Sự khác biệt giữa viện trợ phát triển của các nước và viên trợ của Trung Quốc gồm: (i) Viện trợ của các nước là viện trợ phát triển và không hoàn lại, trong khi đó viện trợ của Trung Quốc bao gồm cả vay. Điều kiện vay thông thường có lãi xuất 3%/năm, thời gian vay là 15 năm trong đó có 5 năm ân hạn; (ii) Nguồn viện trợ của Trung Quốc do Bộ trưởng Thương mại trực tiếp phụ trách không giống như các nước là do Bộ trưởng Ngoại giao phụ trách phối hợp với các cơ quan liên quan; (iii) Hơn 80% viện trợ của Trung Quốc dành cho phát triển khai thác tài nguyên, phần còn lại mới đến cơ sở hạ tầng; (iv) Viện trợ Trung Quốc cho khai thác tài nguyên tập trung chủ yếu vào lĩnh vực như than, dầu, khí, sau đó mới đến quặng sắt và các quặng khác; (v) Các nước nhận nhiều viện trợ Trung Quốc gồm: Mỹ La-tinh (Venezuela, Brazil, Argentina), châu Phi (Nigeria, Ghana) và châu Á (Indonesia, Thailand, Malaysia).

Những nước nhận viện trợ từ Trung Quốc có lợi là tăng trưởng kinh tế, phát tiển hạ tầng và có thể có cơ hội tiếp xúc với công nghệ. Trong khi đó Trung Quốc có lợi là mở rộng mạng lưới các nguồn cung ứng giúp Trung Quốc tăng trưởng và ít nhất là hạn chế sự đi xuống của nền kinh tế.

Cũng có những rủi ro đối với viện trợ của Trung Quốc, cụ thể là các nước nhận viện trợ chịu thiệt hại và tác động của môi trường do những hoạt động khai thác rầm rộ của Trung Quốc, hàng ngàn lao động Trung Quốc làm việc tại các dự án tạo ra sự cạnh tranh về nhân lực và gia tăng tham nhũng.

Dù khó khăn trong nội địa như nhu cầu cấp thiết về y tế, dịch bệnh; vấn đề đô thị hóa, chi phí cho hiện đại hóa quân sự, giải quyết nợ công…, Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục mở rộng viện trợ cho nước ngoài ít nhất là như hiện nay nhằm hỗ trợ xuất khẩu và hạn chế sự suy giảm của tăng trưởng kinh tế.

Trung Quốc đang ngày càng “dấn thân” vào cuộc chơi “viện trợ nước ngoài” và ngoài lợi ích chắc chắn cũng sẽ ăn phải “quả đắng” như các nước phát triển khác.

Theo The Wall Street Journal

Thùy Anh (gt)