Tóm tắt

• Việt Nam từ lâu đã duy trì nguyên tắc “không liên minh” như một nguyên tắc cốt lõi trong chính sách đối ngoại của nước này. Tuy nhiên, khi Trung Quốc ngày càng trở nên quyết đoán ở Biển Đông, có những dấu hiệu rằng Việt Nam đang tiến tới “chính trị liên minh”, hoặc những nỗ lực nhằm tạo dựng các mối quan hệ an ninh và quốc phòng thân thiết nhưng chưa tới mức là các liên minh chính thức, theo hiệp ước với các đối tác then chốt, nhằm ứng phó với tình hình mới.

• Sự cần thiết phải có một sự thay đổi như vậy trong chiến lược Trung Quốc của Việt Nam đã trở nên thích đáng sau khi cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu Hải Dương-981 đã để lộ ra những hạn chế trong chiến lược phòng ngừa của Hà Nội. Nó làm sâu sắc thêm nhận thức của Việt Nam về Trung Quốc như một mối đe dọa nghiêm trọng và làm nổi bật tình trạng không thể dung hòa được giữa 2 mục tiêu đồng thời của nước này là duy trì các mối quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc và bảo vệ những lợi ích của mình ở Biển Đông.

• Việt Nam giờ đây có khả năng tránh được những tổn thất chiến lược mà Trung Quốc từng gây ra cho nước này vào cuối những năm 1970 và 1980 sau khi Hà Nội tạo dựng liên minh với Moskva nhằm chống lại Bắc Kinh. Điều này phần nhiều là do các điều kiện mới ở trong nước và song phương cũng như những thay đổi trong bối cảnh địa chiến lược khu vực.

• Chính trị liên minh của Việt Nam có thể truy nguyên thấy thông qua những mối quan hệ quốc phòng và an ninh được tăng cường của nước này với các đối tác then chốt, những nước có cùng chung lợi ích và những nhận thức về mối đe dọa ở Biển Đông, đáng chú ý nhất là Philippines, Nhật Bản và Mỹ.

• Tuy nhiên, không có khả năng là Việt Nam sẽ bước vào liên minh chính thức, theo hiệp ước với những đối tác này và những đối tác khác, vì những sự dàn xếp như vậy sẽ hạn chế các lựa chọn chính sách của nước này và làm trầm trọng thêm một cách không cần thiết những mối quan hệ vốn đã căng thẳng với Trung Quốc.

• Vì các mục đích phòng thủ, chính trị liên minh của Việt Nam ở Biển Đông có khả năng sẽ dần biến mất một khi Trung Quốc sử dụng cách tiếp cận hòa bình và dựa trên pháp luật đối với những tranh chấp, hoặc bản thân những tranh chấp cuối cùng được giải quyết theo cách thức hòa bình. Tuy nhiên, xét tới những tham vọng trên biển của Trung Quốc và sức mạnh ngày một tăng của nước này, tình huống thứ hai khó có thể là hiện thực. Do đó, chính trị liên minh của Việt Nam ở Biển Đông có khả năng sẽ tiếp tục và góp phần làm biến đổi động lực địa chính trị của khu vực này trong những năm tới.

Giới thiệu

Tháng 5/2014, khi một cuộc khủng hoảng nổ ra sau việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu Hải Dương-981 của họ trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, một số nhà bình luận Việt Nam coi chuyện đó giống như “Tái ông thất mã” đối với nước này. Một trong số họ bày tỏ hy vọng rằng cuộc khủng hoảng sẽ đoàn kết người Việt Nam lại và giúp đẩy nhanh các cải cách của nước này, giống như cách mà sự xâm nhập trái phép của tàu USS Susquehanna vào Vịnh Tokyo đã làm đối với Nhật Bản năm 1853. Trong khi vẫn còn quá sớm để nói liệu những cải cách trong nước có ý nghĩa có diễn ra sau đó hay không, có những dấu hiệu rằng cuộc khủng hoảng đã trở thành một lời kêu gọi thức tỉnh đối với ban lãnh đạo Việt Nam về mối đe dọa Trung Quốc cũng như khả năng dễ bị tổn thương của Việt Nam. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng đã đẩy nhanh những nỗ lực của Việt Nam tìm kiếm các cách tiếp cận thay thế nhằm đối phó với việc Trung Quốc ngày càng quyết đoán ở Biển Đông.

Trong bối cảnh này, một xu hướng dễ nhận thấy trong chính sách đối ngoại của Việt Nam những năm gần đây, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu, là sự dịch chuyển âm thầm của nước này sang chính trị liên minh. Trong bối cảnh này và theo mục đích của bài viết này, “chính trị liên minh” đề cập đến những nỗ lực của Việt Nam tạo dựng các mối quan hệ quốc phòng và an ninh thân thiết nhưng chưa tới mức là các liên minh chính thức, theo hiệp ước với các đối tác then chốt, những nước có cùng chung nhận thức về các lợi ích và những mối đe dọa ở Biển Đông.

Bài viết tìm cách rọi ánh sáng vào xu hướng này bằng cách phân tích chính sách đối ngoại và chiến lược đang hình thành của Hà Nội nói chung và chính sách Trung Quốc của nước này nói riêng trong suốt thập kỷ qua. Bài viết lập luận rằng trong khi Việt Nam có mọi lý do để duy trì một mối quan hệ ổn định và hữu nghị với Trung Quốc, thì thái độ ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông đã buộc Việt Nam phải âm thầm tìm kiếm các mối quan hệ quốc phòng và an ninh mạnh mẽ hơn với các đối tác khu vực nhằm ứng phó với sự hăm dọa của Trung Quốc, đặc biệt là kể từ sau khoảng năm 2010. Sau cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu năm 2014, xu hướng này được tăng cường vì cuộc khủng hoảng này đã làm sâu sắc thêm nhận thức của Việt Nam về Trung Quốc như một mối đe dọa an ninh nghiêm trọng và đem lại cho những nhà chiến lược Việt Nam lý do chính đáng để biện minh cho việc họ theo đuổi chính trị liên minh. Xu hướng này cũng đã được tăng cường bởi việc giới trí thức và những nhà hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam chủ trương một sự thay đổi như vậy, cũng như những thay đổi thuận lợi trong các điều kiện địa chính trị của khu vực, đặc biệt là sự kình địch chiến lược ngày một tăng giữa Trung Quốc và các cường quốc khu vực khác. Bài viết này do đó kết luận rằng chừng nào Trung Quốc còn quyết đoán ở Biển Đông, thì Việt Nam sẽ còn tiếp tục theo đuổi chính trị liên minh. Đây là một kịch bản rất có khả năng khi xét tới sức mạnh ngày một lớn của Trung Quốc cũng như những tham vọng của nước này trên biển.

Bài viết được chia làm 4 phần. Phần đầu đánh giá lại chính sách chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1991, đặc biệt là chiến lược phòng ngừa của Việt Nam và nguyên tắc “3 không”. Phần thứ hai giải thích tại sao một lập trường chiến lược như vậy ngày càng trở nên đáng ngờ, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu năm 2014. Phần thứ ba sau đó phân tích tại sao Việt Nam cần phải theo đuổi chính trị liên minh nhằm đối phó với sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Phần cuối nghiên cứu những biện pháp mà Việt Nam đã và đang thực hiện theo hướng đó. Phần này do đó sẽ phân tích các mối quan hệ quốc phòng và an ninh được tăng cường của Việt Nam với Philippines, Nhật Bản và Mỹ như là những nghiên cứu tình huống về việc Hà Nội theo đuổi chính trị liên minh ở Biển Đông.

