US-Naval-exercise-in-the-South-China-Sea.jpg 

Tóm tắt

Sự trỗi dậy của Trung Quốc là chủ đề của nhiều phân tích và tranh luận, chủ yếu rằng liệu sự trỗi dậy của nước này có tổn hại đến an ninh và sự ổn định của Đông Á hay không. Cùng với nhau, những căng thẳng nổi lên ở các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông đã thu hút sự chú ý từ năm 2009. Có nhiều điểm tương đồng, đáng chú ý là: (i) Trung Quốc là một bên yêu sách chủ quyền; (ii) có những vấn đề tương tự về luật pháp quốc tế đã được nêu lên; (iii) dầu khí và cá là những nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạnh tranh trong khu vực; và (iv) cả hai tranh chấp đều liên quan đến các đồng minh hiệp ước của Mỹ. Tuy nhiên, có những khác biệt rất đáng chú ý: (i) một số vấn đề pháp lý ở Biển Đông đã được trình lên tòa phân xử quốc tế; (ii) các tranh chấp Biển Đông có bản chất đa phương hơn nhiều so với tranh chấp biển Hoa Đông; và (iii) Nhật Bản là một đối thủ quân sự đáng sợ hơn nhiều đối với Trung Quốc so với Việt Nam hay Philippines. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai cuộc tranh chấp khu vực này cho thấy nhiều điều về việc cuộc tranh chấp nào có thể nổ ra xung đột và nếu xung đột nổ ra, cuộc tranh chấp nào sẽ cho thấy là thảm khốc hơn. Sự tồn tại của một chủ nghĩa dân tộc bài Nhật mãnh liệt ở Trung Quốc chỉ ra biển Hoa Đông có nhiều khả năng nổ ra xung đột hơn hơn là tranh chấp Biển Đông. Nhưng bất chấp điều này, năng lực quân sự so sánh của Nhật Bản, cộng với quan hệ an ninh bền vững của nước này với Mỹ, khiến các nhà ra quyết định của Trung Quốc bình tĩnh hơn, qua đó khiến khu vực này ít có khả năng nổ ra xung đột hơn là tranh chấp Biển Đông. Giải pháp đúng đắn duy nhất cho các tranh chấp này là phân xử chính thức các quyền chủ quyền và quyền trên biển, nhưng một giải pháp như vậy vô cùng khó xảy ra. Bất chấp điều này, tất cả các bên có liên quan có thể thực hiện các biện pháp để ngăn chặn xung đột, và nếu xung đột nổ ra, thì giảm nhẹ nó.

Mở đầu

Rõ ràng đây không phải là thời điểm tốt đẹp nhất ở Đông Á. Cho dù đây không hoàn toàn là thời điểm tồi tệ nhất, các xu hướng hiện tại cho thấy những mối quan hệ ngày càng xấu đi trong khu vực. Một phần của động lực này là do nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trỗi dậy. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong khu vực là đáng chú ý và tích cực từ quan điểm kinh tế, nhưng ngày càng gây khó chịu từ quan điểm an ninh. Cụ thể, Trung Quốc đang trở nên quyết đoán hơn trong việc thực thi các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của mình, và vài năm qua khu vực đã chứng kiến những căng thẳng nổi lên đồng thời do các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở cả Biển Đông lẫn biển Hoa Đông. Trung Quốc có tranh chấp với Nhật Bản ở biển Hoa Đông và tranh chấp với Philippines, Việt Nam, Malaysia và Brunei ở Biển Đông.

Mục đích của bài viết này là xác định những điểm tương đồng và chỉ ra những đặc điểm khác biệt giữa hai cuộc tranh chấp. Sau khi đã rút ra những điểm khác biệt này, tác giả sẽ phân tích khu vực nào có khả năng nổ ra chiến tranh hơn và nếu chiến tranh nổ ra, cuộc chiến tranh của khu vực nào sẽ thảm khốc hơn. Tác giả kết luận bằng một đánh giá về những điều có thể được thực hiện để làm giảm khả năng xung đột ở cả hai khu vực.

Chúng ta sẽ thấy rằng trong khi những điểm tương đồng của các cuộc tranh chấp liên kết các tranh chấp lại với nhau, cũng có những khác biệt nhất định. Những khác biệt này tất cả đều đóng vai trò là những cơ chế ngăn cản các xung đột lớn. Nói cách khác, trong khi tranh chấp biển Hoa Đông có mức độ thảm khốc khu vực, nếu không nói là toàn cầu, cao hơn so với tranh chấp Biển Đông, thì những khác biệt quan trọng này tạo ra sự điềm tĩnh về chính sách lớn hơn đối với bất kỳ hành động gây leo thang nào, làm giảm khả năng chiến tranh ở biển Hoa Đông.

