Trong 5 năm qua, các căng thẳng giữa Trung Quốc và một loạt các quốc gia láng giềng trên Biển Đông và biển Hoa Đông đã trở nên trầm trọng, mà đôi khi thậm chí có nguy cơ dẫn tới xung đột vũ trang. Trước hết, cách hành xử ngày càng hung hăng của Trung Quốc đã củng cố những nỗi lo sợ rằng các xung đột sôi sục từ lâu có thể leo thang. Bức tranh u ám này đã trở nên tươi sáng một cách đáng kể vào nửa cuối năm 2014. Trước thềm nhiều hội nghị thượng đỉnh quốc tế quan trọng khác nhau trong khu vực, như Hội nghị thượng đỉnh ASEAN và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, kể từ tháng 11/2014 đã có những sự xích lại gần nhau một cách thận trọng giữa các bên xung đột và một sự giảm căng thẳng trong tình hình an ninh. Tuy nhiên, những yếu tố thúc đẩy xung đột vẫn có hiệu lực. Những yếu tố này trước hết bao gồm các tuyên bố chủ quyền xung đột, các nhận thức chiến lược sai lầm và các khái niệm về trật tự khu vực cạnh tranh với nhau.

Những tranh cãi về chủ quyền trên Biển Đông và biển Hoa Đông là đặc trưng không chỉ cho các cán cân sức mạnh đang thay đổi trong không gian châu Á-Thái Bình Dương, mà còn cho những khác biệt trong các khái niệm về trật tự khu vực của Mỹ và Trung Quốc, mà cho đến nay người ta chưa nhận thấy một sự hội tụ nào trong các khái niệm này. Vì vậy, các bên xung đột không rõ đối thủ sẽ hành xử như thế nào trong tương lai. Sự không chắc chắn về mặt chiến lược cũng sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng lên những diễn biến trong khu vực.

Về mặt chính sách đối ngoại, với những hành vi đe dọa của mình, trong những năm qua Trung Quốc đã khiến các nước láng giềng hợp tác với nhau chống lại chính nước này. Trên thực tế, Trung Quốc đã làm được một điều dường như không thể thực hiện được đối với Chính phủ Mỹ: Họ đã đẩy những nước láng giềng chống Mỹ như Việt Nam vào vòng tay của Washington và khuyến khích một sự cộng tác mới và mạnh mẽ giữa Mỹ và Philippines.

Tuy nhiên trong những tháng vừa qua, Bắc Kinh dường như ít dựa vào đối đầu hơn và hành xử hòa giải hơn với Nhật Bản, Việt Nam và Philippines. Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã ghi nhận trong khoảng thời gian từ tháng 1 tới tháng 10/2014, trung bình mỗi tháng chỉ có 7 vụ xâm nhập của tàu tuần tra Trung Quốc vào vùng biển Nhật Bản tuyên bố chủ quyền, trong khi vào năm 2013 có trung bình 16 vụ mỗi tháng. Và tại Hội nghị thượng đỉnh APEC đã diễn ra cuộc gặp giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, theo sau cuộc gặp này cả hai nước đã đưa ra những tuyên bố chính thức về vấn đề tranh chấp biển đảo. Lần đầu tiên, Nhật Bản thừa nhận trong tranh chấp này có những quan điểm khác nhau. Ban lãnh đạo Nhật Bản từ lâu đã từ chối thảo luận về những đòi hỏi của Trung Quốc. Sự nhượng bộ của Nhật Bản được đánh giá như là bước tiến quan trọng để khôi phục các quan hệ Trung-Nhật.

Tập Cận Bình cũng đã gặp Tổng thống Philippines Benigno Aquino tại Hội nghị thượng đỉnh APEC. Sau đó, Aquino cũng tuyên bố có những dấu hiệu cho một sự xích lại gần nhau giữa hai nước. Trong những tuần trước Hội nghị thượng đỉnh APEC, Việt Nam và Trung Quốc cũng đã xích lại gần nhau sau nhiều tháng tranh cãi về quần đảo Hoàng Sa trên Biển Đông. Trong đó, cả hai bên đã thống nhất thiết lập một đường dây nóng để tránh những xung đột trên biển. Trước đó, Bắc Kinh đã di dời một giàn khoan khỏi vùng biển Việt Nam tuyên bố chủ quyền.

