama tiến hành các hoạt động tự do hàng hải bên trong 12 hải lý của ít nhất các cấu trúc địa hình được biết đến là những LTE trước khi thực hiện cải tạo đất, đặc biệt là Đá Vành Khăn (Mischief Reef) và Đá Xu Bi (những cấu trúc địa hình khác có thể có lý lẽ pháp lý giải thích cho một vùng lãnh hải 12 hải lý nhưng không phải là một EEZ 200 hải lý).

Ngay sau sự cố P8, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter đã nhiều lần khẳng định (theo tính toán của tác giả là 3 lần trong một tuần) rằng quân đội Mỹ “sẽ bay qua, cho tàu đến hoạt động ở bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép”. Tuy nhiên, vẫn không có hoạt động tự do hàng hải nào được chỉ thị khi giọng điệu của Trung Quốc bắt đầu trở nên mang tính đối đầu hơn. Ngày 25/5, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc cảnh báo rằng các hoạt động tự do hàng hải: “rất có khả năng tạo ra tính toán sai lầm và những sự cố không lường trước được ở các vùng biển và vùng trời” và “vô cùng nguy hiểm và thiếu trách nhiệm”. Cùng ngày, tờ Thời báo Hoàn cầu có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa hơn đã lớn tiếng: “Nếu giới hạn cuối cùng của Mỹ là Trung Quốc phải dừng các hoạt động [cải tạo đất] của mình thì một cuộc chiến tranh Mỹ-Trung là không thể tránh khỏi ở Biển Đông”.

Với việc quyết định nằm trong tay Mỹ, phản ứng của Chính quyền Obama lại hời hợt một cách khác thường. Vào ngày 18/6, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương Daniel Russel đã có buổi họp báo công khai mà trong đó ông nói: “Dù Biển Đông rất quan trọng…nhưng đó căn bản không phải là vấn đề giữa Mỹ và Trung Quốc”. Bối rối bởi tuyên bố này, tác giả đã đáp lại bằng một bài viết trên tờ The Diplomat, “Hãy trở nên thực tế: Biển Đông là vấn đề Trung-Mỹ”, lập luận rằng việc chính quyền trì hoãn các hoạt động tự do hàng hải thể hiện một tính toán sai lầm lớn về chiến lược. Bài viết khẩn khoản yêu cầu Obama “thách thức một cách nhanh chóng và trực tiếp bất kỳ tuyên bố nào về các quyền mở rộng cho những hòn đảo nhân tạo bằng cách ra lệnh cho quân đội Mỹ cho máy bay và tàu hoạt động bên trong những giới hạn pháp lý được tuân thủ theo UNCLOS”. Lý do đơn giản là: Mỹ càng chờ để thách thức bất kỳ tiền lệ mới nào thì nó lại càng chắc chắn trở thành tiền lệ. Việc trì hoãn hơn nữa trên thực tế có thể làm dấy lên nguy cơ xung đột và đem lại cho Trung Quốc cơ hội đổ lỗi cho Washington vì bất kỳ cuộc đối đầu nào trong tương lai với việc phá vỡ cái nổi lên như là một nguyên trạng hòa bình.

Đó không phải là một lập trường gây tranh cãi đặc biệt. Vấn đề tự do hàng hải đem lại một tình huống hiếm hoi trong chính sách đối ngoại, nơi mà “những khu vực chưa phân rõ trắng đen” bị lấn át bởi sự dư thừa đen và trắng; nơi có một lựa chọn chính sách rõ ràng và hiển nhiên có cơ sở về mặt chính trị, pháp lý, chiến lược và đạo đức, và được ủng hộ bởi Quốc hội, Bộ Quốc phòng, quân đội Mỹ, các đối tác khu vực của Mỹ, đại đa số học giả pháp lý quốc tế và các nhà phân tích khu vực.

Theo chất vấn từ Ủy ban quân lực Thượng viện, ngày 17/9, ngay cả người đứng đầu Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Harry Harris, cũng thừa nhận rằng ông ủng hộ các hoạt động tự do hàng hải xung quanh các đảo nhân tạo của Trung Quốc. Trong cùng phiên điều trần, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng phụ trách các vấn đề an ninh châu Á và Thái Bình Dương David Shear tiết lộ rằng các hoạt động vẫn đang chờ “tín hiệu đèn xanh” từ Nhà Trắng, cơ quan đã không phê chuẩn một hoạt động tự do hàng hải bên trong 12 hải lý của các cấu trúc địa hình của Trung Quốc kể từ năm 2012.

 

Trò chơi thi gan đầy rủi ro

Điều mà Nhà Trắng đã không đánh giá đúng từ đầu đến cuối biến cố này là nước này càng mất nhiều thời gian nói về các hoạt động tự do hàng hải mà không thực sự tiến hành chúng, thì tình hình sẽ càng trở nên bất ổn, và ban lãnh đạo Trung Quốc càng cảm thấy áp lực nhiều hơn phải công khai thực hiện sự chống đối mạnh mẽ và bảo thủ hơn bao giờ hết. Giọng điệu xuất hiện bên ngoài Bắc Kinh chỉ trong tháng trước đó đã vượt quá bất kỳ điều gì được chứng kiến trong suốt thời gian “nắn gân” nhau ở Hoàng Hải. Hãy xem xét:

• Ngày 15/9, Phó Đô đốc của Trung Quốc Viên Dự Bách, Tư lệnh Hạm đội Bắc Hải của Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLAN), đã nói tại một hội nghị quốc tế: “Biển “Nam Trung Hoa”, như tên gọi cho thấy, là vùng biển thuộc về Trung Quốc” và đã là vậy kể từ Triều Hán vào năm 206 trước Công nguyên.