Những điểm tương đồng

Không bất ngờ rằng hai tranh chấp này có nhiều điểm tương đồng, tới mức các nhà lãnh đạo quốc gia của các nước nhìn sang tranh chấp kia như một điềm báo việc gì sẽ xảy ra và/hoặc như một nguồn các bài học cần rút ra có thể được áp dụng cho cuộc tranh chấp của chính họ. Sự hiện diện của Trung Quốc, bản chất của những vấn đề pháp lý quốc tế, và các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở những khu vực này là những điểm chung của hai cuộc tranh chấp khu vực.

Điểm tương đồng 1: Trung Quốc là mẫu số chung trong các tranh chấp

Ở biển Hoa Đông, Trung Quốc có tranh chấp với Nhật Bản đối với một nhóm đảo gọi là Điếu Ngư theo tiếng Trung Quốc và Senkaku theo cách gọi của Nhật Bản. Tranh chấp khu vực này cũng đi kèm yêu sách biển ở những khu vực Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Trung Quốc và Nhật Bản mở rộng ở biển Hoa Đông, Trung Quốc vẽ ở lòng trũng Okinawa ngay phía Tây chuỗi đảo Ryukyu, trong khi Nhật Bản vẽ một nửa ở khoảng giữa Ryukyu và Trung Quốc Đại lục.

Ở Biển Đông, Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền đối với hai nhóm đảo chính là Hoàng Sa và Trường Sa. Các bên yêu sách chủ quyền khác ở quần đảo Trường Sa là Philippines, Việt Nam, Malaysia và Brunei. Việt Nam cũng có yêu sách chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa. Philippines có tranh chấp với Trung Quốc về bãi cạn Scarborough, phía Bắc quần đảo Trường Sa. Tranh chấp Biển Đông cũng kéo theo những yêu sách biên giới trên biển, với “đường 9 đoạn” của Trung Quốc bao trọn khoảng 60% Biển Đông. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã không nói rõ liệu đường này chỉ bao hàm những thực thể và vùng biển liền kề, hay tất cả diện tích đất và biển bên trong đường này. Đường này chồng lấn các vùng EEZ mà Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei, và ở một mức độ thấp hơn, là cả Indonesia đã khẳng định. Ở cả biển Hoa Đông lẫn Biển Đông, cho tới lúc này Trung Quốc, vì coi cả hai nhóm đảo là một phần lãnh thổ của mình và ở một số địa điểm đã hàm ý là “lợi ích cốt lõi”, là bên yêu sách ảnh hướng lớn tới động lực của khu vực .

Điểm tương đồng 2: Có những động lực và vấn đề pháp lý tương đồng

Cả hai tranh chấp đặt ra những vấn đề tương tự về luật pháp và do đó có cách giải quyết về pháp lý tương đồng. Lĩnh vực luật pháp đầu tiên là biên giới biển. Cả hai tranh chấp đặt ra vấn đề về cách thức và ở khu vực nào có thể vẽ ra một ranh giới trên biển. Ở biển Hoa Đông, Trung Quốc xác định biên giới trên biển dọc thềm lục địa của nước này, mà kết thúc ở vùng trũng Okinawa. Nhật Bản vẽ biên giới trên biển ở khoảng giữa quần đảo Ryukyu và Trung Quốc Đại lục. Ở Biển Đông, Trung Quốc vẽ ranh giới trên biển thông qua “đường 9 đoạn” được lần đầu công bố năm 1947 và sau đó đệ trình lên Ủy ban Liên hợp quốc về thềm lục địa năm 2009. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa bao giờ nói rõ tọa độ chính xác của “đường 9 đoạn” và tất cả các nước khác trong khu vực khẳng định rằng không có cơ sở nào cho đường này theo Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển, cơ chế pháp lý để xác định biên giới trên biển.

Cả hai tranh chấp cũng liên quan đến những yêu sách chủ quyền. Ở biển Hoa Đông, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Điếu Ngư dựa trên việc phát hiện và sử dụng trong lịch sử. Đài Loan – vốn gọi các đảo này là Điếu Ngư Đài – cũng có yêu sách như của Trung Quốc. Nhật Bản tuyên bố chủ quyền với Senkaku dựa trên việc phát hiện, sử dụng và chiếm giữ. Diễn đàn lý tưởng để giải quyết các tranh chấp chủ quyền sẽ là Tòa án công lý quốc tế, cơ quan sẽ xem xét luật quốc tế để đưa ra các hướng dẫn xác định quyền đối với các đảo. Ở Biển Đông, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền dựa trên phát hiện và việc sử dụng đối với cả quần đảo Trường Sa lẫn Hoàng Sa. Đài Loan cũng chia sẻ tuyên bố này và chiếm đóng đảo Thái Bình (tức Itu Aba) ở Trường Sa. Trung Quốc chiếm đóng tất cả quần đảo Hoàng Sa và 8 đảo ở Trường Sa. Việt Nam tuyên bố chủ quyền với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và phần lớn quần đảo Trường Sa. Yêu sách của Việt Nam dựa trên việc sử dụng trong lịch sử và việc nước Pháp sử dụng khi Việt Nam là một phần thuộc địa Đông Dương của Pháp (1887–1954). Yêu sách của Philippines dựa trên việc gần kề và sử dụng trong lịch sử để tuyên bố chủ quyền đối với một số thực thể thuộc quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough.

