03/12/2012
Sau khi Obama tái đắc cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ hai chưa đầy 48 giờ đã tuyên bố sẽ thực hiện chuyến thăm đầu tiên đến Thái Lan, Campuchia và Mianma, bắt đầu từ ngày 18/11 dường như là động thái lần đầu tiên xảy ra trong lịch sử nước Mỹ, làm cho chiến lược “quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương” của Mỹ một lần nữa nóng lên, đã thể hiện đầy đủ ý chí và quyết tâm của Mỹ trong việc thúc đẩy chuyển dịch trọng tâm chiến lược sang phía Đông.
Mỹ “quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương” trên thực tế là muốn kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy và nâng cao sức ảnh hưởng tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Để giải quyết những vấn đề trong nước như khó khăn tài chính, kinh tế suy thoái và tỉ lệ thất nghiệp cao, Obama đã tích cực hơn trong việc tiến quân vào châu Á, đẩy nhanh chiến lược phong toả Trung Quốc. Điều này báo hiệu giữa hai nước Trung-Mỹ không chỉ xảy ra xung đột trên lĩnh vực chính trị và ngoại giao mà trên cả các lĩnh vực kinh tế, khai thác tài nguyên, quân sự cũng sẽ xảy ra “xung đột toàn diện”. Việc định hình quan hệ Trung-Mỹ sẽ quyết định hướng đi của chính trị quốc tế 4 năm từ nay về sau.
Sau khi rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế, Mỹ đã chủ động giơ cành ôliu G2 đối với Trung Quốc, nhưng đã vấp phải sự cự tuyệt của Trung Quốc do đã đi ngược lại với lý luận đa cực hoá trỗi dậy hoà bình của nước này. Để bảo vệ địa vị bá quyền của mình, năm 2009, Mỹ đã lên tiếng đưa ra chiến lược “quay trở lại châu Á”, một số nước như Nhật Bản, Ấn Độ lần lượt tiếp cận với Mỹ. Tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN năm 2010, Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton đã trực tiếp đề cập đến vấn đề Biển Đông, khiến cho mâu thuẫn giữa Trung Quốc với các nước xung quanh Biển Đông bùng phát. Tuy nhiên, do Trung Quốc đã giành được sự tín nhiệm của các quốc gia ASEAN khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, áp dụng nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi trong việc xây dựng Khu mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN, thúc đẩy sự phát triển của các nền kinh tế xung quanh, trong khi đó các nước cũng đều không muốn bị loại khỏi đường ray của đoàn tàu tốc hành kinh tế Trung Quốc, do vậy đã không đứng về bên nào trong bất đồng Trung-Mỹ xung quanh vấn đề Biển Đông. Năm 2011, Trung Quốc và Việt Nam đã ký Tuyên bố chung không sử dụng vũ lực giải quyết tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN năm 2012, Philíppin và Việt Nam lại đưa vấn đề Biển Đông ra thảo luận, nhưng đã gặp phải sự phản đối của đa số các nước thành viên, càng làm cho Mỹ cảm thấy sức ảnh hưởng của Trung Quốc tại ASEAN tăng lên. Chính vì vậy, Mỹ căn cứ vào tình hình nội bộ ASEAN đang bị chia rẽ, quyết tâm tạo bước đột phá ngoại giao đối với Mianma.
Ngày 1/12/2011, H.Clinton thăm Mianma, đồng thời nới lỏng cấm vận kinh tế đối với Mianma, nhằm lót đường cho việc khôi phục toàn diện quan hệ ngoại giao với Mianma. Mỹ cam kết viện trợ 1,2 tỷ USD giúp Mianma cải cách, năm 2012, hai bên đã chính thức cử đại sứ, quan hệ hai nước nhanh chóng trở nên hữu nghị, thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Việc Obama nhân cơ hội này thiết lập quan hệ đối tác với quốc gia xưa nay vốn là đồng minh thân thiết nhất của Trung Quốc, chính là muốn thúc đẩy Mianma đi theo con đường cải cách và tiếp xúc với các quốc gia phương Tây. Vì châu Á sẽ quyết định tương lai của Mỹ, trong khi Mianma là “anh em bà con” láng giềng của Trung Quốc, làm tan rã quan hệ Trung Quốc-Mianma sẽ tạo ra ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sự đoàn kết của ASEAN, vì vậy Mỹ coi Mianma là điểm đột phá ngoại giao, đã xác định rõ phương hướng ngoại giao nhiệm kỳ hai của Obama.
