Bài 1: Southeast Asia’s Arms Race của chuyên gia nghiên cứu về an ninh châu Á Brijesh Khemlani từ Trường Đại học Kinh tế Chính trị Luân Đôn (LSE).

Nhận định về môi trường an ninh tại khu vực Đông Nam Á, chuyên mục phân tích tháng 1/2011 của Viện Hoàng gia An ninh và Quốc phòng Anh đăng bài viết của chuyên gia nghiên cứu về an ninh châu Á Brijesh Khemlani từ Trường Đại học Kinh tế Chính trị Luân Đôn (LSE) cho rằng sự hứng thú cũng như sự can dự ngày càng lớn của Ấn Độ, Trung Quốc và Mỹ tại khu vực Đông Nam Á có thể sớm đặt dấu chấm hết cho môi trường an ninh tương đối ôn hòa mà Đông Nam Á đã có được trong 2 thập kỷ qua.

Chạy đua vũ trang trong khu vực

Bộ trưởng Quốc phòng Inđônêxia Purnomo Yusgiantoro hiện đang thực hiện nhiệm vụ tăng cường thực lực cho các lực lượng vũ trang dần già cỗi của quốc đảo này. Với ngân sách quốc phòng 2011 lên tới 6,3 tỷ USD, ông Yusgiantoro đang mường tượng về một loạt các phi đội máy bay chiến đấu Sukhoi thế hệ mới nhất, các tàu ngầm và tàu chiến tân tiến và một thực lực tiếp viện trên không hiện đại cùng với một ngành công nghiệp quốc phòng nội địa được phục hồi. Không muốn bị rớt lại phía sau, các quốc gia khác tại Đông Nam Á có vẻ như cũng đang theo đuổi con đường của Inđônêxia.

Trong bối cảnh một Trung Quốc ngày càng "quyết đoán" hơn và những tranh chấp lãnh thổ, chính trị kéo dài, môi trường an ninh ổn định tại Đông Nam Á đang phải chứng kiến một sự thay đổi âm thầm. Một làn sóng mua vũ khí quốc phòng từ Mianma cho tới Inđônêxia đã thúc đẩy một cuộc chạy đua vũ trang khu vực. Theo số liệu từ Hệ thống Dữ liệu Chuyển giao Vũ khí của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm thì số vũ khí chuyển giao tới Đông Nam Á đã tăng gần gấp đôi trong giai đoạn 2005-2009 so với 5 năm trước đó, trong đó vũ khí chuyển giao tới Malaixia tăng 722%, Xinhgapo tăng 146% và Inđônêxia tăng 84%.

Xinhgapo đã nổi lên trở thành thành viên đầu tiên của ASEAN lọt vào danh sách 10 nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất toàn cầu kể từ Chiến tranh Lạnh. Inđônêxia đã tăng ngân sách quốc phòng năm 2011 của mình lên 6,3 tỷ USD và mức chi tiêu này lần đầu tiên vượt quá ngưỡng 1% GDP trong nhiều năm qua. Việt Nam cũng đã ký một thỏa thuận khoảng 2 tỷ USD với Nga để mua 6 tàu ngầm lớp Kilo chạy dầu ngay sau một thỏa thuận mua 20 máy bay chiến đấu Sukhoi-30 tầm xa. Thái Lan cũng đã đặt 12 máy bay chiến đấu JAS Gripen từ Thụy Điển để hiện đại hóa lực lượng không quân đang già cỗi của mình. Malaixia thì vừa nhận 2 tàu ngầm Scorpene và đặt tại cảng hải quân Borneo .