• Ngày 16/9, Thượng tá PLA Li Jie đã bảo vệ việc Trung Quốc xây dựng các đường băng cấp quân sự trên các đảo nhân tạo: “Đây là sân sau của chúng ta, chúng ta có thể quyết định mình muốn trồng rau gì hay loại hoa gì”.

• Ngày 2/10, tờ New York Times đăng một bài phỏng vấn với Đại tá Liu Mingfu, người nổi tiếng là hay kích động, mà trong đó ông cảnh báo: “Có những ngọn lửa quanh châu Á, và mỗi một nơi đều có thể là một chiến trường trong tương lai”.

• Ngày 8/10, tờ New York Times đăng thêm các bình luận từ Đại tá Liu Mingfu, gồm: “[Mỹ và Nhật Bản] đã và đang xúi giục các nước láng giềng của chúng ta khiêu khích chúng ta… chúng ta sẵn sàng tham chiến”; “Trung Quốc đã và đang làm tất cả những gì có thể để ngăn chặn một cuộc chiến như vậy, nhưng chúng ta chắc chắn sẽ chuẩn bị sẵn sàng cho nó”; “Mỹ đã và đang dùng nắm đấm và dao để tấn công vào những nước khác” và; “quan hệ Trung-Mỹ đã bước vào giai đoạn cuối của trận đấu. Đó là một giai đoạn nguy hiểm. Sẽ có một trận quyết đấu giữa hai quốc gia”.

• Ngày 10/10, một “quan chức quân đội cấp cao của Trung Quốc” nói với tờ Newsweek: “Có 209 cấu trúc địa hình ở Biển Đông vẫn chưa được kiểm soát và chúng tôi có thể chiếm giữ tất cả”.

• Ngày 11/10, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố: “Chúng ta sẽ không bao giờ để cho bất kỳ nước nào xâm phạm các vùng lãnh hải và không phận của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa, dưới danh nghĩa bảo vệ quyền tự do hàng hải”.

• Ngày 15/10, trích dẫn tờ Thời báo Hoàn cầu có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa: PLA “cần phải sẵn sàng thực hiện những biện pháp trả đũa tùy theo mức độ khiêu khích của Washington…nếu Mỹ có cách tiếp cận hung hăng thì điều đó sẽ phá vỡ giới hạn dưới cùng của Trung Quốc và Trung Quốc sẽ không khoanh tay đứng nhìn”.

• Ngày 15/10, Đô đốc Yang Yi đã cảnh báo rằng PLA sẽ tung ra “cú đấm trực diện” đối với bất kỳ lực lượng nước ngoài nào “xâm phạm” chủ quyền của Trung Quốc.

• Ngày 16/10, Tân Hoa xã đã cảnh báo các hoạt động tự do hàng hải “sẽ khiến Trung Quốc không có lựa chọn nào khác ngoài việc tăng cường các khả năng phòng thủ của mình”. Các hoạt động tự do hàng hải sẽ là một “sai lầm nghiêm trọng của Mỹ khi sử dụng các biện pháp quân sự để thách thức Trung Quốc” và “có thể dẫn tới hiểu lầm nguy hiểm giữa hai quân đội”. Trung Quốc “sẽ đáp trả bất kỳ sự khiêu khích nào một cách thích đáng và kiên quyết”.

Bắc Kinh cũng không phải chỉ sử dụng giọng điệu hiếu chiến. Ngày 4/9, lần đầu tiên từ trước cho tới nay, Trung Quốc triển khai các tàu hải quân bên trong 12 hải lý của quần đảo Aleutian thuộc bang Alaska. Điều gây chú ý là sự hiện diện của những tàu này trong vùng lãnh hải của Mỹ lại vào đúng thời điểm Obama có chuyến thăm cấp cao tới Alaska. (Tiêu chuẩn kép hiển nhiên – cử các tàu chiến đi qua vùng lãnh hải của Mỹ trong khi đe dọa Mỹ nếu nước này làm điều tương tự với Trung Quốc – gần như chẳng phải là mối quan ngại đối với Bắc Kinh. Năm 2013, Hải quân Trung Quốc bắt đầu tuần tra các EEZ xung quanh Hawaii và Guam, nhưng họ vẫn khăng khăng rằng các tàu quân sự của Mỹ phải có được sự chấp thuận của Bắc Kinh để được hoạt động trong EEZ của Trung Quốc). Chưa đầy 2 tuần sau sự cố ở Alaska, một máy bay ném bom Xian JH-7 của Trung Quốc đã “áp sát” máy bay RC-135 của Không quân Mỹ trong một “cuộc chạm trán không an toàn” bên trên vùng biển quốc tế ở Hoàng Hải, nghe nói chỉ cách mũi của máy bay Mỹ có 500 feet.

Mỹ có lẽ đã không phải chịu đựng vì đã do dự trong năm 2010 ở Hoàng Hải, và các hoạt động tự do hàng hải xung quanh các đảo nhân tạo của Trung Quốc có thể tiến hành thuận lợi trong thời gian sắp tới mà không gặp phải sự cố gì. Nhưng Mỹ đang chơi trò chơi thi gan vô cùng nguy hiểm với một bên tham gia ngày càng nguy hiểm. Đây không phải là Trung Quốc của năm 2010. Đây là một Trung Quốc có năng lực hơn, tự tin hơn, dân tộc chủ nghĩa hơn và nguy hiểm hơn. Giới hạn sai số đang rút ngắn lại và bài học mà Chính phủ Mỹ hiện nay (và những chính quyền tiếp theo đó) phải rút ra được từ sự kiện này là: lần tới nếu xuất hiện thách thức đối với quyền tự do hàng hải thì phải được giải quyết nhanh chóng và – quan trọng nhất là – ngay tức thì. 

Theo “The Diplomat 

 

Anh Thư