Bình thường hóa quan hệ và “Nguyên tắc 3 không”

Do “sự chi phối về địa lý” và sự không cân xứng về sức mạnh, Việt Nam trong suốt lịch sử của mình đã luôn coi Trung Quốc là một mối đe dọa an ninh chủ yếu. Từ khi Đảng Cộng sản hai nước lên nắm quyền vào những năm 1940, sự giống nhau về hệ tư tưởng cũng như “tình trạng ngủ yên” của những tranh chấp lãnh thổ và trên biển đã có xu hướng đưa hai nước xích lại với nhau, đặc biệt là trong suốt những năm 1950 và 1960. Tuy nhiên, trong nửa cuối những năm 1970 và trong những năm 1980, các mối quan hệ song phương trở nên xấu đi một cách mạnh mẽ do những lợi ích quốc gia khác nhau, các điều kiện địa chiến lược bất lợi trong khu vực và sự trỗi dậy trở lại của các tranh chấp lãnh thổ và trên biển. Sau cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi nhưng đẫm máu vào tháng 2-3/1979, cả hai nước đã có một mối quan hệ khó khăn trong suốt những năm 1980. Sau nhiều nỗ lực, đặc biệt là từ phía Việt Nam, hai nước cuối cùng đã bình thường hóa quan hệ vào tháng 11/1991.

Trong giai đoạn hậu bình thường hóa quan hệ, Việt Nam đã thành công trong việc duy trì một mối quan hệ nhìn chung là ổn định, hòa bình và mang lại lợi ích chung với Bắc Kinh, điều mà theo nhiều cách đã góp phần vào sự phát triển bên trong của nước này. Đặc biệt, thương mại song phương đã gia tăng theo cấp số nhân và Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong năm 2004. Năm 2008, hai nước tuyên bố thiết lập “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”.

Tuy nhiên, mong muốn của Việt Nam duy trì một mối quan hệ ổn định và hòa bình với Trung Quốc đã bị kiềm chế bởi căng thẳng gia tăng ở Biển Đông. Đối mặt với những áp lực ngày càng lớn từ Bắc Kinh, Hà Nội đã và đang phải viện đến một chiến lược phòng ngừa đa phương hướng, nhiều cấp độ kết hợp cả các yếu tố lôi kéo và cân bằng. Nhằm triển khai chiến lược này, Việt Nam đã trực tiếp can dự với Trung Quốc về chính trị và thúc đẩy hợp tác kinh tế với Trung Quốc nhằm giúp duy trì một môi trường khu vực hòa bình và ổn định và đạt được những lợi ích tối đa từ mối quan hệ song phương. Mặt khác, Việt Nam cũng đã và đang theo đuổi một chương trình hiện đại hóa quân đội thông qua sự phát triển của ngành công nghiệp quốc phòng trong nước của mình cũng như mua sắm trang thiết bị quân sự từ các đối tác nước ngoài. Việt Nam cũng đã đầu tư vào những nỗ lực cân bằng mềm trước Trung Quốc bằng cách tận dụng các thể chế khu vực, đặc biệt là ASEAN, nhằm chống lại những áp lực của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Đồng thời, Việt Nam cũng đã tăng cường các mối quan hệ chiến lược với các đối tác lớn khác. Chẳng hạn, vào cuối năm 2014, Việt Nam đã duy trì các cuộc đối thoại thường xuyên về chiến lược và quốc phòng ở cấp thứ trưởng với phần lớn các cường quốc quân sự chủ yếu, bao gồm Úc, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Italy, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Nga, Anh và Mỹ. Một số trong những đối tác đối thoại này cũng là những nguồn chính cho việc mua sắm trang thiết bị quân sự của Việt Nam, đặc biệt là Nga. Nhiều hoạt động hợp tác quốc phòng với các đối tác chính, như trao đổi những chuyến thăm của các quan chức quân đội cấp cao, các chuyến thăm cảng, trao đổi tin tức tình báo, huấn luyện, diễn tập tìm kiếm và cứu nạn, cũng đã được tăng cường.

Trong bối cảnh này, các quan chức Việt Nam nhiều lần tuyên bố rằng các mối quan hệ quốc phòng được tăng cường của nước họ với các đối tác khu vực không nhắm trực tiếp vào bất kỳ nước thứ ba nào. Rõ ràng là, khán giả mục tiêu của những tuyên bố như vậy là Trung Quốc, nước có khả năng lo lắng và giận dữ bởi những mối quan hệ quốc phòng mạnh mẽ hơn của Việt Nam với các cường quốc khu vực, đặc biệt là Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ. Đặc biệt, những quan chức này đã nhấn mạnh “Nguyên tắc 3 không”, đó là không tham gia bất kỳ liên minh quân sự, không cho nước nào đặt căn cứ trên lãnh thổ Việt Nam, và không liên kết với một nước để chống lại nước thứ ba. Các yếu tố của những nguyên tắc như vậy được đề cập lần đầu tiên trong Sách trắng Quốc phòng năm 1998, và được nêu chi tiết trong Sách trắng Quốc phòng khác năm 2004. Đặc biệt, Sách trắng Quốc phòng năm 2004 tuyên bố:

Chính sách của Việt Nam là không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, không cho phép bất kỳ quốc gia nước ngoài nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam, và không tham gia vào bất kỳ hoạt động quân sự nào có sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực chống lại nước khác. Tuy nhiên, Việt Nam sẵn sàng bảo vệ mình trước bất kỳ sự xâm phạm nào tới lãnh thổ, vùng trời, biển và các lợi ích quốc gia; Việt Nam sẽ không thực hiện các cuộc chạy đua vũ trang, nhưng không ngừng tăng cường các khả năng quân sự của mình vì mục đích phòng vệ đầy đủ.

Mặc dù “Nguyên tắc 3 không” gồm có 3 trụ cột, nhưng nó chung quy xoay quanh một nguyên tắc cốt lõi: không liên minh. Về cơ bản, không có một hiệp ước liên minh chính thức thì một nước bất kỳ nào đó không được phép đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam và Việt Nam cũng không thể sử dụng mối quan hệ này để nhắm mục tiêu vào nước thứ ba.

Vậy tại sao Việt Nam lại đặt trọng tâm quá nhiều vào nguyên tắc “không liên minh”?