Các xung đột lãnh thổ chưa được giải quyết

Bất chấp sự giảm căng thẳng hiện nay, các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và biển Hoa Đông cho tới nay chưa được chấm dứt một cách hòa bình. Các quan hệ ngoại giao của Trung Quốc vẫn chịu ảnh hưởng của các xung đột trên biển về các đảo, đảo san hô và toàn bộ vùng biển. Sự gia tăng quyền lực và cách hành xử ngày càng hung hăng của Bắc Kinh tại châu Á trong những năm qua đã làm gia tăng sự thiếu tin tưởng đối với Trung Quốc và tạo ra ấn tượng rằng nước này đang theo đuổi một sự trỗi dậy hoàn toàn không hòa bình. Kể từ năm 2009, Trung Quốc thường xuyên có những cử chỉ đe dọa, tàu Trung Quốc tấn công tàu cá và các tàu khác, và nước này cũng không ngại ngần trước việc chiếm đoạt các lãnh thổ đang tranh chấp. Vào đầu những năm 2000, Trung Quốc đã khởi động “chính sách gây cảm tình” và thể hiện bản thân như là một đối tác thương mại hấp dẫn và đáng tin cậy. Nhưng hiện nay, hình ảnh của Trung Quốc tại Đông Á đã thay đổi, quốc gia này giờ được coi như là mối đe dọa tiềm tàng cho sự ổn định của khu vực.

Tranh chấp lãnh thổ được biết đến nhiều nhất liên quan tới 5 hòn đảo ở biển Hoa Đông, cách Đài Loan gần 200km về phía Đông Bắc, cách Okinawa 400km về phía Tây và cách Trung Quốc Đại lục 300km về phía Đông. Trong tranh chấp Trung-Nhật đối với quần đảo Nhật Bản gọi là Senkaku, còn Trung Quốc gọi là Điếu Ngư, vấn đề không chỉ nằm ở nguồn cá và nguyên liệu thô (dầu mỏ và khí đốt) dồi dào. Thứ nhất, những tuyên bố chủ quyền và đường ranh giới có thể giữa Trung Quốc và Nhật Bản còn gây tranh cãi; thứ hai, quần đảo này có tầm quan trọng lớn về địa chiến lược; và thứ ba, quần đảo này là những biểu tượng quốc gia. Câu hỏi về việc bên nào nên giữ hay trả lại quần đảo này vì vậy có ý nghĩa chính trị rất lớn. Nếu Trung Quốc thành công trong việc dùng vũ lực chiếm lấy quần đảo này bất chấp sự kháng cự của Nhật Bản, việc này sẽ là một tổn thất quyền lực nghiêm trọng đối với Mỹ. Hậu quả là niềm tin của Nhật Bản vào liên minh an ninh với Mỹ sẽ bị tổn hại sâu sắc. Về mặt này, tranh chấp biển đảo này cũng là một phần trong sự ganh đua quyền lực Mỹ-Trung.

Vào ngày 23/11/2013, Bắc Kinh đã thiết lập một Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên biển Hoa Đông. Qua hành động này, Bắc Kinh đã nhấn mạnh yêu sách của mình là không chỉ kiểm soát quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, mà còn cả khu vực bao quanh, chồng lấn lên các ADIZ đã được thiết lập trước đó của Hàn Quốc và Đài Loan. Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, Tướng Thường Vạn Toàn, đã nhấn mạnh vào tháng 4/2014 rằng Trung Quốc có “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư và sẽ “không có sự thỏa hiệp, nhượng bộ, thỏa thuận” trong vấn đề này. Ngược lại, trong chuyến thăm Nhật Bản vào tháng 4/2014, Barack Obama với tư cách tổng thống Mỹ đầu tiên đã khẳng định rằng sự bảo vệ quần đảo này được đảm bảo thông qua điều 5 của hiệp ước an ninh song phương giữa Mỹ và Nhật.