Từ khi Mỹ thực hiện quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương đến nay, bất kể là tại Hội nghị An ninh Munich, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN hay là Hội nghị Shangri-La, Mỹ đều có các phát biểu mang tính bao vây chiến lược đối với Trung Quốc. Về kinh tế, ngoài việc Mỹ ra sức thực hiện trừng phạt thương mại, chống bán phá giá, ngăn cản đầu tư, gia tăng gây sức ép đối với vấn đề tỉ giá đồng nhân dân tệ, cấm bán các sản phẩm kỹ thuật công nghệ cao đối với Trung Quốc, Mỹ còn thực hiện phong toả Trung Quốc về mặt quân sự, xây dựng nhiều tuyến bao vây xung quanh Trung Quốc, triển khai nhiều căn cứ quân sự, từng bước khép chặt vòng vây đối với Trung Quốc. Mianma chính là một mắt xích then chốt trong chuỗi bao vây Trung Quốc của Mỹ, khống chế Mianma có thể trực tiếp uy hiếp chiến lược phía Tây Nam của Trung Quốc, cắt đứt con đường tắt của Trung Quốc thông qua Mianma để tiến vào Ấn Độ Dương cũng như con đường kinh tế, thương mại và năng lượng của Trung Quốc.
Để lựa chọn Mianma làm bước đột phá ngoại giao, một mặt Mỹ phong toả đối với Mianma, mặt khác Mỹ lại tích cực ủng hộ phe đối lập và các thế lực ly khai dân tộc thúc đẩy tiến trình “dân chủ hoá” Mianma. Trong thời gian chưa đầy 2 năm, Mỹ đã biến Mianma từ một quốc gia bị cô lập thành một nước chủ nhà đón tiếp Tổng thống Mỹ đến thăm. Tháng 11/2010, sau cuộc tổng tuyển cử, Tổng thống Mianma Thein Sein đã thả lãnh tụ phe đối lập, bà Aung San Suu Kyi. Tháng 10/2010, Chính phủ quân đội Mianma lại nới lỏng kiểm soát các trang web nước ngoài và các kênh truyền hình trái chiều, đồng thời tiến hành hội đàm với bà Aung San Suu Kyi, sau đó kêu gọi dừng công trình thuỷ điện trên sông Mê Công do Trung Quốc trúng thầu xây dựng, với trị giá 3,6 tỷ USD, cho nên nước này được Mỹ xoá bỏ lệnh cấm vận được thực hiện từ cuối thế kỷ trước; mặt khác, thông qua quyết định dừng xây dựng đập thủy điện trên thượng nguồn sông Keqinbangyi Iowa, nên Mianma đã “lọt vào mắt xanh” của Mỹ, ngả về phía phương Tây, trở thành một quân cờ quan trọng của Mỹ bố trí xung quanh Trung Quốc. Một thái độ như vậy là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy Obama thực hiện chuyến thăm đầu tiên đến Đông Nam Á sau khi tái đắc cử nhiệm kỳ hai.
Obama có kế hoạch tham gia Hội nghị cấp cao Đông Á, hội kiến với lãnh đạo các nước tham dự hội nghị, thuyết phục họ gia nhập đội quân kiềm chế, phong toả Trung Quốc của Mỹ. Tại Hội nghị cấp cao Đông Á một năm trước, Mỹ ủng hộ các nước vừa và nhỏ của khu vực này khiêu khích chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc tại Biển Đông, xây dựng Bộ quy tắc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, khiến cho vấn đề Biển Đông trở nên đa phương hoá, chia cắt lãnh thổ và dầu khí Biển Đông của Trung Quốc. Trong nội bộ ASEAN hiện nay đang tồn tại hai thái độ khác nhau trong vấn đề Biển Đông, Mỹ đang thuyết phục, ủng hộ các nước không có tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc như Xinhgapo, Campuchia, Thái Lan, Lào, Mianma nhằm chia rẽ Trung Quốc với các nước có đòi hỏi chủ quyền trong vấn đề Biển Đông, đồng thời gây áp lực với Trung Quốc trong vấn đề thương mại, năng lượng, hợp tác an ninh và nhân quyền. Obama thăm 3 nước Đông Nam Á trước khi khai mạc Hội nghị cấp cao Đông Á với chủ đề bảo đảm an ninh chính là nhằm lợi dụng ASEAN kiềm chế Trung Quốc, muốn chen một chân vào hợp tác Trung Quốc-ASEAN, cố tạo ra các phiền phức cho Trung Quốc. Tại Hội nghị cấp cao Đông Á, các vấn đề như Biển Đông, đảo Điếu Ngư trở thành tiêu điểm chú ý, Mỹ liên kết với Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia Đông Nam Á, yêu cầu xác lập quy tắc hành vi nhằm bảo đảm cho tự do hàng hải tại Biển Đông.