Thứ nhất, sau khi đã trải qua một cuộc đấu tranh gian khổ giành độc lập và thống nhất, Việt Nam luôn coi trọng chính sách đối ngoại độc lập của mình và kiềm chế bất kỳ hành động nào có thể gây tổn hại đến nguyên tắc này. Thứ hai, những bài học lịch sử từ kỷ nguyên Chiến tranh Lạnh, đặc biệt là mối quan hệ không mấy thân thiện với Trung Quốc kể từ cuối những năm 1970 cho đến năm 1991 do Việt Nam chuyển hướng sang Liên Xô gây bất lợi cho Trung Quốc, đã cảnh báo các nhà lãnh đạo Việt Nam rằng chính trị liên minh có thể mang đến kết quả ngược lại so với mong đợi và đặt nước này vào vị thế chiến lược bất lợi. Thứ ba, sự trỗi dậy của Trung Quốc lên vị thế cường quốc toàn cầu khiến các nhà lãnh đạo Việt Nam thậm chí còn trở nên thận trọng hơn trong việc đưa ra bất kỳ hành động nào mà có thể “xúc phạm” đến Bắc Kinh. Điều này không chỉ là vì Việt Nam, với tư cách là một nước láng giềng, sẽ nhận được cú đấm mạnh hơn khi Trung Quốc trút cơn giận dữ và tỏ rõ sức mạnh của họ, mà còn bởi vì các nhà lãnh đạo Việt Nam có xu hướng coi những người đồng cấp của họ ở Bắc Kinh là những đồng minh chủ chốt trong việc bảo vệ chế độ. Hơn nữa, các cơ hội kinh tế mà Trung Quốc đem lại cũng làm dịu những ý định theo đuổi bất kỳ sáng kiến chiến lược nào mà có thể gây bất ổn cho các mối quan hệ song phương. Như vậy, có một động cơ mạnh mẽ để ban lãnh đạo Việt Nam theo đuổi nguyên tắc “không liên minh” và duy trì một sự cân bằng giữa Trung Quốc và các cường quốc khu vực khác, đặc biệt là Mỹ.

Tầm quan trọng ngày một giảm của “Nguyên tắc 3 không”

Tuy nhiên, chiến lược “không liên minh” của Việt Nam đang cho thấy những hạn chế khi Trung Quốc ngày càng trở nên hung hăng ở Biển Đông trong suốt thập kỷ qua. Những hạn chế như vậy được thể hiện trong cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu năm 2014 ở ít nhất 4 khía cạnh.

Thứ nhất, trong cuộc khủng hoảng này, Trung Quốc thể hiện sự hung hăng ở mức độ cao chưa từng thấy kể từ sau vụ đụng độ hải quân Trung-Việt năm 1988 ở quần đảo Trường Sa. Có lúc, Trung Quốc đã triển khai tới 140 tàu các loại và thuộc nhiều lực lượng khác nhau, kể cả tàu chiến của hải quân, để bảo vệ giàn khoan dầu. Các tàu của Trung Quốc cũng đã va đâm và phun vòi rồng vào các tàu của Việt Nam. Khi những hành động gây hấn này của các lực lượng Trung Quốc được đưa tin đến người dân Việt Nam thông qua các kênh truyền thông đại chúng, một cảm giác “bên miệng hố chiến tranh” đã lan rộng khắp nước này trong nhiều tuần và làm sâu sắc thêm nhận thức của dân chúng Việt Nam về Trung Quốc như là một mối đe dọa lớn. Trong bối cảnh này, có thể lập luận rằng chính sách “không liên minh” chỉ thích đáng khi Việt Nam không phải đối mặt với mối đe dọa nghiêm trọng nào tới nền độc lập và tính toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Trước mối đe dọa quân sự nghiêm trọng và cấp bách, sự chú trọng vào chính sách “không liên minh” sẽ lấy đi một cách không cần thiết sự linh hoạt chiến lược mà Việt Nam rất cần có và đem lại sự bất lợi hơn nữa cho nước này so với một đối thủ hùng mạnh hơn nhiều.

Thứ hai, cuộc khủng hoảng này cho thấy sự khác biệt to lớn giữa sức mạnh và khả năng của hai nước. Trong khi Trung Quốc thường huy động từ 80 đến hơn 100 tàu các loại để bảo vệ giàn khoan dầu và gây trở ngại cho các tàu của Việt Nam, thì có tin Việt Nam chỉ cử 29 tàu tới khu vực khủng hoảng. Vì Cảnh sát biển Việt Nam (VCG) và đặc biệt là Lực lượng Kiểm ngư Việt Nam (VMRS) – hai lực lượng chủ chốt mà Việt Nam triển khai tới khu vực này – vẫn còn trong giai đoạn đầu xây dựng lực lượng, nên số lượng các tàu của họ bị hạn chế. Mức độ gây tổn hại mà các tàu của Trung Quốc gây ra cho các tàu của Việt Nam thậm chí còn làm dấy lên nỗi sợ hãi trong một số nhà phân tích của Việt Nam rằng Việt Nam có lẽ đã không có đủ tàu để đối đầu với Trung Quốc trong những vùng biển xung quanh giàn khoan này nếu cuộc khủng hoảng kéo dài. Do đó, cuộc đối đầu xung quanh giàn khoan dầu này đã nêu bật sự không cân xứng về sức mạnh giữa hai nước, khiến cho chính sách “không liên minh” trở nên thậm chí còn đáng ngờ hơn vì Việt Nam trên thực tế sẽ không có khả năng tự mình chống lại sự gây sức ép về quân sự của Trung Quốc.

Thứ ba, bằng việc triển khai một cách hung hăng giàn khoan dầu vào trong EEZ của Việt Nam, Trung Quốc đã phớt lờ thỏa thuận mà ban lãnh đạo hai nước từng đạt được, rằng cả hai bên sẽ không tìm cách làm leo thang các căng thẳng ở Biển Đông. Trong những giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng này, Trung Quốc thậm chí còn nhiều lần bỏ ngoài tai những lời đề nghị đàm phán của Việt Nam. Sau cuộc khủng hoảng này, Trung Quốc tiếp tục theo đuổi những hành động leo thang bằng cách xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa. Do đó, chiến lược phòng ngừa của Việt Nam nói chung và “Nguyên tắc 3 không” nói riêng đã chứng tỏ không đủ hiệu quả trong việc ngăn chặn sự hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Nói cách khác, cuộc khủng hoảng này đã buộc Việt Nam phải suy nghĩ lại về chính sách Trung Quốc của nước này, đặc biệt là “Nguyên tắc 3 không”.

Thứ tư, cuộc khủng hoảng đã cho thấy rằng sự ủng hộ của quốc tế, đặc biệt là từ những đối tác hùng mạnh và có sức ảnh hưởng, đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy “sự nghiệp chính đáng” của Việt Nam và gây áp lực buộc Trung Quốc phải xuống thang căng thẳng. Trong suốt cuộc khủng hoảng, những tuyên bố từ Mỹ, Nhật Bản, Philippines, Ấn Độ và Úc, những tuyên bố hoặc lên án các hành động của Trung Quốc hoặc yêu cầu cả hai bên giải quyết tranh chấp một cách hòa bình theo luật pháp quốc tế, tất cả đều nhằm mục đích phủ nhận tính hợp pháp của các hành động của Trung Quốc. Chẳng hạn, Thượng viện Mỹ đã thông qua một nghị quyết (S.RES.412) vào ngày 10/7/2014 kêu gọi Trung Quốc rút giàn khoan dầu và các tàu hộ tống, và Phó trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Michael Fuchs vào ngày 11/7/2014 cũng đã kêu gọi Trung Quốc ngừng các hành động khiêu khích. Trong khi đó, ngoài những tuyên bố bác bỏ những hành động của Trung Quốc trong cuộc khủng hoảng, đầu tháng 8/2014 Nhật Bản cũng tuyên bố rằng họ sẽ cung cấp cho Việt Nam 6 tàu tuần tra như là một phần của gói viện trợ. Những cử chỉ này khiến cho các nhà chiến lược người Việt Nam hiểu được thực tế rằng sự ủng hộ bên ngoài là cần thiết cho những nỗ lực của nước này bảo vệ các lợi ích của mình ở Biển Đông.