Điểm tương đồng 3: Nguồn tài nguyên tương tự bị tranh chấp

Nguồn tài nguyên bị tranh giành đầu tiên là dầu khí. Trữ lượng dầu khi của biển Hoa Đông dao động trong một khoảng nói chung. Trữ lượng dầu chưa được chứng minh theo phía Trung Quốc ước tính là từ 70 đến 160 tỷ thùng ở toàn bộ biển Hoa Đông, phần lớn ở vùng trũng Tây Hồ/Okinawa. Tuy nhiên Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA) ước tính rằng biển Hoa Đông chỉ có từ 60 đến 100 triệu thùng trữ lượng đã chứng minh và có thể có, tương đương khoảng 2 tuần tiêu thụ dầu khí của Trung Quốc. Trong trung hạn, người ta không kỳ vọng biển Hoa Đông trở thành một nơi cung cấp dầu khí quan trọng. Khu vực này cũng có thể có trữ lượng khí đốt đáng kể. EIA ước tính rằng biển Hoa Đông có từ 1 đến 2 nghìn tỷ feet khối trữ lượng khí tự nhiên đã chứng minh và có thể có, tương đương với 3 đến 6 tháng tiêu thụ khí đốt ở Trung Quốc. Các nguồn Trung Quốc chỉ ra có đến 250 nghìn tỷ feet khối trữ lượng khí đốt chưa được phát hiện, chủ yếu ở trũng Tây Hồ/Okinawa.

Ở Biển Đông, các giám định viên Trung Quốc ước tính rằng tài nguyên này có từ 105 tỷ đến 213 tỷ thùng, trong đó từ 10,5 tỷ đến 21,3 tỷ là có thể khai thác được, bên cạnh số lượng lớn khí tự nhiên. Tuy nhiên, Cục khảo sát địa chất Mỹ ước tính rằng Biển Đông có 10 tỷ thùng dầu và 131 nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên (khoảng 22 tỷ thùng dầu tương đương). Một ước tính gần đây của Mỹ cho rằng chỉ 1,6 tỷ thùng dầu có thể khai thác được. Một cảnh báo quan trọng là “trữ lượng chưa được phát hiện” không tính đến các nhân tố kinh tế có liên quan để đưa vào sản xuất, không giống “trữ lượng đã chứng minh và có thể có”.

Cá là một nguồn tài nguyên bị tranh chấp khác. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc khai thác cá và tảo chủ yếu ở biển Hoa Đông. Trong số các vùng biển khác ở Tây Thái Bình Dương, biển Hoa Đông đem lại sản lượng cá lớn nhất với trên 3,8 triệu tấn, sản lượng của Biển Đông đứng thứ hai với 3,6 triệu tấn. Các nguồn tài nguyên cá này đem lại các nguồn cung thực phẩm cho cả khu vực: tỷ lệ protein từ cá trong bữa ăn của người dân là 22,3% ở Đông Á, so với khoảng 16,1% trên toàn cầu. Chẳng hạn, một báo cáo năm 2014 của Tổ chức nông lương Liên hợp quốc (FAO) chỉ ra rằng lượng tiêu thụ cá tính theo đầu người của Trung Quốc là 35,1 kg vào năm 2010, gần gấp đôi mức trung bình toàn cầu là 18,9 kg. Trung Quốc có xấp xỉ 695.555 tàu, và đội tàu đánh cá thương mại của nước này lớn hơn gấp đôi của Nhật Bản, vốn lớn thứ hai trong khu vực. Tuy nhiên, FAO cảnh báo rằng phần lớn nguồn cá ở Tây Biển Đông đã được khai thác hoặc khai thác quá mức – nói cách khác, sản lượng của các nguồn cá đã đạt đỉnh hoặc đang giảm xuống – và một vài nguồn đã hết. Áp lực với nguồn tài nguyên này sẽ chỉ tăng lên. Tới năm 2030, Liên hợp quốc dự đoán rằng tiêu thụ cá của Trung Quốc sẽ tăng hơn 60% so với mức năm 2008, lên 63,3 triệu tấn – hơn 1/3 mức tổng toàn cầu.