Bên cạnh tranh chấp biển đảo giữa Nhật Bản và Trung Quốc, trên Biển Đông cũng tồn tại tranh chấp lãnh thổ kéo dài. Dựa theo các tấm bản đồ và tài liệu lịch sử, Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền đối với phần lớn diện tích vùng biển này, được đánh dấu bởi cái gọi là “đường 9 đoạn”. Ngoài Trung Quốc, một loạt bãi đá ngầm và đảo san hô nằm trong khu vực được đường này đánh dấu, cũng được Philippines, Malaysia, Đài Loan, Brunei và Việt Nam tuyên bố chủ quyền một phần hoặc toàn bộ. Mỹ lại tham gia cuộc chơi khi tuyên bố rằng tự do hàng hải trong khu vực này là lợi ích quốc gia. Theo quan điểm của Washington, các tuyên bố chủ quyền như vậy cần được dựa trên nền tảng luật pháp quốc tế và vì vậy “đường 9 đoạn” của Bắc Kinh là không hợp pháp. Do các nghĩa vụ liên minh đối với Philippines, Mỹ cũng có thể can dự trong trường hợp xảy ra xung đột quân sự.

Đặc biệt, Philippines và Việt Nam có xung đột gay gắt với Trung Quốc. Những tranh chấp mới đây với Manila đã bùng nổ khi một tàu chiến của Philippines muốn đuổi tàu cá Trung Quốc khỏi bãi cạn Scarborough thuộc quần đảo Trường Sa. Các tàu cá này được cho là đã đánh bắt những loài cá bị đe dọa trong Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Philippines. Mỹ đã làm trung gian hòa giải giữa hai bên vào tháng 6/2012. Nhưng chỉ có tàu Philippines rút đi theo như thỏa thuận. Kể từ đó, khu vực này trên thực tế bị các tàu Trung Quốc kiểm soát. Do hành động này, Manila sau đó đã khởi kiện Trung Quốc tại Tòa án quốc tế về luật biển. 

Chủ đề của các xung đột hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam là quần đảo Hoàng Sa, bị Trung Quốc kiểm soát từ năm 1974. Khi Hà Nội thông qua một đạo luật tuyên bố quần đảo này thuộc lãnh thổ Việt Nam vào năm 2012, Bắc Kinh đáp trả với việc thiết lập thành phố Tam Sa bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào tháng 5/2014, Trung Quốc đã đặt một giàn khoan trong vùng biển của Việt Nam, phía Nam quần đảo Hoàng Sa. Trong khi Trung Quốc coi khu vực biển này là lãnh thổ của mình, Việt Nam lại cho rằng đây là một phần Vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Điều rõ ràng là việc hạ đặt giàn khoan tại đó là một sự khiêu khích rõ ràng. Căng thẳng gia tăng khi các tàu Trung Quốc bao vây, đâm thủng và đánh chìm một tàu cá gần bờ của Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa – theo như miêu tả của Hà Nội. Bắc Kinh lại tuyên bố rằng tàu Việt Nam đã xâm nhập vùng biển này, đâm vào một tàu của Trung Quốc và do đó bị lật úp. Hiện nay, giàn khoan này đã được dời đi, trao đổi giữa Hà Nội và Bắc Kinh ở cấp độ ngoại giao đã được tăng cường trong những tháng vừa qua. Bất chấp việc này, vào tháng 10/2014, Trung Quốc đã công bố xây dựng một đường băng trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Trường Sa đang tranh chấp. Cùng thời điểm này, Trung Quốc đã đổ cát lên Đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Tại các vùng biển (ví dụ như Bãi Tư Chính) cũng được Việt Nam tuyên bố chủ quyền, các tàu nghiên cứu của Trung Quốc đã thực hiện các hoạt động thăm dò, với sự hộ tống của các tàu chiến.