Ngày 15/7/2014, Trung Quốc cuối cùng đã tuyên bố rút giàn khoan dầu của họ về. Tuy nhiên, điều đó đã để lại nhiều lỗ hổng, cả ở đáy biển lẫn trong lòng tin lẫn nhau giữa hai nước. Sự cố này cũng đã khiến nhiều học giả và trí thức Việt Nam kêu gọi liên minh với các nước có cùng tư tưởng nhằm chống lại sự hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Trong các nhà hoạch định chính sách đối ngoại, cuộc tranh luận ít cởi mở hơn vì chủ đề này vẫn là một vấn đề nhạy cảm, nhưng một số người đã bóng gió về ý tưởng theo đuổi chính trị liên minh. Chẳng hạn, Hoàng Anh Tuấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách đối ngoại, đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn rằng sức mạnh nội tại của Việt Nam không đủ để bảo vệ những lợi ích của nước này ở Biển Đông. Thay vào đó, nước này “phải kết hợp sức mạnh quốc gia với sức mạnh của thời đại và sự ủng hộ của quốc tế”, như nước này từng làm trong các cuộc chiến giành tự do trước đây.
Phân tích trên đây cho thấy rằng điều ngày càng trở nên cần thiết đối với Việt Nam là phải theo đuổi chính trị liên minh nhằm đối phó với sự gây sức ép của Trung Quốc ở Biển Đông. Tuy nhiên, vẫn còn phải xem xét câu hỏi liệu một động thái như vậy có khả thi hay không.

Lý lẽ ủng hộ Việt Nam theo đuổi chính trị liên minh

Quả thực, những xu hướng đang nổi lên trong bối cảnh địa chính trị khu vực cũng như các điều kiện song phương đã khiến Việt Nam ngày càng có khả năng theo đuổi chính trị liên minh nhằm đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông.

Trước tiên và trên hết, Việt Nam không có khả năng đối mặt với những vấn đề tương tự từng nảy sinh từ sự thù địch của Trung Quốc vào cuối những năm 1970. Sau khi Hà Nội thiết lập một liên minh không chính thức với Moskva thông qua một thỏa thuận hữu nghị và hợp tác vào tháng 11/1978, Bắc Kinh đã phản ứng một cách mạnh mẽ bằng việc gây áp lực rất lớn về ngoại giao và quân sự với Hà Nội, lên đến đỉnh điểm là cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi nhưng đẫm máu vào đầu năm 1979 và kéo dài thêm căng thẳng giữa hai nước trong suốt những năm 1980. Bài học lịch sử cho Việt Nam trong sự kiện này là tự ý liên minh với một cường quốc nước ngoài để chống lại Trung Quốc là không khôn ngoan. Kết quả là, một bộ phận ban lãnh đạo Việt Nam giờ đây có xu hướng nghĩ rằng việc theo đuổi chính trị liên minh nhằm chống lại sự hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông có thể sẽ gây ra những tổn thất chiến lược tương tự cho nước này.
Tuy nhiên, những bài học trong lịch sử có thể là một chỉ dẫn sai lầm cho tương lai, đặc biệt là khi hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi. Không giống như những năm 1970 và 1980, Việt Nam giờ đây ở vị thế tốt hơn nhiều để tránh được những tổn thất về chiến lược mà Trung Quốc có thể gây ra cho nước này trước đây.

Thứ nhất, về kinh tế, việc Trung Quốc bắt đầu một cuộc xung đột vũ trang với Việt Nam khó có thể nằm trong lợi ích của nước này. Không giống như năm 1979 khi Trung Quốc mới chỉ bắt đầu “Bốn hiện đại hóa” và vẫn còn khá bị cô lập, Trung Quốc giờ đây là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới với những mối liên kết kinh tế quốc tế mạnh mẽ. Do đó, một cuộc xung đột vũ trang với Việt Nam, điều có khả năng sẽ tạo ra những tác động tiêu cực tới nền kinh tế Trung Quốc, đặc biệt là các trung tâm thương mại phía Nam ở Quảng Châu và Hong Kong, hẳn sẽ không phải là đường hướng hành động mà các nhà chiến lược Trung Quốc tính đến. Hơn nữa, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày một tăng về kinh tế song phương thông qua các mối liên kết thương mại và đầu tư cũng ngăn cản Trung Quốc tiến hành các hành động quân sự nhằm vào Việt Nam.

Thứ hai, mặc dù Việt Nam không theo kịp được Trung Quốc về phương diện sức mạnh quân sự, nhưng họ vẫn có thể gây ra những tổn thất đáng kể cho Trung Quốc nếu một cuộc xung vũ trang công khai giữa hai nước nổ ra. Chẳng hạn, một số nhà chiến lược Việt Nam đã gợi ý rằng nếu xung đột vũ trang công khai diễn ra, thì Việt Nam có thể đáp trả các cuộc tấn công của Trung Quốc bằng cách sử dụng tên lửa nhắm mục tiêu vào các thành phố phía Nam của Trung Quốc, hoặc triển khai tàu ngầm và tàu chiến cũng như các tên lửa đạn đạo ven biển tấn công vào các thương thuyền và các công-ten-nơ chở dầu của Trung Quốc đi qua phần phía Nam của Biển Đông. Nghe nói Việt Nam cũng sở hữu các tên lửa đạn đạo ven biển nằm trong tầm bắn của các căn cứ hải quân của Trung Quốc ở đảo Hải Nam và đảo Phú Lâm. Tất cả những khả năng mới này của Việt Nam, cùng với các lợi ích kinh tế lớn hơn có liên quan, có thể gây ra những tổn thất lớn cho hành động quân sự của Trung Quốc, do đó ngăn cản Trung Quốc tấn công Việt Nam về quân sự theo cách mà nước này đã làm vào năm 1979.

Thứ ba, bối cảnh chiến lược quốc tế hiện nay rõ ràng cũng khác so với cuối những năm 1970. Sau khi Trung Quốc bình thường hóa quan hệ với Mỹ vào ngày 1/1/1979, hai nước đã trở thành đồng minh trên thực tế trong việc kiềm chế Liên Xô – đối thủ chiến lược chung của họ. Do đó, Hà Nội – với tư cách là một đồng minh của Moskva – đã trở thành mục tiêu phù hợp cho cả Bắc Kinh lẫn Washington. Đồng thời, việc Việt Nam bị quốc tế cô lập sau khi nước này can thiệp quân sự vào Campuchia đã tạo điều kiện hơn nữa cho các hành động quân sự của Trung Quốc. Nói cách khác, vào cuối những năm 1970, vị thế ngoại giao và chiến lược của Việt Nam yếu ớt và dễ bị tổn thương đến mức Trung Quốc về cơ bản đã có thể rảnh tay “dạy cho Việt Nam một bài học”. Tuy nhiên, hiện tại, xu hướng chiến lược đã xoay sang hướng có lợi cho Việt Nam và Trung Quốc phải đối mặt với những sự kiềm chế đáng kể có xu hướng hạn chế quyền tự do hành động của nước này đối với Hà Nội.