Điểm tương đồng 4: Các đồng minh hiệp ước của Mỹ đều liên quan đến tranh chấp

Tranh chấp biển Hoa Đông liên quan đến Nhật Bản. Hiệp ước hợp tác và an ninh chung giữa Mỹ và Nhật Bản lần đầu được ký kết vào năm 1952 và sau đó được sửa đổi vào năm 1960. Điều khoản có liên quan về phòng thủ chung là Điều V: “Mỗi bên công nhận rằng một cuộc tấn công có vũ trang nhằm vào bất kỳ bên nào ở các lãnh thổ dưới sự quản lý của Nhật Bản sẽ nguy hiểm cho hòa bình và an ninh của chính bên đó và tuyên bố rằng mỗi bên sẽ hành động để đối phó với mối nguy hiểm chung phù hợp với những điều khoản và quy trình hiến pháp của bên đó”.

Một trong những bên tuyên bố chủ quyền cạnh tranh trong tranh chấp Biển Đông là nước Cộng hòa Philippines. Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Philippines có từ năm 1951. Tuy nhiên, mức độ cam kết giữa hai bên ký kết nhìn chung được coi là ít chắc chắn hơn so với liên minh Mỹ-Nhật. Trong hiệp ước này các bên phải tham khảo bên kia khi một bên xác định rằng sự toàn vẹn lãnh thổ, sự độc lập chính trị hoặc an ninh quốc gia bị đe dọa bởi các cuộc tấn công vũ trang ở Thái Bình Dương. Điều IV nói rằng một cuộc tấn công vào bất kỳ bên nào sẽ được phản ứng lại phù hợp với các quy trình hiến pháp của họ và rằng mọi cuộc tấn công vũ trang vào mỗi bên sẽ được hướng vào sự chú ý của Liên Hợp Quốc để hành động ngay lập tức.

Những điểm khác biệt

Cũng có ý nghĩa như các điểm tương đồng của hai cuộc tranh chấp, những khác biệt có thể có nhiều ảnh hưởng hơn. Chúng đặc biệt thích hợp trong việc phân tích tranh chấp nào có nhiều khả năng trở thành một cuộc xung đột lớn. Những khác biệt này là sự hiện diện của các quy trình pháp lý quốc tế, khả năng quân sự của các bên tuyên bố chủ quyền và những động lực song phương ở biển Hoa Đông so với các động lực đa phương ở Biển Đông.

Điểm khác biệt 1: Những tranh chấp pháp lý nhất định trên Biển Đông về ranh giới biển đã được đệ trình lên trọng tài quốc tế

Về Biển Đông, Manila đã đệ trình một bản ghi nhớ lên Tòa án trọng tài thường trực (PCA) ở La-Hay vào tháng 3/2014 để phán quyết về một số vấn đề. Cụ thể, chiểu theo Phụ lục VII của UNCLOS, vụ kiện của Philippines, có tên chính thức là Vụ kiện trọng tài giữa Cộng hòa Philippines và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, hướng tới “đường 9 đoạn” của Trung Quốc bị tuyên bố là “bất hợp pháp và vô giá trị” và để làm rõ liệu một số thực thể ở Biển Đông là “đảo đá”, “đảo” hay “đảo nửa chìm nửa nổi”. Tuy nhiên, Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện, lập luận rằng PCA không có quyền tài phán đối với tranh chấp này. Phán quyết khó có thể được đưa ra trước năm 2016.

Về biển Hoa Đông, Tokyo đã bày tỏ sự quan tâm đến phân xử quốc tế với Trung Quốc để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ. Cụ thể, cựu Ngoại trưởng Nhật Bản Koichiro Genba đã thách thức Trung Quốc ra tòa phân xử trong mục ý kiến trên tờ New York Times vào tháng 11/2012. Tuy nhiên, kể từ đó chính phủ của Đảng Dân chủ Nhật Bản của Genba đã bị thay thế bởi chính quyền Abe hiện tại của Đảng Dân chủ tự do, với quan điểm từ chối công nhận có tranh chấp, ngăn chặn bất kỳ hoạt động phân xử quốc tế nào. Tranh chấp Biển Hoa Đông đã đạt được một số thành công về dàn xếp đàm phán liên quan đến Đài Loan – Đài Loan cũng có yêu sách như của Trung Quốc, nhưng cũng chỉ là các thỏa thuận ngư nghiệp riêng biệt với Nhật Bản.

Điểm khác biệt 2: Tranh chấp Biển Đông nói chung là đa phương, trong khi tranh chấp biển Hoa Đông nói chung là song phương

Như đã được đề cập trong phần Những điểm tương đồng, tranh chấp quần đảo Trường Sa ở Biển Đông nói chung có bản chất đa phương. Một số nước có yêu sách ranh giới biển chồng lấn nhau ở Biển Đông; đáng chú ý là Trung Quốc, Việt Nam, Philippines và Malaysia và Brunei. Hơn nữa, các vùng biển chồng lấn này bị ảnh hưởng bởi những yêu sách đối lập ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Việt Nam và Malaysia đều tuyên bố chủ quyền đối với một phần hoặc toàn bộ quần đảo Trường Sa. Các bên này đã có những biện pháp ngoại giao để giải quyết các tranh chấp Biển Đông thông qua Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông không mang tính ràng buộc vào năm 2002, và Philippines đã tìm cách tranh thủ ASEAN để chính thức giải quyết tranh chấp này. Tuy nhiên, Trung Quốc đã cản trở việc dự thảo một Bộ quy tắc mang tính ràng buộc.