Thêm nữa, dù cho tới nay về cơ bản có Nhật Bản, Việt Nam và Philippines có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, nhưng hiện nay nhiều người lo ngại rằng trong tương lai gần cả Indonesia cũng có thể bị kéo vào các cuộc xung đột. Từ trước tới nay, Jakarta đã luôn nhấn mạnh vai trò của mình như là bên tham gia không có tuyên bố chủ quyền và thúc giục tìm ra một giải pháp hòa bình cho các tranh chấp. Đồng thời, Chính phủ Indonesia đã chính thức phản đối các đòi hỏi của Trung Quốc đối với các khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế quanh quần đảo Natuna của Indonesia. Nhưng Chính phủ Indonesia cũng tránh đề cập tới một cuộc xung đột lãnh thổ với Trung Quốc. Vì theo quan điểm của Indonesia, hành động này sẽ đem lại một sự đảm bảo chắc chắn cho các đòi hỏi của Trung Quốc. Cho tới nay, Jakarta vẫn nỗ lực không đặt câu hỏi về sự hợp tác chiến lược với Trung Quốc tồn tại từ năm 2005. Nhưng việc các tàu Trung Quốc xâm nhập ngày càng thường xuyên hơn vào các vùng biển của Indonesia xung quanh quần đảo Natuna khiến nước này lo ngại hơn. Vì vậy vào tháng 2/2014, quân đội Indonesia đã công bố các kế hoạch, trong đó căn cứ quân sự trên quần đảo Natuna sẽ được tăng cường một phi đội máy bay chiến đấu Sukhoi và 4 máy bay trực thăng tấn công Apache. Nhưng điều này không đồng nghĩa với một sự thay đổi hoàn toàn trong quan hệ Trung Quốc-Indonesia. Tuy nhiên, những lo ngại đang gia tăng về việc Indonesia có thể đánh mất vai trò của mình như là “nhà trung gian thành thực” trong các xung đột về quyền kiểm soát Biển Đông.

Các nhận thức (sai lầm) và sự không chắc chắn về chiến lược

Chính sách ngoại giao tự tin hơn của Trung Quốc đã tìm được sự ủng hộ trong nước. Công chúng và giới tinh hoa đa số đều có quan điểm rằng Trung Quốc dựa quá ít vào sức mạnh quân sự của mình về đối ngoại. Những hành động mà ở nơi khác được nhìn nhận là sự bành trướng hung hăng, ở Trung Quốc lại được coi là sự củng cố các đòi hỏi quyền lực hợp pháp. Phía Trung Quốc nhiều lần nhắc rằng nước này là kẻ đến muộn khi xét tới các đòi hỏi về lãnh thổ cũng như việc khai thác các nguồn tài nguyên dầu và khí đốt dưới nước. Nếu Trung Quốc không muốn cuối cùng là kẻ thua cuộc trong cuộc chạy đua trở thành bá chủ Biển Đông, nước này phải thực thi các đòi hỏi của mình một cách nhanh chóng và bền vững. Chiến lược “xoay trục” của Mỹ và sự liên kết được tăng cường của Philippines và Việt Nam với Mỹ trong bối cảnh này được diễn giải tại Bắc Kinh như là một nỗ lực nhằm “ngăm chặn” Trung Quốc. Trung Quốc coi bản thân là “nạn nhân” của những nỗ lực ngăn chặn này và bên tham gia bị đẩy vào thế phòng thủ trong chính sách đối ngoại đối đầu với những nước láng giềng nhỏ hơn hẳn như Việt Nam và Philippines. Ngoài ra, bài diễn văn then chốt về chính sách đối ngoại của Tập Cận Bình vào cuối tháng 11/2014 cũng để lại ít nghi ngờ về việc ban lãnh đạo Trung Quốc đánh giá chính sách đối ngoại “hung hăng” trong những năm qua là thành công. Vì vậy, không thể trông đợi một sự thay đổi đường lối chiến lược trong thời điểm này.

