18/06/2014
Đã hơn một tháng kể từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan tại Biển Đông và cho đến nay họ đã di chuyển vị trí giàn khoan ba lần. Việc hạ đặt giàn khoan có vẻ là hành động được tính toán kỹ.
Trung Quốc đã chiếm bãi Vành Khăn (Mischief Reef) từ Philippines năm 1995; thiết lập thành phố Tam Sa (Sansha) trên đảo Phú Lâm (Woody Island); cắt cáp của tàu thăm do dầu khí Việt Nam; chiếm bãi cạn Scarborough Shoal; và hiện đang xây dựng một đường băng trên đảo Gạc Ma (Johnson South Reef). Việc hạ đặt giàn khoan là hành động tiếp theo của Trung Quốc trong khu vực. Tiếp theo việc hạ đặt giàn khoan, ngày 8/6, Trung Quốc đã ra tuyên bố chính thức với tiêu đề “Hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981: Sự khiêu khích của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc”, tái khẳng định lập trường của họ. Bắc Kinh còn đưa vấn đề này ra Liên hợp quốc (LHQ). Phó Đại sứ Trung Quốc tại LHQ Vương Dân đã gửi “tuyên cáo về lập trường” của nước này lên Tổng thư ký Ban Ki-moon và đề nghị cho lưu hành tới 193 thành viên Đại hội đồng LHQ.
Hành động này trái ngược hẳn với những biểu hiện trước đây của Trung Quốc. Trong cuộc Đối thoại Shangri La, Thiếu tướng Vương Quán Trung của quân đội Trung Quốc đã tái khẳng định lập trường của Bắc Kinh rằng vấn đề tranh chấp lãnh thổ phải được giải quyết song phương giữa các bên tranh chấp, với khẳng định rõ ràng rằng Mỹ phải đứng ngoài cuộc. Cho đến nay, Trung Quốc vẫn kiên trì giải pháp giải quyết tranh chấp song phương và phản đối bất kỳ trọng tài nào. Song với việc ra tuyên bố trên và gửi “tuyên cáo về lập trường” tới Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, tự Trung Quốc đã quốc tế hóa vấn đề tranh chấp. Những diễn biến này đã làm tăng căng thẳng tại Biển Đông và làm cho tình hình phức tạp hơn.
Vấn đề khó hiểu ở chỗ tại sao Trung Quốc ra “tuyên bố về lập trường” này. Mục đích cuối cùng của Trung Quốc trong khu vực là gì?
Giàn khoan Hải Dương 981 được hạ đặt giữa khu vực thuộc quần đảo Hoàng Sa (Paracels) mà Trung Quốc chiếm đóng bằng vũ lực từ năm 1974. Theo Việt Nam, giàn khoan Trung Quốc đang hoạt động trong phạm vi Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) 200 hải lý của Việt Nam, nhưng Trung Quốc lại nói nó đang hoạt động trong khu vực thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Trung Quốc và Việt Nam đã ký hiệp định phân định ranh giới tại vịnh Bắc Bộ (Gulf of Tonkin); và hiệp định hợp tác đánh bắt cá trong khu vực năm 2000.
Có hai nguyên nhân để Trung Quốc hạ đặt giàn khoan, đó là vấn đề an ninh năng lượng của Trung Quốc và những mối lo ngại chiến lược trong khu vực. Từ năm 1993, Trung Quốc đã trở thành nước nhập khẩu ròng dầu mỏ và phụ thuộc nhiều vào nguồn cung ứng nhiên liệu từ nước ngoài. Để giảm sự phụ thuộc vào dầu mỏ nước ngoài, Trung Quốc đang tìm cách thăm dò ở nhiều nơi và Biển Đông là nơi có trữ lượng khoảng 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối khí đốt. Về chiến lược, vai trò của các thế lực bên ngoài đang ngày càng tăng trong khu vực. Tuy nhiên, nguyên nhân cơ bản nhất dẫn tới hành động hạ đặt giàn khoan là sự phản ứng của Bắc Kinh với môi trường chiến lược đang thay đổi tại Biển Đông. Trung Quốc nhận thấy Biển Đông là yếu tố quan trọng để củng cố ảnh hưởng của họ tại Đông Nam Á, cũng như những khát vọng trong khu vực của Bắc Kinh. Trung Quốc có tham vọng đóng một vai trò quan trọng trong khu vực với việc giảm thiểu ảnh hưởng của Mỹ và do đó đã quay sang giải pháp đa phương để xử lý tranh cấp.
Có lẽ Trung Quốc đã nhận thấy nếu tiếp tục coi thường luật pháp quốc tế và Liên Hợp Quốc thì họ sẽ tạo thêm khoảng không cho Mỹ can thiệp vào khu vực. Có một lý do khác khiến Trung Quốc gửi “tuyên cáo về lập trường” lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc là nhằm chặn cuộc thảo luận về Bộ Quy tắc Ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Bằng cách đưa ra “tuyên cáo về lập trường”, Bắc Kinh đang tìm cách nêu rõ lập trường của họ và đổ lỗi lên Việt Nam.
Theo “Viện Nghiên cứu Hòa bình và Xung đột” (ngày 16/6)
Viết Tuấn (gt)
Tiến trình xây dựng tại căn cứ hải quân Ream ở Campuchia được xúc tiến trong các tháng gần đây, đặc biệt là ở cuối phía Bắc căn cứ - khu vực Trung Quốc được cho là sẽ sử dụng. Một loạt tòa nhà mới đã mọc lên, đất đại được giải tỏa mặt bằng trên diện rộng và gần đây nhất, các bến tàu mới đã được khởi...
Văn bản Bổ sung về Thực tiễn các quốc gia (đi kèm với Báo cáo Các giới hạn trên Biển số 150) nhằm mục đích đánh giá lập trường pháp lý quốc tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) đối với các đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải và các quần đảo xa bờ.
Giống như màu sắc chủ đạo trong các bài viết trước đây, Ngô Sĩ Tồn tiếp tục tập trung vào việc chỉ trích, lên án sự can dự của Mỹ vào vấn đề Biển Đông và không khó để nhận thấy sự can dự này của Mỹ đang kiềm chế phần nào sự bành trướng, bá quyền và tham vọng kiểm soát toàn bộ khu vực Biển Đông của Trung...
Trong tiến trình thúc đẩy ngành du lịch tàu biển ở Biển Đông sẽ cần cân nhắc tới một số vấn đề như tác động tới môi trường sinh thái, vấn đề cướp biển, an ninh an toàn hàng hải…. và đặc biệt là tác động của đại dịch covid-19 vẫn đang tiếp tục diễn biến sẽ mang lại những nhân tố bất ổn cho phát triển...
Ngày 12/1, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố Báo cáo “Giới hạn trên Biển” số 150, dài 44 trang. Báo cáo xem xét các diễn giải mới về yêu sách Biển Đông của Trung Quốc sau Phán quyết năm 2016 và kết luận yêu sách chủ quyền đối với các thực thể, đường cơ sở bao quanh Quần đảo Hoàng Sa, yêu sách vùng biển “dựa trên...
Ngày 8/9/2021, Ngô Sĩ Tồn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Hải Trung Quốc có bài đăng tựa đề “Cảnh giác trước những hành động biến ổn định thành bất ổn của Mỹ ở Biển Đông” hướng sự chỉ trích vào Mỹ và các nước phương Tây. Lập luận chung của Trung Quốc cho rằng tình hình Biển Đông hiện nay tổng thể ổn...