Ngược lại, các yêu sách ở biển Hoa Đông đối với quần đảo Điếu Ngư/Senkaku chỉ giới hạn giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Đài Loan cũng có yêu sách như của Trung Quốc nhưng không phải là một phần trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm đẩy mạnh chủ quyền đối với quần đảo đảo này. Hơn nữa, xung đột về biên giới trên biển ở biển Hoa Đông chỉ giới hạn ở Trung Quốc/Đài Loan và Nhật Bản.

Một nhân tố giảm thiểu rủi ro ở biển Hoa Đông – ít nhất là về các vấn đề kinh tế – bởi thực tế đây là một tranh chấp song phương chứ không phải đa phương. Điều này khiến khả năng đạt được một thỏa thuận đàm phán về mặt toán học là dễ dàng hơn. Việc đạt được một thỏa hiệp giữa hai bên nói chung ít rắc rối hơn và có nhiều khả năng xảy ra hơn so với đạt được thỏa hiệp giữa nhiều bên. Một câu chuyện thành công đáng chú ý là giữa Nhật Bản và Đài Loan, nhưng cũng chỉ là đàm phán thỏa thuận ngư nghiệp riêng rẽ với Nhật Bản. Đáng khích lệ là Trung Quốc và Nhật Bản đã đàm phán một thỏa thuận ngư nghiệp vào năm 1997 dẫn đến một số hợp tác có hiệu quả tạm thời, nhưng việc này đã xấu đi trong những năm gần đây. Hơn nữa, Trung Quốc và Nhật Bản đã bắt đầu tổ chức đàm phán song phương về các vấn đề biển Hoa Đông vào tháng 10/2014. Hai bên đã cân nhắc khai thác chung các nguồn tài nguyên coi đó là một biện pháp để tiến về phía trước bằng công tác thăm dò năng lượng, nhưng chưa nhất trí về khu vực nào nằm trong thỏa thuận đó. Năm 2008, Trung Quốc và Nhật Bản đã đồng ý cùng thăm dò 4 mỏ khí ở biển Hoa Đông và tạm ngừng khai thác ở các phần tranh chấp của khu vực. Cả hai bên đã đồng ý thực hiện các cuộc khảo sát chung, với đầu tư tương đương nhau vào một khu vực ở phía Bắc mỏ khí đốt Xuân Hiểu/Shirakaba và phía Nam mỏ khí đốt Long Tỉnh/Asunaro. Tuy nhiên, Trung Quốc đã bắt đầu khai thác đơn phương mỏ khí đốt Thiên Ngoại Thiên/Kashi, khiến Tokyo phản đối vào tháng 1/2009. Đầu năm 2010, Nhật Bản đã đe dọa đưa Trung Quốc ra Tòa án quốc tế về luật biển nếu Trung Quốc bắt đầu khai thác từ mỏ khí đốt Xuân Hiểu/Shirakaba. Mặc dù cuối cùng không thành công, nó cho thấy một mức độ tiến triển và chiều sâu của các cuộc đàm phán chưa từng thấy trong tranh chấp Biển Đông.

Điểm khác biệt 3: Nhật Bản là một đối thủ quân sự đáng sợ hơn bất kỳ bên yêu sách nào ở Biển Đông

Việt Nam có một lực lượng quân sự vừa phải. Thế trận hải quân (NOB) của Việt Nam bao gồm 42.000 thủy thủ; 20 tàu, 10 tàu đổ bộ và 3 tàu ngầm. Không quân bao gồm 30.000 quân nhân, 418 máy bay tấn công, 160 máy bay hỗ trợ và 30 máy bay trực thăng. Ngân sách quốc phòng năm 2014 của Việt Nam là 3,3 tỷ USD, bằng khoảng 2,5% GDP.

Các lực lượng vũ trang Philippines có lẽ thậm chí còn ít ấn tượng hơn của Việt Nam. NOB của nước này bao gồm: 24.000 quân nhân, 20 tàu và 10 tàu đổ bộ. Thế trận không quân (AOB) của nước này bao gồm: 17.000 quân nhân, 12 máy bay huấn luyện nhưng không có máy bay phản lực chiến đấu, 32 máy bay hỗ trợ và 88 máy bay trực thăng. Chi tiêu quốc phòng của Manila được dự kiến tăng 81% từ năm 2011 đến 2017. Ngân sách quốc phòng năm 2011-2012 của nước này là 2,5 tỷ USD, chỉ chiếm 0,8% GDP.