Một Trung Quốc ngày càng "quyết đoán"

Bất kể các mối liên hệ kinh tế mạnh mẽ của khu vực với Trung Quốc, việc mua sắm các loại vũ khí tinh vi đã được thúc đẩy bằng sự phát triển quân sự hết sức nguy hiểm của con vật kếch xù (mô tả Bắc Kinh - ND) cũng như những tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông. Báo cáo hàng năm của Lầu Năm góc về thực lực quân sự của Trung Quốc đã nêu bật những thực lực ngày càng lớn mạnh của nước này trong lĩnh vực tên lửa tầm xa, các lực lượng hải quân và kho hạt nhân. Động lực phát triển quân sự một cách bí mật đã cho phép người khổng lồ Đông Á phát triển các thực lực triển khai sức mạnh bên ngoài biên giới. Xét về truyền thống, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) trước đây bị giới hạn ở các chiến dịch xuyên eo biển, nhưng giờ đây PLA được cho là đã có đủ thực lực để tiến hành các chiến dịch quân sự vượt ra ngoài cả Đài Loan, khiến cho các láng giềng trong khu vực hết sức lo ngại.

Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông cũng là một sự khó chịu đáng kể đối với một số thành viên nhất định của ASEAN. Tháng 7/2010, Trung Quốc tuyến bố "chủ quyền không thể tranh cãi" đối với Biển Đông và tiến hành một loạt các cuộc tập trận hải quân quy mô lớn ở vùng biển này, coi đây là một lời cảnh báo đối với các nước láng giềng nhỏ hơn. Một loạt các quốc gia ASEAN, trong đó có Malaixia, Việt Nam, Brunây, Philíppin và Inđônêxia, cũng có tuyên bố chủ quyền một phần đối với vùng biển tranh chấp vốn được cho là giàu dầu mỏ, khoáng sản và đã chứng kiến những cuộc đụng độ dữ dội trong quá khứ. Sự bùng phát của cuộc tranh cãi ngoại giao giữa Trung Quốc và Nhật Bản liên quan tới vùng biển tranh chấp ở Biển Hoa Đông hồi tháng 9/2010 có thể được coi là một dấu hiệu của những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Với thực tế đó, các quốc gia Đông Nam Á đang phải tự củng cố để sẵn sàng cho một viễn cảnh như vậy khi mà những căng thẳng leo thang tại Biển Đông. Việc Trung Quốc tăng cường tuần tra tại vùng biển này đã làm gia tăng quan ngại và các quốc gia trong khu vực đang nỗ lực đối phó với sự lớn mạnh này thông qua việc hình thành liên minh với các cường quốc khác.  

Những "bên tham gia" khác trong khu vực

Tình hình địa chính trị không thể dự báo trước được của khu vực đã thu hút sự quan tâm của các đối thủ nặng ký khác như Mỹ và Ấn Độ. Sau nhiều năm thờ ơ về chính trị, Mỹ đã chuyển sự chú ý trở lại khu vực với mục đích kiềm chế ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Trong Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 17 tại Việt Nam tháng 10/2010, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã "cân não" Trung Quốc khi đưa ra đề nghị làm trung gian cho tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông. Nhân tố nổi bật nhất trong lời đề nghị này của Mỹ là mối quan hệ quân sự đang nồng ấm trở lại giữa Mỹ và Việt Nam . Vấn đề còn đóng băng trong mối quan hệ song phương nồng ấm này có lẽ là thỏa thuận hạt nhân dân sự đang được các quan chức Mỹ và Việt Nam đàm phán, theo đó sẽ cho phép quốc gia Đông Nam Á này được mua các công nghệ và nhiên liệu hạt nhân.

Ấn Độ cũng tích cực lôi kéo các nước trong khu vực để thực hiện "chính sách hướng Đông" của mình, tăng cường các thỏa thuận thương mại và hợp tác quân sự với các quốc gia như Việt Nam và Malaixia. Trong khi "chính sách hướng Đông" của Ấn Độ ban đầu chỉ là nhằm tăng cường các mối quan hệ thương mại và kinh tế với Đông Á nhưng chính sách này ngày càng mở rộng về quy mô quân sự và chiến lược nhằm đối trọng với chiến lược "chuỗi ngọc trai" đang được thảo luận rộng khắp của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương. Cụm từ nói trên được dùng để mô tả việc cung cấp tài chính và xây dựng các cảng biển, các căn cứ thiết bị hải quân của Trung Quốc tại các quốc gia như Mianma, Bănglađét, Xri Lanca và Pakixtan.