Sự nhìn nhận tích cực trong nội bộ về cách hành xử tự tin hơn của Trung Quốc đối lập với hình ảnh tiêu cực của nước này trong khu vực: Người dân Nhật Bản, Philippines và Việt Nam đã khẳng định trong một cuộc thăm dò dư luận vào năm 2014 rằng họ coi Trung Quốc như là mối đe dọa lớn nhất đối với đất nước họ. Có tới 93% số người được hỏi ở Philippines, 85% ở Nhật Bản, 84% ở Việt Nam và 83% ở Hàn Quốc cho rằng các tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước láng giềng có thể biến thành một cuộc xung đột vũ trang. Trong một cuộc thăm dò khác, hơn một nửa số người được hỏi ở Trung Quốc (53,4%) cũng có quan điểm tương tự.

Theo quan điểm của Việt Nam, sự thiếu hụt “lòng tin trong khu vực” đối với Trung Quốc trước hết là hậu quả của việc Bắc Kinh đã đe dọa an ninh và sự ổn định của khu vực với chính sách bành trướng của mình. Tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam, Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, cho rằng cho tới nay chưa có điều gì thay đổi trong chiến lược chung của Trung Quốc, một chiến lược nhằm thực thi các đòi hỏi về lãnh thổ của mình, trong đó nước này tạo sự đã rồi với việc chiếm đóng các đảo và bãi đá hay việc cải tạo các bãi đá. 

Ở Philippines, nhiều người cũng đồng tình một phần với quan điểm này. Các nhà hoạch định chính sách chính trị và giới truyền thông liên tục miêu tả chính sách của Trung Quốc như là “sự xâm lăng dần dần”. Tổng thống Philippines Benigno Aquino đã nhiều lần so sánh các đòi hỏi quyền bá chủ đối với Biển Đông của Trung Quốc với các yêu sách kiểm soát vùng đất Sudetenland của Đức Quốc xã. Philippine coi bản thân đang đối đầu với một cường quốc vượt trội hơn cả về quân sự lẫn kinh tế, một cường quốc dường như nóng lòng muốn lấy đi từng phần một lãnh thổ của Philippines. Aquino miêu tả tình hình hiện nay với những từ ngữ như sau: “Khi nào tới thời điểm người ta nói “Như thế là đủ lắm rồi’? Thế giới phải lên tiếng. Hãy nghĩ tới việc Sudetenland được trao cho Hitler nhằm ngăn chặn cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai”.

Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã so sánh tầm quan trọng của quần đảo Senkaku/Điếu Ngư với của quần đảo Falkland, và ông có thể đi tới chiến tranh vì quần đảo này, như Anh từng làm dưới thời Thủ tướng Margaret Thatcher vào năm 1982. Tranh chấp biển đảo Trung-Nhật ở biển Hoa Đông thậm chí đã khiến một số nhà quan sát có đánh giá ảm đạm rằng người ta đang ở trong giai đoạn trước của một cuộc chiến tranh thế giới mới như vào năm 1914. Ngay cả khi những sự giống nhau trong lịch sử có thể sai, những đánh giá và thể hiện như vậy cho thấy sự thiếu tin tưởng sâu sắc đối với Bắc Kinh. Ngoài ra, lối nói mang tính dân tộc chủ nghĩa của tất cả các bên tham gia xung đột đã gia tăng. Bằng cách này, các bên trước hết cố gắng thể hiện sức mạnh đối nội. Tuy nhiên, việc công cụ hóa lối nói mang tính dân tộc chủ nghĩa, với mục tiêu đạt được tính hợp pháp chính trị lớn hơn, cũng ngày càng đặt các chính phủ ở Bắc Kinh, Hà Nội và Manila dưới áp lực thể hiện sức mạnh trong chính sách đối ngoại.