Ngược lại, quân đội Nhật Bản ở một cấp độ cao hơn cả Việt Nam lẫn Philippines. Sức mạnh của Lực lượng phòng vệ biển (MSDF) hiện tại bao gồm: xấp xỉ 47.000 quân nhân (kể cả không quân của hải quân), 3 tàu chuyên chở máy bay trực thăng, 42 tàu khu trục, 6 tàu khu trục nhỏ và 16 tàu ngầm. Lực lượng không quân của Nhật Bản tương đối đáng gờm. Thế trận lực lượng phòng không (ASDF) của nước này bao gồm: xấp xỉ 43.000 quân nhân, 510 máy bay chiến đấu trong đó có 260 máy bay tiêm kích. Cảnh sát biển Nhật Bản (JCG) ấn tượng tương tự và đang tăng cường khả năng phòng thủ dài hạn cho các hòn đảo. Họ nhận được ngân sách 183,4 tỷ yên (1,79 tỷ USD) cho năm tài khóa 2014, tăng 5,5%, nhờ một đồng thuận của chính phủ là cần phải có sự cải thiện trước thách thức của Trung Quốc. JCG có kế hoạch thành lập một đơn vị đặc nhiệm với 626 người để bảo vệ các hòn đảo. Mười tàu tuần tra lớn sẽ được chế tạo, và 2 tàu có khả năng chuyên chở máy bay trực thăng sẽ được cải tạo vào cuối năm tài khóa 2015. Bốn trong số các tàu mới được dự kiến đưa vào phiên chế trong năm 2014. Để phản ứng trước “những tình hình cấp bách hơn”, như số lượng bất thường các tàu Trung Quốc, JCG cũng có kế hoạch chế tạo thêm 6 tàu tuần tra lớn và 4 tàu tuần tra cỡ trung, và nâng cấp 2 tàu hiện có có khả năng chuyên chở máy bay trực thăng để hỗ trợ cho đơn vị đặc nhiệm. Nói tóm lại, các lực lượng quân đội và cảnh sát biển Nhật Bản đặt ra một mối đe dọa lớn hơn nhiều đối với quân đội Trung Quốc, so với của Việt Nam hay Philippines.

Có lẽ yếu tố quan trọng nhất trong tính toán của Bắc Kinh là sự ủng hộ từ quân đội Mỹ đối với Nhật Bản. Washington có quan điểm rõ ràng rằng quần đảo Điếu Ngư/Senkaku – vì được Nhật Bản quản lý – thuộc vào Điều V của Hiệp ước hợp tác và an ninh chung giữa Mỹ và Nhật Bản. Bắc Kinh được cảnh báo rằng một nỗ lực giành lấy quần đảo Điếu Ngư/Senkaku bằng vũ lực có thể đồng nghĩa với một cuộc chiến không chỉ với Nhật Bản và hải quân, không quân và cảnh sát biển hiện đại của nước này, mà còn cả với Mỹ. Kết hợp với điều này là thực tế Mỹ có các lực lượng đồn trú trên khắp Nhật Bản mà có thể nhanh chóng được huy động trong trường hợp xảy ra xung đột Trung-Nhật. Ngược lại, dù Philippines cũng là một đồng minh hiệp ước, mối quan hệ của nước này không gần gũi như của Mỹ và Nhật Bản. Điều đó, cùng với việc thiếu sự hiện diện quân sự thường trực và mạnh mẽ của Mỹ trên các bờ biển của nước này, khiến liên minh Philippines - Mỹ ít gây nguy cơ hơn cho Bắc Kinh.

Trung Quốc và Nhật Bản

Chính sách chính thức của Trung Quốc là khẳng định “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với các đảo nhỏ ở cả hai vùng biển và Trung Quốc đang từ chối thỏa hiệp về các vấn đề liên quan đến các đảo này. Bắc Kinh thừa nhận có tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Điếu Ngư/Senkaku và quần đảo Trường Sa, nhưng nhấn mạnh rằng không có tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa. Phần lớn điều này bắt nguồn từ hình thái dân tộc chủ nghĩa kết hợp trong nó là một câu chuyện mang bản chất nạn nhân. Bấp chấp, hoặc có lẽ là vì, sự giàu có và sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc, nhiều công dân, nhà hoạch định chính sách và thành viên quân đội tiếp tục dựa vào cái gọi là “thế kỷ nhục nhã” coi đó là khuôn khổ cho quan điểm của họ về cách thức Trung Quốc hành xử với các quốc gia khác ở cấp độ ngoại giao. Nghiên cứu cho thấy rằng Trung Quốc có lợi thế khi thỏa hiệp về các tranh chấp lãnh thổ như ở Biển Đông, nhưng chính chủ nghĩa dân tộc và bản chất “là nạn nhân” khiến bất kỳ thỏa hiệp nào của Bắc Kinh cũng giống như là hành động phản bội.