Nhờ có mối quan hệ chính trị chặt chẽ trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Việt Nam được coi là một đầu mối quan trọng trong chính sách Đông Nam Á của Ấn Độ nhờ vị trí địa chính trị chiến lược và có mối quan hệ thù địch trong lịch sử với Trung Quốc. Trong những năm gần đây, cả Niu Đêli và Hà Nội đã tăng cường hợp tác quân sự: các lực lượng vũ trang Ấn Độ đã cung cấp cho các đối tác phía Việt Nam các hệ thống rađa tân tiến, cung cấp các thiết bị duy tu và sửa chữa các loại vũ khí quân sự hạng nặng (thường có nguồn gốc từ Nga), và hai bên cũng đã tổ chức nhiều cuộc diễn tập hỗn hợp. Ngoài ra, một bước đi quan trọng nữa của Ấn Độ là việc Không quân nước này hồi tháng 9/2010 đã nhất trí với chương trình huấn luyện 2 năm để đào tạo các đối tác phía Malaixia trong việc điều khiển và vận hành các máy bay chiến đấu Sukhoi-30 do Nga sản xuất.

Sự hiện diện ngày càng lớn của Ấn Độ tại khu vực cũng cần phải được nhìn nhận trong bối cảnh các mối quan hệ của nước này với Trung Quốc đang đi xuống liên quan đến tranh chấp tại Himalaya . Việc truyền thông Ấn Độ đưa tin về việc ngày càng có nhiều đơn vị của Quân đội Trung Quốc thâm nhập vào lãnh thổ Ấn Độ, cùng với quyết định của Bắc Kinh trong việc cấp các loại thị thực có đóng dấu khác nhau cho công dân của Casơmia, đã dẫn tới những căng thẳng ngoại giao ngày càng gia tăng giữa hai người khổng lồ châu Á. Trong khi chuyến thăm gần đây của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tới Ấn Độ hồi cuối năm ngoái là một nỗ lực để hàn gắn chiếc cầu nối và thúc đẩy ngoại giao thương mại, tuyên bố đưa ra sau cuộc gặp không nhắc lại chính sách một Trung Quốc - một sự khác biệt lớn từ các tuyên bố trước đây và là dấu hiệu cho thấy quan điểm cứng rắn hơn của Ấn Độ đối với nước láng giềng lớn hơn này. Lo ngại về tầm với chiến lược ngày càng lớn của Bắc Kinh cũng như ảnh hưởng của nước này tại sân sau của mình, Niu Đêli đang nỗ lực lôi kéo các quốc gia láng giềng Đông Nam Á nhỏ hơn có cùng những quan ngại về việc phải sống dưới cái bóng của một Trung Quốc đang lên.

Chiến lược nước đôi của các thành viên ASEAN cũng đã tạo ra nhiều sự lo lắng từ phía Bắc Kinh, nơi các nhà hoạch định chính sách đang hết sức quan ngại về một sự bao vây do Mỹ dẫn đầu. Tháng 7/2010, chuyên mục xã luận trên tờ Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc đưa ra một lời cảnh báo đối với ASEAN: "Các nước Đông Nam Á cần phải hiểu rằng bất kỳ một nỗ lực nào nhằm tối đa hóa lợi ích bằng việc chơi trò chơi cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc là hết sức mạo hiểm. Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ quyền được bảo vệ các lợi ích cốt lõi của mình bằng các biện pháp quân sự". Trong khi khả năng về một cuộc chiến tranh vẫn còn xa nhưng động lực mua sắm vũ khí tại Đông Nam Á là một dấu hiệu cho Trung Quốc thấy rằng các quốc gia khu vực sẽ không phải "dễ bảo" khi mà họ buộc phải bảo vệ các lợi ích chiến lược của mình, và điều này sẽ làm phức tạp thêm tình hình an ninh tại khu vực.