Việc Mỹ quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương, tất yếu sẽ khiến hai nước Trung-Mỹ triển khai các hành động ứng phó lẫn nhau trong việc định hình quan hệ, đồng thời thiết lập trật tự mới châu Á trong mâu thuẫn và hợp tác. Các quốc gia Đông Nam Á sẽ buộc phải quen với việc mình trở thành vũ đài địa chính trị quan trọng trong cuộc cạnh tranh giữa hai nước lớn. Trong phương diện kiềm chế sức ảnh hưởng của Trung Quốc, Đông Nam Á sẽ ở vào tuyến đầu trong cuộc chiến tranh giành ưu thế toàn cầu. Các quốc gia Đông Nam Á đều mong muốn Mỹ ở lại, đảm nhiệm vai trò là trọng tài cân bằng quyền lực, nhưng không phải giữ vai trò lãnh đạo, trong các công việc của châu Á-Thái Bình Dương chỉ có thể giữ thái độ trung lập hoặc duy trì khoảng cách với Mỹ mà thôi. Mỹ cho rằng Trung Quốc là mối đe doạ chiến lược lâu dài chủ yếu của Mỹ, chương trình hạt nhân của Iran lại là mối lo ngại ngoại giao trực tiếp nhất của Mỹ. Bắt đầu từ đầu năm nay, Obama đã tăng cường quan hệ với Ấn Độ, tăng cường hợp tác quân sự với Philíppin, Việt Nam, củng cố đồng minh với Nhật Bản, Hàn Quốc, ngoài ra còn tái khởi động bán vũ khí cho Đài Loan, kích động Trung Quốc.
Quan hệ Mỹ-Trung đang định hình. Tranh chấp thương mại, khác biệt về nhân quyền, chính sách quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương tranh chấp biển… đều rất khó giải quyết, trong đó chiến lược quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương của Obama là quan trọng nhất, nội hàm chính sách của Obama tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương nếu chỉ bao vây kiềm chế đơn thuần sẽ rất khó giải quyết vấn đề. Trung Quốc chuyển đổi mô hình thành công, đã thoát ra khỏi hoàn cảnh khó khăn về dân chủ, kết thúc thời đại nhất nguyên hoá của dân chủ phương Tây, chế độ của Trung Quốc đã sáng tạo ra năng lực tháo gỡ khó khăn, đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, Trung Quốc đã duy trì kinh tế tăng trưởng ổn định, điểm tựa của Trung Quốc trỗi dậy là phát triển hoà bình và hoà nhập vào trật tự kinh tế thế giới, đề xướng cùng thắng chứ không phải dựa vào chiến tranh và cướp đoạt, định hình quan hệ nước lớn với Trung Quốc chỉ có tăng cường hợp tác mới có thể cùng tiến.
Obama liên nhiệm là một việc tốt đối với quan hệ Trung-Mỹ. Vì trước đây khi xử lý khủng hoảng, Chính quyền Obama làm rất tốt, mặc dù là tổng thống cứng rắn, nhưng là vị tổng thống mà Trung Quốc hiểu rất rõ. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Trung Quốc và Mỹ đã khiến cho hai đều cần đến nhau. Đứng trước quan hệ Trung-Mỹ đang trong quá trình định hình, hai nước đều đang nỗ lực tìm kiếm công thức chung sống hoà bình, một cuộc cạnh tranh toàn cầu chỉ khiến cho mục tiêu ưu tiên cấp thiết của lãnh đạo hai nước càng khó thực hiện hơn. Người Mỹ đã quen với việc mua hàng giá rẻ do Trung Quốc chế tạo, đồng thời lại muốn có lương cao theo kiểu của Mỹ. Mặc dù, Mỹ vẫn xác định Trung Quốc là “đối tác mang tính xây dựng”, nhưng Mỹ lại đang tích cực kiềm chế toàn diện Trung Quốc trong các lĩnh vực. Vì vậy, trong tương lai, Obama có thể sẽ tìm kiếm cân bằng giữa hai thái cực trên. Hai nước Trung Quốc-Mianma là láng giềng hữu nghị, từ xưa đến nay, nhân dân hai nước coi nhau như anh em đồng bào. Trung Quốc và Mianma đều có lợi ích to lớn trong vành đai kinh tế Đông Nam Á, Mianma đơn thuần chỉ dựa vào 1,2 tỷ USD viện trợ của Mỹ sẽ không thể giải quyết vấn đề phát triển tự thân của Mianma, Mianma chỉ có hoà nhập vào vành đai kinh tế Đông Nam Á mới có thể tìm kiếm sự phát triển độc lập của mình.