Nếu Trung Quốc không thể thỏa hiệp, thì câu hỏi đặt ra là khu vực nào có nhiều khả năng hơn rơi vào xung đột lớn, và xung đột nào sẽ thảm khốc hơn. Ít nhất về Nhật Bản, nước này gây ra một mức độ thù địch ở Trung Quốc mà không nước nào ở Biển Đông có thể làm được, điều giới hạn khả năng Trung Quốc thỏa hiệp với Nhật Bản hơn là với một bên tranh chấp ở Biển Đông. Nhân tố này chỉ ra biển Hoa Đông là tranh chấp nguy hiểm hơn trong hai cuộc tranh chấp. Sự nguy hiểm này có nguy cơ lớn hơn là bởi cảm xúc của người Nhật Bản và đặc biệt là công chúng Trung Quốc, cùng với sức mạnh quân sự của hai nước.

Bất chấp điều này, biển Hoa Đông, vì khả năng quân sự của Nhật Bản và mối quan hệ an ninh vững chắc của nước này với Mỹ – như được chứng minh bởi những tuyên bố rõ ràng của Chính phủ Mỹ ủng hộ Nhật Bản trong cuộc khủng hoảng quần đảo Điếu Ngư/Senkaku – ít có khả năng hơn nổ ra xung đột lớn so với tranh chấp Biển Đông. Ưu thế quân sự của Nhật Bản so với Philippines và Việt Nam không chỉ là chất lượng của các hệ thống và phương tiện mà còn là chất lượng của nhân lực. Bắc Kinh biết rằng một cuộc xung đột với Nhật Bản có thể gây ra những hậu quả tồi tệ hơn, cả ở cấp độ chiến thuật lẫn địa chiến lược, so với một bên tranh chấp ở Biển Đông. Bắc Kinh biết rằng những hành động hăm dọa mà mình đã tiến hành ở bãi đá Mischief (Vành khăn), bãi cạn Second Thomas (bãi Cỏ Mây), bãi đá Johnson (Đá Gạc Ma), bãi cạn James và với giàn khoan Hải Dương-981 của Tổng công ty dầu khí hải dương sẽ không thể thành công nếu đối thủ là Nhật Bản chứ không phải là Việt Nam, Philippines hay Malaysia.

Trung Quốc và tác động của nước này đối với chính sách an ninh quốc gia của Nhật Bản

Vào tháng 12/2013, Tokyo đã thông qua Chiến lược an ninh quốc gia mới. Nước này cũng cập nhật Đường lối chỉ đạo chương trình quốc phòng (NDPG) từ năm 2010 cùng với Chương trình quốc phòng trung hạn 5 năm. NDPG phác thảo lập trường quốc phòng của Nhật Bản trong thập kỷ tới trong khi Chương trình quốc phòng trung hạn đặt ra một kế hoạch 5 năm để giành được khả năng cần thiết nhằm hoàn thành NDPG. Hoạt động hải quân Trung Quốc đặc biệt được xác định là một mối lo ngại trong Sách Trắng quốc phòng mới đây của Nhật Bản. NDPG mới nhất nhấn mạnh tác động của những tình huống “vùng xám” ngày càng tăng đối với các vấn đề như lãnh thổ, chủ quyền và lợi ích kinh tế. Nhật Bản có truyền thống chi tương đương 1% GDP của mình vào quốc phòng, một con số có thể tăng lên trong tương lai gần.

Tính toán chiến lược và tác chiến của Trung Quốc sẽ dựa nhiều vào vai trò của MSDF, và nó nên như thế. MSDF có sứ mệnh bảo vệ Nhật Bản trước sự xâm lược trên biển và đảm bảo an ninh cho giao thông hàng hải xung quanh Nhật Bản. Sứ mệnh này đang được điều chỉnh theo sự gia tăng tự tin quân sự và sự hiện diện quân sự của Trung Quốc ở biển Hoa Đông. Lực lượng phòng vệ trên bộ (GSDF) sẽ tiếp tục tăng cường một lữ đoàn đổ bộ quanh Trung đoàn pháo binh thuộc đoàn quân phía Tây. Nhật Bản cũng đang cải thiện Đơn vị đặc nhiệm của nước này, cơ quan có thể sẽ hành động trong bất kỳ tình huống bất ngờ về quần đảo Điếu Ngư/Senkaku nào. ASDF cũng đang cải thiện: Nước này sẽ triển khai nhiều máy bay chiến đấu F-15 hơn tới gần hơn quần đảo tranh chấp Điếu Ngư/Senkaku và sẽ tăng gấp đôi Phi đội cảnh báo sớm trên không. Nhật Bản cũng sẽ mở rộng số phi đội máy bay chiến đấu. Cuối cùng, trọng tâm đáng chú ý trong ngắn hạn là củng cố các khả năng giám sát của Nhật Bản ở chuỗi đảo Nansei (gồm cả Okinawa) gần nhất Trung Quốc Đại lục; phi đội cảnh báo rađa trên mặt đất sẽ được gia tăng từ 8 lên 28. Tokyo cũng đã thiết lập một cơ quan phối hợp chính sách mới tương tự như Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ. Có lẽ điều đáng kể nhất là việc Tokyo bắt đầu quá trình diễn giải lại hiến pháp nước này để tham gia hoạt động phòng vệ tập thể. Sách Trắng quốc phòng năm 2014 xác nhận tất cả kế hoạch trang bị quốc phòng này. Cuối cùng, các cuộc tập trận của Nhật Bản có sự tập trung không thể phủ nhận vào phòng thủ/đoạt lại đảo.