Những sự kình địch địa chính trị và các khái niệm trật tự cạnh tranh

Tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng bị bao phủ bởi cuộc cạnh tranh địa chính trị vì quyền lực và ảnh hưởng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương giữa Trung Quốc và Mỹ. Khu vực này là rất quan trọng đối với Washington nhằm đảm bảo trật tự khu vực Đông Á và Đông Nam Á dưới sự lãnh đạo của Mỹ tồn tại từ cuối Chiến tranh thế giới thứ hai và duy trì vai trò siêu cường thế giới của Mỹ. Đối với Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc, việc kiểm soát khu vực ngoại vi trên biển trước hết có tầm quan trọng sống còn vì những lý do kinh tế. Do sự hội nhập của Trung Quốc vào nền kinh tế thế giới, các tuyến đường vận chuyển trên biển đã có tầm quan trọng lớn hơn và việc bảo vệ các tuyến đường này có ý nghĩa chính trị. Vì vậy, chúng đã trở thành “thành phần không thể thiếu trong các lợi ích quốc gia”, như Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã khẳng định vào năm 2013 tại Bắc Kinh. Hiện nay, Trung Quốc phụ thuộc rất lớn vào việc sử dụng các tuyến đường biển, tới mức một môi trường hàng hải hòa bình và ổn định mang tính quyết định cho sự phát triển của nước này. Các tuyến đường thông thương trên biển quan trọng, chẳng hạn như các tuyến đường đi qua eo biển Malacca, đảm bảo thương mại và việc cung cấp dầu mỏ, khí đốt, nguyên liệu thô, thực phẩm và hàng tiêu dùng. Điều này đem lại cho Chính phủ Bắc Kinh khả năng làm yên lòng dân chúng với tăng trưởng kinh tế và sự cung cấp được đảm bảo và hợp pháp hóa sự thống trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Về mặt này, an ninh các tuyến đường biển và an ninh của chế độ tại Trung Quốc thể hiện hai mặt của một tấm huy chương.

Bên cạnh an ninh cho các tuyến đường thông thương trên biển, Bắc Kinh cũng nỗ lực hạn chế sự tự do hoạt động của Mỹ trong hàng thập kỷ qua tại khu vực ngoại vi trên biển của Trung Quốc. Theo báo cáo của Lầu Năm Góc, Trung Quốc hiện nay không chỉ sở hữu một hạm đội lớn tàu chiến, tàu ngầm và tàu đổ bộ ở châu Á, mà cả tên lửa đạn đạo tầm xa chống tàu. Với sự hỗ trợ của những năng lực như vậy, Bắc Kinh hiện nay có thể ít nhất ngăn chặn (cho dù bị hạn chế về thời gian và địa điểm) tàu nước ngoài tiếp cận/xâm nhập khu vực (A2/AD). Vì vậy, thông qua việc áp dụng các khả năng chống tiếp cận/chống xâm nhập A2/AD của Trung Quốc trên Biển Đông và biển Hoa Đông, khả năng triển khai sức mạnh của Mỹ trong khu vực ngoại vi trên biển của Trung Quốc có thể bị ngăn chặn, sự kiềm chế Trung Quốc của Mỹ và các nước đồng minh có thể bị phá vỡ và vị thế lãnh đạo của Mỹ trong khu vực có thể bị suy yếu.

Nhưng Trung Quốc không chỉ hiện đại hóa về mặt quân sự, mà còn giành được ảnh hưởng chính trị ngày càng tăng trong khu vực. Tập Cận Bình nhìn chung đang thúc đẩy mục tiêu rằng dưới sự lãnh đạo của Trung Quốc, “các giải pháp của châu Á cho những vấn đề của châu Á” sẽ được tìm ra và ảnh hưởng của các cường quốc bên ngoài (trước hết là của Mỹ) theo cách này sẽ bị hạn chế. “Mô hình mới” của Tập Cận Bình cho các quan hệ giữa hai cường quốc Mỹ và Trung Quốc hướng tới một sự thay đổi toàn diện về quyền lực tại châu Á nghiêng về phía Bắc Kinh. Phù hợp với mô hình này là các sáng kiến và hoạt động của Trung Quốc, tất cả đều nhằm mục tiêu thiết lập một trật tự khu vực lấy Trung Quốc làm trung tâm: việc thiết lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB); sự ủng hộ của Bắc Kinh đối với một hiệp định thương mại tự do (Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực, RCEP), mà các nước ASEAN đang đàm phán với Australia, Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản, nhưng không có Mỹ; vai trò nổi bật của Trung Quốc trong Sáng kiến Chiang Mai (CMI), một thỏa thuận trao đổi tiền tệ đa phương; nỗ lực của Bắc Kinh hướng tới sự liên kết kinh tế chặt chẽ hơn với các nước láng giềng phương Tây của Trung Quốc thông qua việc thiết lập một khu vực kinh tế Á-Âu trên biển (“Con đường tơ lụa”) hay Diễn đàn Hương Sơn về chính sách an ninh và quốc phòng như là đối trọng của Trung Quốc cho Đối thoại Shangri-La tại Singapore.