Không giống như năm 1979, Trung Quốc giờ đây là một đối thủ cạnh tranh chứ không phải là một đối tác chiến lược của Mỹ. Năm 1979, Trung Quốc yếu kém, và hiếm khi là mối đe dọa đến những lợi ích khu vực của Washington. Tuy nhiên, sự trỗi dậy chưa từng có của Trung Quốc về kinh tế và quân sự trong suốt 3 thập kỷ qua đã đặt ra mối đe dọa ngày càng tăng cho uy thế toàn cầu và khu vực của Mỹ. Đề xuất của Trung Quốc về một “mối quan hệ nước lớn kiểu mới” giữa hai nước và những sáng kiến gần đây của Chủ tịch Tập Cận Bình như Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), Ngân hàng phát triển mới, Con đường tơ lụa mới, Con đường tơ lụa trên biển, là những dấu hiệu về một Trung Quốc tự tin hơn mà đã “thoát” ra khỏi câu thần chú “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình nhằm tìm kiếm một vị thế sức mạnh ngang tầm với Mỹ. Washington do đó đang đánh giá lại các chính sách đối ngoại và chiến lược của họ nhằm ứng phó với những thách thức này. Ngoài các sáng kiến chủ chốt như “tái cân bằng” sang Đông Á và Quan hệ đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương, Washington cũng đang tăng cường các mối quan hệ với các đồng minh và đối tác khu vực nhằm giành được vị thế chiến lược tốt hơn so với Trung Quốc. Việt Nam, với tư cách là một nước láng giềng quan trọng của Trung Quốc và là bên tham gia chính trong các tranh chấp ở Biển Đông, đã trở thành một trong những đối tác chủ chốt mà Mỹ đang tìm cách thúc đẩy các mối quan hệ chiến lược mạnh mẽ hơn. Trong khi đó, nhận thức ngày một tăng về mối đe dọa Trung Quốc do quyền lực cứng đang lan rộng nhanh chóng của Bắc Kinh, cũng như việc nước này ngày càng quyết đoán trong các tranh chấp lãnh thổ và trên biển với các nước láng giềng cũng đã gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với các cường quốc khu vực chủ yếu như Nhật Bản và Ấn Độ, làm xói mòn hơn nữa vị thế chiến lược khu vực của Bắc Kinh.

Về phần mình, Việt Nam giờ đây không còn là nhà nước “cùng khổ” toàn cầu như trước đây trong những năm 1970 và 1980. Chính sách đối ngoại “đa dạng hóa và đa phương hóa” của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã đem lại một vị thế quốc tế được tăng cường đáng kể, cho phép Việt Nam vượt qua được những áp lực ngoại giao của Trung Quốc một cách hiệu quả hơn. Chẳng hạn, vào cuối năm 1978, Việt Nam chỉ có quan hệ ngoại giao với 98 nhà nước, phần lớn trong số đó là các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa và Thế giới thứ ba. Nhưng tới năm 2015, Việt Nam đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 180 nước trên khắp thế giới, kể cả tất cả 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam cũng đã trở thành một thành viên của ASEAN và bước vào mối quan hệ toàn diện hoặc quan hệ chiến lược với 15 nhà nước lớn khác. Nói cách khác, những điều kiện song phương và khu vực hiện tại cho thấy rằng trong khi Trung Quốc phải đối mặt với những sự kiềm chế chiến lược gia tăng, thì Việt Nam có nhiều nguồn lực và lựa chọn hơn để xử lý những áp lực ngoại giao và quân sự từ Trung Quốc.

Tóm lại, theo đuổi chính trị liên minh đã trở thành một lựa chọn ngày càng cần thiết và khả thi để Việt Nam ứng phó với sự quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông. Tuy nhiên, thách thức then chốt cho nước này là thực hiện sự thay đổi như vậy như thế nào, xét đến thực tế rằng điều đó chắc chắn sẽ khiến Trung Quốc không hài lòng. Phần tiếp theo sẽ giải quyết câu hỏi này và đưa ra phân tích ngắn gọn về sự dịch chuyển âm thầm của Việt Nam hướng tới chính trị liên minh trong một vài năm qua.

Việt Nam đã theo đuổi chính trị liên minh như thế nào?

Mặc dù Việt Nam từ lâu đã hy vọng rằng có thể duy trì mối quan hệ hữu nghị và ổn định với Trung Quốc và đồng thời bảo vệ các lợi ích quốc gia của mình ở Biển Đông, nhưng hai mục tiêu đồng thời này đã ngày càng trở nên không thể dung hòa. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu năm 2014 là một sự kiện quan trọng đã khiến ban lãnh đạo Việt Nam thức tỉnh trước thực tế này.

Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Việt Nam tiếp tục tuyên bố rằng Việt Nam sẽ không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào chống lại nước thứ ba (được hiểu là Trung Quốc). Chẳng hạn, trong một buổi họp báo trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu, mặc dù lên án các hành động của Trung Quốc và tuyên bố rằng Việt Nam sẽ không đánh đổi chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của họ cho một “mối quan hệ hữu nghị ảo tưởng”, nhưng Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng nhắc lại lập trường này và khẳng định “không liên minh” là chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam. Có nhiều lý do tại sao người ta nên nhìn xa hơn những tuyên bố chính thức này để có được hiểu biết đúng hơn về sự thay đổi chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc.

Thứ nhất, mặc dù Việt Nam lo ngại về những động thái quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng ít nhất một bộ phận ban lãnh đạo của nước này có xu hướng hy vọng rằng những động thái này là tạm thời và Trung Quốc sẽ kiềm chế thực hiện các biện pháp hung hăng quá mức trong tương lai. Theo quan điểm này, một sự đổi hướng quyết đoán sang liên minh với các nước thứ ba nhằm chống lại Trung Quốc có lẽ là không cần thiết hoặc ít nhất là vội vàng, và việc duy trì một mối quan hệ tốt đẹp với Bắc Kinh vẫn phải là ưu tiên. Tư duy như vậy được phản ánh trong quyết định của Việt Nam cử các nhà ngoại giao và các quan chức quốc phòng cấp cao tới Bắc Kinh nhằm cải thiện quan hệ sau cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, mặc dù phản ứng như vậy có ý nghĩa trong ngắn hạn, nhưng nó đánh giá thấp xu hướng ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông trong dài hạn. Việc Trung Quốc quyết định xây dựng các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa ngay sau khi cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu lắng xuống và khi hai nước được cho là đang hợp tác nhằm sửa chữa mối quan hệ của họ là một ví dụ thích hợp.