Kết luận và những lựa chọn ngoại giao

Lôgích của các động lực này chỉ ra một cuộc chạy đua vũ trang châu Á: nếu khả năng quân sự của Nhật Bản là điều khiến Trung Quốc thận trọng hơn so với Việt Nam hay Philippines, thì trên lý thuyết, giải pháp duy nhất để ngăn chặn một cuộc xung đột lớn là một quân đội chất lượng cao, điều có thể khiến khu vực rơi vào một cuộc chạy đua vũ trang đang tiếp diễn về chất lượng để cân bằng số lượng của Trung Quốc.

Trong dài hạn, giải pháp thực sự duy nhất cho các tranh chấp này là tất cả các bên giải quyết những vấn đề về biên giới và chủ quyền trên biển thông qua phân xử quốc tế. Tuy nhiên, do những hiện thực chính trị của khu vực, đặc biệt ở Trung Quốc, điều này gần như là không thể. Vì thế, điều có thể được mong chờ nhất vào thời điểm này là những bước đi ban đầu để ngăn chặn xung đột và làm xuống thang xung đột. Những điểm tương đồng giữa các cuộc tranh chấp đem đến những cơ hội có hạn nhất định để tạo dựng một nền tảng ngăn chặn xung đột cho cả hai khu vực. Trong một số trường hợp, Mỹ sẽ được Trung Quốc coi là bên tham gia một chiều, có nghĩa là bản thân các nước khu vực sẽ cần phải thúc đẩy những nỗ lực. Trong số những bước đi mà các bên tranh chấp ở cả biển Hoa Đông lẫn Biển Đông có thể thực hiện là các Thỏa thuận về các sự cố trên biển, cụ thể là giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Một hành động khác là việc thiết lập các đường dây nóng. Malaysia và Indonesia có đường dây nóng, và Nhật Bản có với Nga và Hàn Quốc. Năm 2006, Tokyo và Bắc Kinh đã đạt được đồng thuận trên nguyên tắc về việc thiết lập một đường dây nóng, nhưng đã không có tiến triển nào về việc này cho tới ngày 7/11/2014, khi Ủy viên quốc vụ Dương Khiết Trì tổ chức các cuộc hội đàm với Cố vấn an ninh quốc gia của Nhật Bản Shotaro Yachi đang ở thăm Bắc Kinh và soạn thảo một thông cáo gồm 4 điểm, mà trong số những điều khác, đã làm hồi sinh triển vọng về một đường dây nóng có hoạt động giữa hai chính phủ trong trường hợp khẩn cấp.

Nhật Bản cũng có trách nhiệm. Tokyo nên kiềm chế các hành động đơn phương nhằm củng cố các tuyên bố chủ quyền của mình, như triển khai quân của JSDF trên các đảo, xây dựng một cảng trú ẩn cho các tàu đánh cá, nâng cấp hải đăng của các đảo, hay triển khai các công chức đến để quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng của các đảo hoặc thăm dò tài nguyên biển. Hơn nữa, Tokyo nên hợp nhất điểm “những lập trường khác biệt” của thông cáo ngày 7/11 vào ngôn từ chính thức của mình về quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Điều này có thể đóng vai trò là sự thừa nhận “tranh chấp” trên thực tế mà không phải bị mất mặt, mở đường cho các cuộc đàm phán song phương với Trung Quốc, và thậm chí khởi động các hành động pháp lý về các hòn đảo. Một biện pháp khác mà Bắc Kinh và Tokyo có thể thực hiện là quy định rằng bất kể quyền chủ quyền ra sao, quần đảo Điếu Ngư/Senkaku không tạo ra một EEZ hay thềm lục địa kéo theo việc giới hạn các đảo nhỏ trong phạm vi 12 hải lý. Vấn đề này phải được xử lý một cách tách biệt với việc phân định ranh giới trên biển và vấn đề chủ quyền các đảo.

Trong khi tình hình biển Hoa Đông hay Biển Đông khó có khả năng cải thiện trong tương lai gần do bản chất của các cuộc xung đột không ngăn chặn thời điểm xấu nhất. Tuy nhiên, tất cả các bên liên quan phải nỗ lực ngăn không để xảy ra thời điểm xấu nhất./.

Theo “RSIS

Hương Trà (gt)