Obama đã phản ứng, trong đó ông, với tư cách là “Tổng thống Thái Bình Dương” đầu tiên của Mỹ, đã bắt đầu thực hiện thực hiện chiến lược “xoay trục” (tái cân bằng sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương) do chính ông khởi xướng. Thông qua chiến lược này, Obama muốn đem lại sự đảm bảo về chính trị cho các nước trong khu vực – và đặc biệt là các nước đồng minh đang lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc – rằng họ cũng có thể trông đợi vào Mỹ với tư cách là cường quốc đảm bảo trật tự ở Thái Bình Dương trong tương lai. Sự đổi mới trong vị thế quyền lực của Mỹ có những khía cạnh chính trị, kinh tế và quân sự. Trước hết, các liên minh đang tồn tại nên được củng cố và các quan hệ hợp tác nên được mở rộng. Tuy nhiên trong việc hỗ trợ các nước đồng minh và đối tác tại châu Á, Washington phải đạt được một sự cân bằng giữa củng cố cần thiết và khuyến khích thận trọng: Một mặt, tuy các nước đồng minh trong khu vực dưới lời hứa bảo vệ của Mỹ nên được khuyến khích có những nỗ lực của riêng mình nhằm chống lại các tham vọng của Trung Quốc. Nhưng mặt khác, điều này không nên khuyến khích các nước này có thái độ hung hăng với Trung Quốc trong các tranh chấp lãnh thổ trên biển và kéo Mỹ vào một cuộc xung đột vũ trang trái với mong muốn của nước này. Obama mới đây đã tóm tắt quan điểm chung của Mỹ sau Hội nghị thượng đỉnh G-20 tại Brisbane. Theo Tổng thống Mỹ, châu Á hiện đang đứng trước một quyết định rất quan trọng giữa hai mô hình trật tự cạnh tranh với nhau trong tương lai: một mô hình (do Mỹ thống trị) hướng tới nhiều hội nhập, công bằng và tự do hơn, và một mô hình (của Trung Quốc) bị ảnh hưởng bởi xung đột và sự rối loạn.

Ngoài ra, kinh tế và thương mại vừa là nguyên nhân vừa là công cụ cho sự chuyển trọng tâm. Ngoài tầm quan trọng chung đối với kinh tế thế giới, châu Á cũng trở nên quan trọng đối với các sáng kiến xuất khẩu quốc gia của Obama. Tầm quan trọng ngày càng tăng của các lợi ích kinh tế của Mỹ tại châu Á và sự gia tăng của hàng hóa xuất nhập khẩu thường được vận chuyển bằng đường biển cũng biến khu vực Tây Thái Bình Dương thành một không gian địa kinh tế nổi bật. Vì vậy, Mỹ không chỉ phải quan tâm tới việc đảm bảo tự do hàng hải trong khu vực này, mà còn tới một trật tự kinh tế ổn định. Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ủng hộ Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), và người kế nhiệm ông George Bush đã bắt đầu các cuộc đàm phán với nhiều nước khác nhau trong khu vực về một hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, TPP), mà không có sự tham gia của Trung Quốc. Với TPP, các nhân tố quyền lực của kinh tế có thể được liên kết với nhau và các quy tắc của nền kinh tế thế giới cho nhiều năm sau có thể được ấn định theo hình mẫu của phương Tây. Qua đó, TPP về cơ bản thể hiện khía cạnh chính trị thương mại trong chiến lược “xoay trục sang châu Á”. Theo quan điểm của Mỹ, hiệp định này sẽ củng cố chính sách an ninh và hỗ trợ nền kinh tế xuất khẩu. Tuy nhiên, các kế hoạch của Washington nhằm đưa các khái niệm trật tự về chính trị kinh tế của Mỹ dưới hình thức hiệp định TPP trở nên có hiệu lực tại Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2014 đã phải gánh chịu một thất bại nặng nề, vì ý đồ được Bắc Kinh phát triển trong nhiều năm qua về Khu thương mại tự do châu Á-Thái Bình Dương (FTAAP) như là đối trọng với TPP, mà sẽ bao gồm tất cả các nước thành viên APEC và qua đó gần một nửa dân số thế giới, đã được đưa vào chương trình nghị sự của APEC, điều mà các nhà quan sát diễn giải như là một lời tuyên chiến rõ ràng tới TPP. Một nghiên cứu được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh APEC về những khía cạnh khác nhau của việc hiện thực hóa FTAAP sẽ được công bố vào cuối năm 2016. Vì vậy ở cấp độ chính trị kinh tế, hiện cũng đang tồn tại một cuộc cạnh tranh giữa các khái niệm trật tự, mà sự giảm căng thẳng hiện nay sẽ không đem lại nhiều thay đổi tới sự tồn tại của cuộc cạnh tranh này.