Môi trường an ninh khu vực đang bị hủy hoại

Việc mua bán vũ khí ngày càng tăng cũng cho thấy sự bất lực của ASEAN trong việc tạo ra một cấu trúc an ninh mới cho khu vực. Những tranh cãi chính trị, các phong trào nổi loạn, tranh chấp lãnh thổ khiến bức tranh an ninh khu vực thêm u ám và đổ thêm dầu vào ngọn lửa mua sắm vũ khí. Bị khóa chặt trong cuộc tranh chấp đường biên với Campuchia, Thái Lan cũng đang nỗ lực kiềm chế sự bất ổn kéo dài 6 năm tại các tỉnh miền Nam của mình. Mianma đang tăng cường kho vũ khí và thực lực quân sự của mình vì lo ngại các cuộc nổi loạn của các bộ tộc và cả vì sự lo ngại của giới quân sự cầm quyền về một cuộc xâm lược từ bên ngoài. Malaixia và Inđônêxia thì vẫn đang tranh cãi về biên giới trên biển với căng thẳng có vẻ như ngày càng gia tăng liên quan tới vụ cảnh sát biển Malaixia bắt giữ 3 quan chức ngư nghiệp của Inđônêxia hồi tháng 8/2010. Trong khi khu vực Đông Nam Á nhiều thập kỷ qua chỉ phải đối mặt với nguy cơ xung đột ở mức thấp, nhưng việc gồng mình về tài chính cũng như sự gia tăng ảnh hưởng của giới quân sự tại các quốc gia như Inđônêxia và Thái Lan có nghĩa là sẽ có nhiều nguồn tài chính hơn sẽ được đổ vào để nâng cấp các hệ thống vũ khí cũ nhằm đối phó một cách hiệu quả hơn với các nguy cơ khu vực và tại mỗi nước.

Việc phát hiện mới đây về chương trình tên lửa đạn đạo và hạt nhân của Mianma cũng đã rung lên tiếng chuông cảnh tỉnh đối với toàn khu vực. Trong khi ASEAN vẫn im lặng về sự việc, vì thiếu thông tin liên quan tới bản chất các hoạt động hạt nhân của Mianma, những tham vọng hạt nhân không được kiểm soát của giới cầm quyền quân sự tại nước này có thể làm thay đổi cán cân quyền lực khu vực và có thể châm ngòi cho một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân.

Bước vào năm 2011, bức tranh an ninh ôn hòa của Đông Nam Á có vẻ như chắc chắn tiến tới một kỷ nguyên không thể đoán định được. Vấn đề mấu chốt đối với hòa bình và ổn định của ASEAN nằm ở sự kiểm soát cẩn trọng các mối quan hệ với Trung Quốc và một sự phụ thuộc lớn vào đối thoại chính trị hai bên để giảm những căng thẳng song phương trong khối. Đồng thời, việc đầu tư lớn hơn vào các mối quan hệ với các nước lớn trong khu vực như Ấn Độ hay Nhật Bản cũng sẽ giúp cân bằng ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc. Ký ức về những năm tháng dữ dội của Chiến tranh Lạnh vẫn luôn khắc sâu trong tâm trí của mỗi người dân Đông Nam Á. Cuộc ganh đua gay gắt giữa các cường quốc và sự tồn tại dai dẳng của những tranh chấp và căng thẳng gây ra sự tàn phá cho cả hai bên giữa các quốc gia ASEAN sẽ chỉ dẫn tới một chu trình xung đột bất ổn khác.

Bài 2: Châu Á – Thái Bình Dương và cuộc chạy đua vũ trang chưa từng có đăng trên mạng Đa chiều ngày 15/2

Bài viết cho rằng sự giàu có gia tăng và việc đẩy mạnh xây dựng quân sự của Trung Quốc đã thu hút sự chú ý của các nước khác trong khu vực. Kể từ sau cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ - Nga trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, lần đầu tiên người ta lại thấy một làn sóng bổ sung nâng cấp vũ khí tiên tiến với tốc độ mạnh mẽ, quy mô rộng lớn bắt đầu dâng lên ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

 