Giá trị quan phổ biến của phương Tây cũng rất khó giải quyết mâu thuẫn nội bộ và vấn đề dân chủ, những phiền phức đem lại sẽ là xung đột lợi ích nhiều hơn. Phe đối lập cũng nhìn thấy được địa vị và vai trò của Trung Quốc đối với tương lai phát triển của Mianma, bà Aung San Suu Kyi từng nhấn mạnh quan hệ không thể thiếu của Trung Quốc với sự phát triển của Mianma. Chỉ cần Trung Quốc tiếp tục căn cứ nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi là có thể thúc đẩy hai nước phát triển hữu nghị. Do vậy Mỹ lợi dụng Mianma cũng chỉ là uổng công. Quốc hội Mỹ cũng có một số người lo ngại động thái của Mỹ tại Mianma phát triển quá nhanh, không những không thể lôi kéo được Mianma, mà phía quân đội có thể trở thành thành phần được hưởng lợi từ việc Mỹ tăng cường đầu tư vào Mianma. Thế lực dân chủ của bà Aung San Suu Kyi chưa đủ mạnh, bị Quốc hội loại ra khỏi cuộc bầu cử tổng thống, rất khó hoàn thành nhiệm vụ sửa đổi Hiến pháp để làm tổng thống.
Trong ngoại giao, Obama phát đi tín hiệu cứng rắn là muốn xoa dịu áp lực trong nước như tình hình khó khăn tài chính, chia rẽ chính trị, tỉ lệ thất nghiệp cao. Obama cần mạnh dạn thúc đẩy tăng trưởng, an ninh và dân chủ, tìm kiếm một nền kinh tế mạnh hơn, công bằng hơn. Giải quyết vấn đề khó khăn tài chính mới là mục tiêu đầu tiên của Mỹ. Đa số người Mỹ cho rằng hai vấn đề lớn nghiêm trọng nhất hiện nay của Mỹ chính là kinh tế và đoàn kết, chứ không phải ngoại giao. Nhiệm vụ của Obama là dẫn dắt Mỹ lấy lại niềm tin, vì hậu quả của việc đánh mất lòng tin là suy yếu nghiêm trọng và thất bại hoàn toàn.
Theo “Quan điểm Trung Quốc” (ngày 17/11)
Nhật Linh (gt)
Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông là chuỗi hội thảo thường niên do Học viện Ngoại giao (DAV) tổ chức, với mục tiêu thúc đẩy đối thoại chuyên sâu, cởi mở và thẳng thắn về những diễn biến đa chiều liên quan đến Biển Đông.
Ngày 1 tháng 7 năm 2022, Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao đã tổ chức kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Viện. Ngày 12 tháng 7 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định thành lập Viện Biển Đông, trực thuộc Học viện Ngoại giao, là đơn vị chuyên nghiên cứu về các vấn đề bảo vệ biển, đảo,...
Nhằm đẩy mạnh phong trào nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề liên quan đến Biển Đông cũng như tình hình khu vực và thế giới trong sinh viên đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng, Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông ban hành Quy định về Chương trình Học bổng Thắp sáng Đam mê Nghiên cứu Biển Đông.
Bất kể lo ngại về cam kết của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nước Mỹ dưới Chính quyền Joe Biden thực sự đã “quay lại”.
Chỉ trong vòng 1 tuần từ ngày 28/7 đến ngày 4/8, Cục Hải sự tỉnh Hải Nam và tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) liên tục ra 10 thông báo về các cuộc tập trận quân sự trên biển. Đáng chú ý nhất trong số đó là cuộc tập trận phạm vi lớn nhất trên Biển Đông kéo dài từ ngày 6-10/8. Các chuyên gia của Trung Quốc...