Kết luận: Môi trường tốt hơn, xung đột vẫn kéo dài

Các cử chỉ hòa giải của Trung Quốc đối với Nhật Bản tại Hội nghị thượng đỉnh APEC vào tháng 11/2014 và hiệp định giữa Mỹ và Trung Quốc, trong đó hai bên thống nhất cắt giảm lượng khí thải gây hại, tuy đã cải thiện môi trường chính trị, nhưng không dẫn tới một sự thay đổi cơ bản trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Vẫn tồn tại sự không chắc chắn đối việc liệu có phải chính sách giảm căng thẳng của Trung Quốc phản ánh một động lực “theo chu kỳ” của các thời kỳ thể hiện cách hành xử tham vọng và kiềm chế luân phiên nhau, hay có phải ban lãnh đạo Trung Quốc đã lựa chọn một chiến lược cẩn trọng hơn trong trung hạn khi xét tới sự phản đối của các nước láng giềng. Ngoài câu hỏi về chiến lược, người ta vẫn chưa nhận thấy có sự thay đổi trong các tham vọng của Trung Quốc, vì Bắc Kinh đã tạo sự đã rồi trên Biển Đông. Thông qua các bức ảnh từ vệ tinh, tạp chí Jane’s Intelligence Review vào tháng 11/2014 cho thấy các máy xúc của Trung Quốc đã đổ một lượng cát dài 3km lên một bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa nhằm tạo ra một hòn đảo nhân tạo. Theo báo cáo, hòn đảo mới có thể đủ lớn để xây dựng một đường băng. Một cảng nhân tạo cũng đã được thiết lập. Ngoài ra, báo cáo này cũng nhắc đến việc Trung Quốc trong những tháng vừa qua đã cải tạo 3 hòn đảo nữa, mà trong tương lai có thể được sử dụng làm nơi trú ngụ cho đội tàu đánh cá của nước này hay để tuần tra bờ biển.

Trung Quốc đang nỗ lực giành được nhiều ảnh hưởng hơn trên nhiều cấp độ khác nhau, trong khi Mỹ tìm cách giữ nguyên trạng. Với sự không chấp nhận những nỗ lực của Trung Quốc, một sự hoài nghi được khuấy động trong khu vực về việc liệu Washington, do một loạt cuộc khủng hoảng, xung đột và chiến tranh trên toàn cầu, có khả năng giành chiến thắng trước Trung Quốc hay không. Vì những nhân tố thúc đẩy xung đột vẫn có hiệu lực, sự không chắc chắn chiến lược của một trong những yếu tố quyết định hành vi chính sách đối ngoại của các quốc gia trong khu vực vẫn tồn tại.

Theo Viện Nghiên cứu các Vấn đề Quốc tế và An ninh, Đức

Văn Cường (gt)