Khu vực này đồng thời cũng là nơi các nước lớn ngoài khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ coi trọng, khiến công tác ngoại giao của Trung Quốc đối với Đông Nam Á khá khó khăn và phức tạp.

Các nhà lãnh đạo Đông Nam Á coi các nước lớn ngoài khu vực là “voi”, hoan nghênh “voi” đến thảo nguyên này ăn cỏ, nhưng không mong muốn nhìn thấy “voi” đấu đá lẫn nhau, giẫm đạp lên “vùng cỏ non” không dễ nuôi dưỡng này. Đây là “lý luận voi” được các nhà lãnh đạo Đông Nam Á đưa ra, mục đích là mưu cầu trạng thái “cân bằng thế lực giữa các nước lớn”. Trung Quốc - vốn được coi là nước lớn - cần hiểu tâm tư của các nước Đông Nam Á, tích cực triển khai công tác ngoại giao toàn diện đối với Đông Nam Á, tiếp tục tăng cường hợp tác về chính trị, ngoại giao, kinh tế với các nước thuộc bán đảo Trung Nam, nhất là đối với Việt Nam.

Tại khu vực Đông Nam Á, từ mặt địa lý cho đến kinh tế, Việt Nam đều có sức ảnh hưởng nhất định. Về mặt địa lý, mặc dù diện tích lãnh thổ của Việt Nam không lớn, nhưng vị trí nằm ở khu vực trung tâm của Đông Nam Á, dựa vào phía Nam của Trung Quốc, vừa tiếp giáp sông liền sông, núi liền núi với nhiều nước thuộc bán đảo Trung Nam, vừa thông qua bờ biển dài tiếp giáp lãnh hải với Philippines, Indonesia, Malaysia. Là một nước lớn đang trỗi dậy, Trung Quốc cần coi trọng ý nghĩa địa chính trị toàn cầu của Đông Nam Á, trong đó Việt Nam phải được coi là một trong những quốc gia trọng điểm mà Trung Quốc cần quan tâm.

Kể từ khi khởi động công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay, Việt Nam đã giành được những thành tựu cải cách to lớn được cả thế giới công nhận, là quốc gia mới nổi tại khu vực Đông Nam Á, được coi là thành viên của “5 nước triển vọng” và “11 quốc gia kim cương”. Đối với một Trung Quốc không ngừng mở rộng thị trường ra bên ngoài, nước láng giềng sắp đạt quy mô dân số 100 triệu người này rõ ràng là thị trường không thể coi nhẹ. Phát triển kinh tế của các nước Đông Nam Á không cân bằng, phân thành các nước ASEAN cũ và ASEAN mới, Việt Nam là nước có nền kinh tế sáng nhất trong số các nước ASEAN mới, vì vậy việc tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế toàn diện với Việt Nam cần trở thành một trong những trọng điểm của Trung Quốc trong việc tăng cường ngoại giao xung quanh. 

Việt Nam và Trung Quốc đều thuộc hệ thống các nước Xã hội Chủ nghĩa (XHCN), về mặt hình thái ý thức và chế độ xã hội đều có rất nhiều điểm đồng và thống nhất. Có thể nói, sự nghiệp XHCN trên phạm vi toàn cầu trong tương lai có thể tái phục hưng hay không, ở một mức độ rất lớn sẽ được quyết định bởi sự phát triển và tăng cường sức ảnh hưởng của Trung Quốc và Việt Nam, điểm này cần là nhân tố quan trọng để xử lý tốt đại cục phát triển quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước Trung-Việt.

Tác giả cho rằng không thể phủ nhận hai nước Trung-Việt còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông, nhưng tranh chấp chủ quyền trên biển và các mâu thuẫn của nó không phải là toàn bộ của mối quan hệ hai nước. Theo tác giả, cần phải nhận thức được rằng từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1991 đến nay, hai nước thông qua hiệp thương và đàm phán hòa bình, đã giải quyết thành công phân định Vịnh Bắc Bộ, ký kết hiệp định hợp tác nghề cá và hiệp định phân định biên giới trên bộ, đã giải quyết được 2/3 vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước, đây là những công việc lớn quan trọng trong phát triển quan hệ hai nước, cũng là việc hiếm thấy trong lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại.

Hiện nay, quan hệ Trung-Việt đang đứng ở giao lộ ngã tư đường, tương lai phát triển từ nay về sau sẽ được quyết định bởi chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc và ngược lại. Nhân dân kỳ vọng những nhận thức chung quan trọng mà lãnh đạo cấp cao hai nước đạt được sẽ được thực hiện nghiêm túc, cùng nhau thúc đẩy quan hệ song phương bước vào một giai đoạn phát triển mới.