Thứ hai, ngôn từ chính thức có lẽ sai lệch, và “liên minh” trong các tuyên bố chính thức của Việt Nam có ý nghĩa gì lại trở nên quan trọng. Việt Nam có thể không gia nhập liên minh hiệp ước chính thức, nhưng nước này có thể theo đuổi, và quả thực đang theo đuổi, các liên minh không chính thức, mềm dẻo dưới dạng các quan hệ đối tác “toàn diện” và/hoặc “chiến lược” được tăng cường với nhiều nước, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp tác an ninh và quốc phòng. Do đó, thực tế rằng Việt Nam sẽ không tham gia các hiệp ước liên minh chính thức với các cường quốc khu vực không có nghĩa rằng chính trị liên minh không phải là một lựa chọn để Việt Nam chống lại sự quyết đoán của Trung Quốc.

Thứ ba, ngay cả khi có sự thay đổi trong chiến lược Trung Quốc của Việt Nam, thì người ta cũng không nên mong đợi Hà Nội sẽ công khai tuyên bố điều đó. Vị thế của Việt Nam với tư cách là một nước láng giềng nhỏ so với Trung Quốc, cùng với mối quan hệ khá thân thiết giữa hai đảng Cộng sản, khiến cho việc ban lãnh đạo Việt Nam công khai chống lại những người đồng cấp Trung Quốc của họ là điều không cần thiết. Do đó, thay vì đặt nền tảng cho những phân tích dựa vào các tuyên bố chính thức của Hà Nội, chúng ta nên nhìn vào cái mà họ đang thực sự làm để có được đánh giá chính xác hơn về chiến lược Trung Quốc của Việt Nam nói chung và chính trị liên minh của nước này ở Biển Đông nói riêng.

Nội dung tiếp theo trong phần này sẽ nghiên cứu việc Việt Nam gần đây nối lại quan hệ hữu nghị chiến lược với các đối tác chủ chốt, đó là Philippines, Nhật Bản và Mỹ, với tư cách là những nghiên cứu tình huống về sự dịch chuyển dần dần của Việt Nam hướng tới chính trị liên minh ở Biển Đông.

Philippines

Philippines và Việt Nam là “đồng minh tự nhiên” trong cuộc đấu tranh chung chống lại những nỗ lực bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Cả hai nước đều có phần lớn các tuyên bố chủ quyền chồng lấn với Trung Quốc, đặc biệt là ở Trường Sa, và đôi lần đã phải chịu thua trước những biện pháp cưỡng ép của Trung Quốc. Kết quả là, hai nước đã tăng cường phối hợp và hợp tác nhằm đối phó với việc Bắc Kinh ngày càng trở nên quyết đoán.

Sự phối hợp của hai nước về các vấn đề Biển Đông bắt đầu từ giữa những năm 1990, sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN. Tháng 11/1995, Việt Nam và Philippines đã thông qua Tuyên bố chung của các cuộc gặp tham vấn song phương hàng năm lần thứ tư, trong đó gồm 8 nguyên tắc ứng xử ở Biển Đông. Dựa trên tuyên bố chung này và một số văn kiện chính thức khác của ASEAN, đặc biệt là Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác năm 1976, hai nước cùng nhau thảo ra bộ quy tắc ứng xử cho ASEAN sau khi được Diễn đàn Khu vực ASEAN chỉ định. Tuy nhiên, do sự bất đồng về phạm vi áp dụng, bản dự thảo này cuối cùng được thông qua với tư cách là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) giữa ASEAN-Trung Quốc vào năm 2002, chứ không phải là một Bộ quy tắc ứng xử (COC) chính thức, ràng buộc về pháp lý.

Kể từ cuối những năm 2000, hợp tác quốc phòng song phương cũng đã được tăng cường do những mối quan ngại chung về sự quyết đoán ngày một tăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Chẳng hạn, trong chuyến thăm của Tổng thống Philippines Benigno Aquino tới Việt Nam vào tháng 10/2010, hai bên đã ký một thỏa thuận về hợp tác quốc phòng. Một năm sau đó, trong chuyến thăm của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tới Manila vào tháng 10/2011, hai nước đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU) về trao đổi tin tức tình báo giữa hải quân hai nước và thỏa thuận về việc thiết lập một đường dây nóng giữa cảnh sát biển hai nước. Tháng 3/2014, hải quân hai nước đã tổ chức các cuộc hội đàm giữa các nhân viên về tăng cường trao đổi tin tức tình báo và thu thập thông tin, công nghệ và huấn luyện hải quân. Tháng 11/2014, hai tàu hộ vệ của Việt Nam là Đinh Tiên Hoàng và Lý Thái Tổ đã có chuyến thăm cảng lần đầu tiên tới Philippines và tham gia một buổi diễn tập chung về tìm kiếm và cứu nạn.

Về hợp tác ngoại giao và chiến lược, năm 2004 Việt Nam và Philippines đã thiết lập Nhóm công tác chung thường xuyên về các vấn đề biển và đại dương nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trên biển. Tháng 10/2011, hai nước quyết định nâng cấp Nhóm công tác thành Ủy ban hỗn hợp cấp Thứ trưởng Ngoại giao về các vấn đề biển và đại dương, ủy ban từng tổ chức phiên họp đầu tiên tại Manila vào tháng 2/2012. Việt Nam cũng đã tán thành vụ kiện năm 2013 của Philippines nhằm vào những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông lên Tòa trọng tài thường trực. Quan trọng nhất là vào cuối năm 2015, hai nước đã ký tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Một mối quan hệ đối tác như vậy sẽ tạo dựng nền tảng cho hợp tác chiến lược song phương mạnh mẽ hơn. Điều đó cũng cho thấy những nỗ lực của Việt Nam tạo dựng một liên minh trên thực tế, không chính thức với Philippines nhằm đối phó với sự quyết đoán ngày một tăng của Trung Quốc ở Biển Đông.

Nhật Bản

Mặc dù Nhật Bản không phải là một bên tham gia trong các cuộc tranh chấp ở Biển Đông, nhưng lợi ích của nước này về quyền tự do hàng hải và sự an toàn của các tuyến đường giao thông liên lạc trên biển (SLOC) cũng như sự kình địch chiến lược ngày càng tăng của nước này với Trung Quốc đã biến Biển Đông trở thành một vấn đề trong an ninh quốc gia của Nhật Bản. Nhằm giải quyết mối quan ngại này, trong số nhiều thứ khác, Nhật Bản đã tăng cường hợp tác với ASEAN về an ninh hàng hải và bắt đầu đem lại sự hỗ trợ về xây dựng năng lực cho nhiều nước thành viên ASEAN. Những điều kiện này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường hợp tác chiến lược và quốc phòng giữa Nhật Bản và Việt Nam trong thập kỷ qua.

Việt Nam và Nhật Bản đã bước vào mối quan hệ đối tác chiến lược trong năm 2006. Năm 2007, hai bên đã thành lập Ủy ban hợp tác chung cấp bộ trưởng và thông qua một nghị trình chi tiết nhằm thúc đẩy quan hệ song phương trong mọi khía cạnh, kể cả trao đổi quốc phòng. Tháng 3/2014, trong chuyến thăm cấp nhà nước tới Nhật Bản, Chủ tịch Trương Tấn Sang và Thủ tướng Shinzo Abe đã đưa ra một tuyên bố chung nâng cấp quan hệ hai nước thành quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á.