Các nước tranh đua mua sắm vũ khí mới

Tháng 12/2010, Nhật Bản đã hiệu chỉnh Đại cương Phòng vệ mới, lên kế hoạch mua 5 tàu ngầm, 3 tàu khu trục, 12 máy bay chiến đấu, 10 máy bay tuần tra và 39 máy bay trực thăng. Hàn Quốc và Việt Nam đều mua thêm tàu ngầm, nhập khẩu quân sự của Malaixia cũng đang tăng lên, Xinhgapo cũng đang có kế hoạch mua 2 tàu ngầm; Ôxtrâylia đang lập kế hoạch chi 179 tỷ USD trong vòng 20 năm tới để mua mới tàu ngầm, tàu khu trục và máy bay chiến đấu; trong khi đó, nguyên nhân chủ yếu khiến Ấn Độ đang ra sức mở rộng kho vũ khí chính là Trung Quốc.

Christian Wagner, chuyên gia các vấn đề Nam Á thuộc Viện Nghiên cứu Chính trị Ah ninh Quốc tế của Đức cho rằng, nhiều năm nay Ấn Độ luôn dõi theo Trung Quốc, không chịu lạc hậu đi sau Trung Quốc, cho dù Ấn Độ biết mục tiêu Trung Quốc nỗ lực phát triển năng lực quân sự là để so bì với Mỹ chứ không hề chĩa mũi gươm vào Ấn Độ.

Theo Wagner, “Ấn Độ đương nhiên rất bất mãn với sự tăng trưởng quân sự của Trung Quốc. Theo truyền thống, Ấn Độ luôn coi Trung Quốc là đối thủ số một ở châu Á, Ấn Độ luôn hy vọng phát triển sánh bước với năng lực quân sự của Trung Quốc và cũng hy vọng theo kịp ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới.

Tuy hiện nay Trung Quốc vẫn còn khá xa mới có thể thách thức địa vị bá chủ quân sự toàn cầu của Mỹ nhưng một vài hành động gần đây của Trung Quốc lại khiến cho các nước trong khu vực bắt đầu sự chuẩn bị cho tương lai bất thường.

Chuyên gia quốc phòng của Ôxtrâylia cho rằng, hiện nay có khả năng “hình thành một thế trận an ninh nghiêm trọng nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay”. Báo cáo của các cố vấn quân sự nước này cho rằng, Ôxtrâylia cần tập trung vào phát triển quân sự để “triệt tiêu và uy hiếp lại tốc độ phát triển của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA)”.

Giáo sư Hoàng Tịnh - chuyên gia vấn đề Đông Á, thuộc Học viện Chính sách Công cộng Lý Quang Diệu - Đại học Quốc lập Xinhgapo, khi trả lời phỏng vấn của VOA đã cho rằng, tốc độ tăng trưởng quân bị của Trung Quốc nhanh như hiện nay nhất định sẽ thu hút sự chú ý của các nước xung quanh. Ông cho rằng, có hai nguyên nhân chính kích thích các nước xung quanh Trung Quốc quyết tâm hơn và nhanh chóng hơn trong vấn đề tăng cường trang bị quân sự: một là sự phát triển nhanh của quân lực Trung Quốc; hai là Mỹ dường như “lực bất tòng tâm”.

Chạy đua vũ trang gia tăng nguy cơ chiến tranh

Theo Giáo sư Hoàng Tịnh, các nước đều thấy được, trong một tương lai không xa, toàn bộ khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ bước vào một thời kỳ “không xác định” chưa từng có, thời kỳ chiến lược cân bằng đã bị phá bỏ. Rối loạn Nam - Bắc Triều Tiên, kinh tế phập phù khó đoán định và thời gian tại chức ngắn ngủi của nhiều vị Thủ tướng Nhật Bản, ngoài ra còn có vấn đề “chuyển giao quyền lực” ở nhiều nước như Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… sắp diễn ra vào năm 2012.