Mặc dù quan hệ song phương đã “đơm hoa kết trái” trong tất cả các lĩnh vực, nhưng các mối quan hệ quốc phòng và an ninh nằm trong số những lĩnh vực hợp tác mới nhất nhưng phát triển nhanh nhất giữa hai nước. Như Carl Thayer nhận xét, quan hệ quốc phòng Việt Nam-Nhật Bản được hình thành vào khoảng năm 2011 khi những căng thẳng ở Biển Đông gia tăng. Cụ thể là, vào tháng 12/2010, hai bên đã tiến hành đối thoại quan hệ đối tác chiến lược hàng năm cấp thứ trưởng ngoại giao nhằm thảo luận hợp tác song phương về chính sách đối ngoại, an ninh và quốc phòng, các vấn đề khu vực và toàn cầu. Năm 2011, Nhật Bản và Việt Nam đã ký MOU nhằm mở rộng phạm vi hợp tác quốc phòng, trong đó bao gồm, trong số những điều khác, trao đổi quốc phòng cấp bộ trưởng, tham mưu trưởng và tư lệnh quân chủng; các chuyến thăm thiện chí của hải quân; đối thoại chính sách quốc phòng hàng năm cấp thứ trưởng quốc phòng; hợp tác trong hàng không quân sự và phòng không; và huấn luyện quân nhân. Đầu tháng 8/2014, khi Trung Quốc vừa mới rút giàn khoan dầu ra khỏi EEZ của Việt Nam, Nhật Bản đã tuyên bố rằng nước này sẽ cung cấp cho Việt Nam 6 tàu tuần tra để hỗ trợ các hoạt động bảo vệ biển của Việt Nam ở Biển Đông. Vì Nhật Bản đang sửa đổi các quy định ODA của nước này nhằm hợp pháp hóa điều khoản về giúp đỡ quân đội nước ngoài, có khả năng là Việt Nam sẽ nhận được sự hỗ trợ quân sự hơn nữa từ Nhật Bản trong tương lai.

Hiện tại, Nhật Bản có lẽ là đối tác chiến lược quan trọng nhất của Việt Nam. Nhật Bản là cường quốc chủ chốt có thể và sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam tăng cường khả năng trong cuộc đấu tranh của nước này chống lại Trung Quốc ở Biển Đông. Hơn nữa, không giống như Mỹ thường gắn thành tích nhân quyền của Việt Nam với sự phát triển của các mối quan hệ song phương, Nhật Bản thực sự không vấp phải vấn đề lớn nào trong việc thúc đẩy các mối quan hệ của họ với Việt Nam. Quan hệ song phương được xây dựng dựa trên mức độ cao của sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau, các nền tảng kinh tế vững chắc, và một sự hội tụ đáng kể nhận thức về lợi ích và mối đe dọa trong lĩnh vực biển của hai nước. Do đó, rất có khả năng là các mối quan hệ chiến lược Việt Nam-Nhật Bản, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng và an ninh, sẽ tiếp tục phát triển trong tương lai có thể thấy trước, đem lại sự thúc đẩy quan trọng khác để Việt Nam chuyển sang chính trị liên minh ở Biển Đông.

Mỹ

Mỹ là một đối tác mới xuất hiện nhưng đầy hứa hẹn mà Việt Nam đang tìm kiếm nhằm làm sâu sắc thêm các mối quan hệ của mình. Bất chấp tình trạng thù địch trong lịch sử gần đây do sự dính líu của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, sự hội tụ ngày càng tăng các lợi ích chiến lược đã kéo hai nước từng là kẻ thù xích lại gần nhau hơn. Trong khi Việt Nam đang tìm cách tăng cường các mối quan hệ với những cường quốc chủ chốt nhằm cân bằng trước áp lực của Trung Quốc ở Biển Đông, thì Washington cũng quan tâm tới việc thúc đẩy quan hệ với các nước khu vực, đặc biệt là các nước láng giềng của Trung Quốc, nhằm âm thầm kiềm chế sức mạnh và ảnh hưởng ngày một tăng của Trung Quốc. Việc Trung Quốc ngày càng quyết đoán ở Biển Đông đem lại một lý do thực dụng và thích đáng để hai nước làm sâu sắc thêm các mối quan hệ của họ.

Như tác giả từng lập luận trong một bài viết khác, tranh chấp Biển Đông giờ đây gồm 3 lớp đan xen vào nhau. Lớp trong cùng liên quan đến sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và từng nhà nước ASEAN tuyên bố chủ quyền, trong đó có cả Việt Nam. Lớp ở giữa là sự cạnh tranh giữa ASEAN và Trung Quốc. Lớp ngoài cùng là sự cạnh tranh chiến lược mới xuất hiện giữa Trung Quốc và Mỹ, mà trong đó Biển Đông tình cờ lại là một trong những chiến trường của tranh chấp đó. Điều này giải thích tại sao Mỹ đang tìm cách tự mình dính líu một cách sâu sắc hơn vào những tranh chấp này bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Thông qua sự dính líu của mình, Mỹ muốn đảm bảo không chỉ quyền tự do và an ninh hàng hải ở Biển Đông, mà còn cả viễn cảnh rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ không đe dọa đến hòa bình khu vực và uy thế của Mỹ trong khu vực và trên toàn cầu. Do đó, động lực địa chính trị này có xu hướng đóng vai trò có lợi cho Việt Nam.

Tuyên bố nổi tiếng của cựu Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tại Diễn đàn Khu vực ASEAN lần thứ 17 (tháng 7/2010 tại Hà Nội), rằng Mỹ “có lợi ích quốc gia trong quyền tự do hàng hải, tiếp cận mở tới những tài sản chung trên biển của châu Á, và sự tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông”, đã đánh dấu một cách biểu tượng một giai đoạn mới trong việc nối lại quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Tiếp sau tuyên bố này, tuyên bố được Hà Nội đón nhận nồng nhiệt vì nó gián tiếp chỉ trích những yêu sách chủ quyền bành trướng và mơ hồ về mặt pháp lý của Trung Quốc ở Biển Đông, là một loạt sự phát triển tăng cường hơn nữa các mối quan hệ song phương lên mức cao kỷ lục.

Ngay sau tuyên bố của bà Clinton, hai nước đã tiến hành đối thoại chiến lược và quốc phòng hàng năm đầu tiên vào tháng 8/2010. Năm 2011, tại đối thoại lần thứ hai ở Washington D.C., hai nước đã ký MOU về quan hệ quốc phòng song phương đem lại nhiều biện pháp hợp tác, bao gồm cả trao đổi những chuyến thăm của các quan chức quốc phòng cấp cao, an ninh biển, tìm kiếm và cứu nạn, các hoạt động tác chiến gìn giữ hòa bình, giúp đỡ nhân đạo và cứu trợ thảm họa. Bước ngoặt lớn đã diễn ra trong chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Trương Tấn Sang vào tháng 7/2013 khi hai bên tuyên bố thiết lập quan hệ đối tác toàn diện. Tháng 12/2013, Mỹ tuyên bố sẽ hỗ trợ cho Việt Nam 18 triệu USD nhằm giúp Hà Nội tăng cường năng lực hàng hải của nước này, bắt đầu bằng việc huấn luyện và cung cấp cho Cảnh sát biển Việt Nam 5 tàu tuần tra cao tốc. Trong một động thái có liên quan, vào tháng 10/2014, Washington quyết định dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, cho phép chuyển vũ khí quân sự hạng nặng của Mỹ có liên quan đến an ninh hàng hải cho Hà Nội.