Cùng với thời gian này, đoàn tàu kinh tế của hai nước lớn ở khu vực là Trung Quốc và Ấn Độ đang tăng tốc nhanh theo một hướng không thể xác định chính xác phương hướng: “Trung Quốc phát triển nhanh như vậy, cụ thể Trung Quốc phát triển thành cái gì, hiện tại không ai có thể biết nếu xét về thực lực đất nước, mục tiêu chiến lược, thậm chí cả sự ổn định trong nước; có người khen hay, có người chê xấu nhưng về cơ bản là khó xác định. Ấn Độ cũng có vấn đề tương tự, cũng đang phát triển rất nhanh nhưng 5 - 10 năm tới sẽ ra sao thì cũng gần giống Trung Quốc, không xác định được”.

Hoàng Tịnh cho rằng, một nhân tố khác khiến thần kinh các nước châu Á - Thái Bình Dương căng thẳng là sự phát triển tiềm lực quân sự của Trung Quốc đã vượt quá mức độ mà các nước khác dự kiến. Trước kia, các nước khác cho rằng, Trung Quốc phát triển quân sự chỉ để trấn áp giặc cỏ trong nước, tiếp đó là chuẩn bị để đánh một trận với Mỹ trên khu vực biển Đài Loan. Hiện nay, các nước bất ngờ phát hiện ra rằng, quân đội Trung Quốc đã đột phá chuỗi đảo thứ nhất, tiến ra Thái Bình Dương chứ không chỉ hạn hẹp ở khu vực biển Đài Loan. Điều này khiến các nước kinh sợ, lập tức đưa ra phán đoán, chuyển hóa thành hành động tăng cường trang bị quân sự cho bản thân. Hành động này không liên quan nhiều lắm với việc các nước trên kiên trì tin tưởng hay hoài nghi tiềm lực quân sự của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương có mạnh hay không, có kiên định giữ lời hứa hay không, chủ yếu vẫn là các nước xuất phát từ lợi ích của bản thân họ.

“Nhật báo phố Uôn” chỉ rõ, làn sóng chạy đua vũ trang mới ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương thu hút sự quan tâm, lo lắng của mọi người. vũ khí càng lớn trong các kho vũ khí của các nước có thể dẫn tới sự phát động chiến tranh tranh chấp lãnh thổ đã tồn tại từ lâu giữa các nước, từ đó phá hoại sự ổn định của khu vực biển này, nơi có nhiều tuyến đường biển nhất vận chuyển hàng hóa và dầu thô của thế giới.

Sau khi tìm hiểu nguyên nhân sâu xa việc các nước chi tiền mua vũ khí, Wagner cảnh báo xung đột quy mô nhỏ rất dễ trở thành sự kiện quy mô lớn rồi sau đó tái diễn thành chiến tranh quy mô nhỏ.

Trách nhiệm của Trung Quốc: Minh bạch hóa quân sự

Hoàng Tịnh cho rằng, cho dù đoàn tàu kinh tế tốc độ cao của Trung Quốc đi theo hướng nào thì sức khống chế cũng có hạn, Trung Quốc vẫn nên chịu trách nhiệm về làn sóng chạy đua vũ trang mới ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. “Phát triển quân sự của Trung Quốc rất nhanh nhưng ý đồ và phương thức phát triển lại không minh bạch, bao gồm phương thức phát triển, xây dựng cơ cấu vũ khí hoặc cách bố trí vũ khí của họ. Mọi người đều biết rằng họ đang phát triển máy bay tàng hình, tàu chiến hạt nhân hay vũ khí vũ trụ, nhưng không ai rõ cụ thể về chiến thuật, chiến lược của họ”.

Trung Quốc không ngừng bày tỏ rằng, chi phí quân sự của họ vẫn kém xa Mỹ, hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc không nhằm vào bất kỳ nước nào. Trong một bài nói chuyện nhân chuyến thăm Mỹ hồi tháng 1 vừa qua, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã nói: “Trung Quốc nỗ lực giải quyết các điểm nóng và tranh chấp quốc tế trong hòa bình, theo đuổi chính sách quốc phòng mang tính phòng ngự, không tạo ra chạy đua vũ trang, không tạo ra sự đe dọa quân sự đối với bất kỳ nước nào, vĩnh viễn không xưng bá, vĩnh viễn không mở rộng”./.

Theo Royal United Services Institute; Đa chiều 

Văn Cường (gt)