Tháng 7/2014, trong khi cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu vẫn diễn ra, Thượng viện Mỹ đã thông qua nghị quyết S.RES.412 kêu gọi Trung Quốc rút giàn khoan và các lực lượng trên biển có liên quan, và lên án “những hành động cưỡng ép và đe dọa hoặc sử dụng vũ lực gây cản trở đến quyền tự do hoạt động trong không phận quốc tế của máy bay dân sự và quân sự, nhằm làm thay đổi nguyên trạng hoặc gây bất ổn tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương”. Trong cùng sự kiện, người ta cũng hai lần phát hiện thấy các máy bay do thám của Mỹ bay gần giàn khoan dầu của Trung Quốc vào ngày 29/6 và 2/7/2014. Mặc dù Trung Quốc phủ nhận ảnh hưởng của những áp lực bên ngoài lên quyết định rút giàn khoan dầu của nước này hồi tháng 7/2014, nhưng sự ủng hộ của Mỹ được nhìn nhận một cách tích cực ở Việt Nam và được chứng tỏ là cần thiết để Hà Nội tạo dựng các mối quan hệ an ninh và quốc phòng mạnh mẽ hơn với các cường quốc khu vực, nhằm đối phó với những cuộc khủng hoảng tương tự ở Biển Đông trong tương lai.

Năm 2015, Hà Nội và Washington kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ. Lễ kỷ niệm là một cơ hội đúng lúc để hai nước làm sâu sắc hơn nữa các mối quan hệ nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích quốc gia của hai bên trong bối cảnh địa chiến lược khu vực đang thay đổi nhanh chóng. Một trong những ưu tiên song phương sẽ là trao đổi các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo cấp cao nhất. Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã chính thức tới thăm Mỹ và Tổng thống Obama được cho là sẽ đến thăm Hà Nội để đáp lại. Những chuyến thăm này báo hiệu một tầm cao mới về sự can dự giữa hai nước từng là kẻ thù của nhau. Chúng cũng giúp xây dựng lòng tin lẫn nhau và có thể dọn đường cho những phương thức hợp tác có ý nghĩa hơn nữa trong tương lai.

Như vậy, Washington có khả năng coi nhẹ vấn đề nhân quyền, và người ta không nên kinh ngạc nếu Mỹ tuyên bố hoàn toàn dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Hà Nội trong tương lai gần. Về phía Việt Nam, bất chấp sự e dè của những bộ phận nào đó bên trong Đảng và chính phủ, việc phát triển các mối quan hệ mạnh mẽ hơn với Mỹ vẫn sẽ là một ưu tiên ngoại giao và chiến lược trong những năm tới. Do đó, như cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Pete Peterson đã nhận xét hồi đầu năm 2015 tại một hội nghị ở Hà Nội: “Quan hệ Việt-Mỹ giờ đây rất gần với mức độ của một mối quan hệ đối tác chiến lược”, một sự nâng cấp chính thức quan hệ song phương từ quan hệ đối tác toàn diện hiện tại có khả năng chỉ là vấn đề về thời gian, mặc dù động thái như vậy có thể không quan trọng như điều mà hai nước thực sự sẽ làm để tăng cường quan hệ của họ.

Kết luận

Mặc dù Việt Nam thích duy trì sự cân bằng giữa Trung Quốc và các đối tác khác, đặc biệt là Mỹ, nhưng thái độ ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông đã buộc Việt Nam phải theo đuổi chính trị liên minh như là một biện pháp then chốt để giải quyết những áp lực của Bắc Kinh. Mặc dù một bộ phận trong ban lãnh đạo Việt Nam lo ngại về những hậu quả tiêu cực có thể có của một chiến lược như vậy, nhưng họ sẽ không có lựa chọn nào khác nếu Trung Quốc tiếp tục khẳng định một cách mạnh mẽ các tuyên bố chủ quyền của họ ở Biển Đông. Hơn nữa, các động lực địa chiến lược khu vực hiện tại, mà trong đó Trung Quốc đang phải đối mặt với sự kình địch ngày càng tăng từ Mỹ và Nhật Bản, cũng tạo điều kiện thuận lợi cho một động thái như vậy của Việt Nam. Kết quả là, bất chấp những tuyên bố được lặp lại của các quan chức Việt Nam rằng Việt Nam sẽ không từ bỏ “Nguyên tắc 3 không” của nước này, người ta có thể nhận thấy sự dịch chuyển âm thầm của Hà Nội sang hướng chính trị liên minh thông qua những nỗ lực liên tục nhằm tạo dựng các mối quan hệ quốc phòng và an ninh mạnh mẽ hơn với các đối tác chủ chốt, đáng chú ý nhất là Nhật Bản, Mỹ và trong một chừng mực ít hơn là Philippines.

Tuy nhiên, Việt Nam không có khả năng sẽ bước vào liên minh chính thức, theo hiệp ước với những đối tác này hay các đối tác khác, vì những sự dàn xếp như vậy sẽ hạn chế các lựa chọn chính sách của nước này và làm trầm trọng thêm một cách không cần thiết quan hệ vốn đã căng thẳng với Trung Quốc. Kịch bản có khả năng nhất là, trong khi tìm cách tăng cường các mối quan hệ an ninh và quốc phòng với các đối tác quan trọng, Việt Nam sẽ điều chỉnh nhịp độ và cường độ của những nỗ lực như vậy nhằm ứng phó hiệu quả nhất trước các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Mục tiêu chiến lược toàn diện của Việt Nam là bảo vệ lợi ích của nước này ở Biển Đông trong khi tránh được khả năng dẫn đến một cuộc xung đột vũ trang với Trung Quốc.

Do đó chính trị liên minh của Việt Nam ở Biển Đông là vì các mục đích phòng thủ, và có khả năng sẽ dần biến mất một khi Trung Quốc có cách tiếp cận hòa bình và dựa trên pháp luật đối với các tranh chấp, hoặc bản thân những tranh chấp này cuối cùng được giải quyết theo cách thức hòa bình. Tuy nhiên, xét tới những tham vọng trên biển của Trung Quốc và sức mạnh ngày một lớn của họ, các tình huống này khó có thể là hiện thực, ít nhất là trong tương lai gần. Do đó, chính trị liên minh của Việt Nam ở Biển Đông có khả năng sẽ tiếp tục và góp phần tạo nên động lực địa chính trị đang biến đổi của khu vực này trong những năm tới.

Lê Hồng Hiệp, giảng viên Khoa Quan hệ Quốc tế, trường Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh. Lê Hồng Hiệp hiện đang làm nghiên cứu sinh Tiến sĩ tại Trường Đại học New South Wales, Học viện Quốc phòng Úc. Bài viết được đăng trên Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ESEAS), Singapore.

Văn Cường (gt)