Biển Đông[1] đang nhanh chóng trở thành tuyến đường biển quan trọng nhất thế giới. Với vai trò là hành lang chính kết nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Biển Đông chuyên chở phần ba tổng giá trị thương mại hàng hải toàn cầu,[2] trị giá trên 5,000 tỷ đô la Mỹ, trong đó mỗi năm, 1,200 tỷ đô Mỹ đi vào hoặc đi ra khỏi nước Mỹ. Trữ lượng dầu khí và các khu vực đánh cá rộng lớn vốn cung cấp 12% lượng cá đánh bắt được hàng năm trên thế giới, cung cấp năng lượng và thực phẩm cho 620 triệu người trong khu vực Đông Nam Á.

Nhưng mọi thứ không diễn ra êm đẹp tại vùng biển này. Sáu bên, bao gồm Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam, có những yêu sách chồng lấn nhau đối với hàng trăm đảo đá và rạn san hô nằm rải rác trong vùng biển này. Chủ quyền đối với những lãnh thổ đó không chỉ là thể diện quốc gia, mà còn mang lại những quyền lợi có giá trị khổng lồ liên quan đến khai thác dầu, đánh bắt cá, và triển khai tàu quân sự tại các vùng nước xung quanh. Do đó, trong hàng thập kỷ qua, các quốc gia đã phản đối mạnh mẽ yêu sách của nhau, đôi khi còn sử dụng đến cả vũ lực. Không bên nào thành công trong việc thống trị khu vực này, và Mỹ đã lựa chọn giữ quan điểm trung lập trong các tranh chấp chủ quyền. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Trung Quốc đã bắt đầu khẳng định các yêu sách của mình mạnh mẽ hơn[3] và giờ đây đang sẵn sàng để chiếm quyền kiểm soát vùng biển này. Nếu Trung Quốc thành công, quốc gia này sẽ giáng một đòn nặng nề đến ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực, làm nghiêng cân bằng quyền lực tại châu Á theo hướng có lợi cho Trung Quốc.

Thời gian đang không còn nhiều để ngăn chặn bước tiến của Trung Quốc. Với chính sách hiện đang lưỡng lự của Mỹ, chính quyền Trump cần phải cứng rắn hơn. Ngoài các biện pháp ngoại giao, chính quyền Trump cần có những biện pháp răn đe bằng việc cảnh báo Trung Quốc rằng nếu nước này còn hung hăng thì Mỹ sẽ từ bỏ quan điểm trung lập và trợ giúp các quốc gia khác trong khu vực bảo vệ các yêu sách của mình. Washington cần làm rõ rằng Mỹ có thể chấp nhận một sự bế tắc ở châu Á nhưng không thể chấp nhận quyền bá chủ của Trung Quốc.

Bước tiến của Trung Quốc

Trung Quốc đã khẳng định “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với các thực thể trên Biển Đông và các quyền lợi biển đối với các vùng nước trong khu vực “đường 9 đoạn”, vốn trải dọc theo bờ biển của các bên yêu sách khác và bao trùm gần hết toàn bộ Biển Đông. Mặc dù trước đây Trung Quốc không đủ sức mạnh quân sự để thực thi các yêu sách này, nhưng điều này đang thay đổi nhanh chóng. Hơn nữa, sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, tình hình kinh tế khó khăn của các nước phương Tây đã khiến Bắc Kinh tin rằng đây là thời cơ chín muồi cho Trung Quốc thể hiện sức mạnh của mình.

Kể từ đó, Trung Quốc đã tiến hành một loạt hành động để giành kiểm soát tại Biển Đông. Vào năm 2009, các tàu Trung Quốc đã quấy rối tàu tuần dương Impeccable của Mỹ khi tàu này đang thực hiện nhiệm vụ hàng ngày tại Biển Đông. Vào năm 2011, tàu tuần tra của Trung Quốc đã cắt cáp của một tàu Việt Nam đang thăm dò dầu khí. Vào năm 2012, lực lượng hải quân và tuần duyên Trung Quốc đã xâm chiếm và phong tỏa bãi cạn Scarborough, một rạn san hô đang tranh chấp có vị trí tại vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Vào năm 2013, Trung Quốc đã cử một tàu tuần tra có vũ trang vào vùng biển của Indonesia để yêu cầu thả một thuỷ thủ Trung Quốc bị chính quyền Indonesia bắt giữ do đánh bắt cá bất hợp pháp tại vùng nước xung quanh quần đảo Natuna của Indonesia.

Sau đó, vào đầu năm 2014, các nỗ lực của Trung Quốc để khẳng định quyền hành trên Biển Đông đã gia tăng nhanh chóng. Các tàu Trung Quốc đã bắt đầu các dự án nạo vét để cải tạo bảy rạn san hô mà Trung Quốc đã kiểm soát ở quần đảo Trường Sa, một quần đảo nằm ở nửa phía nam của Biển Đông. Trong khoảng thời gian 18 tháng, Trung Quốc đã cải tạo được gần 3.000 mẫu đất. (Trái lại, trong vài thập kỷ trước, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam đã cải tạo tổng cộng ít hơn 150 mẫu). Mặc dù có sự đảm bảo của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 9 năm 2015 rằng Trung Quốc "không có ý định quân sự hoá" Biển Đông, Trung Quốc đã nhanh chóng chuyển đổi các đảo nhân tạo của mình thành các căn cứ quân sự tiên tiến, gồm đầy đủ các sân bay, đường băng, cảng, và hệ thống phòng không và chống tên lửa. Trong một khoảng thời gian ngắn, Trung Quốc đã đặt nền móng cho việc kiểm soát[4] Biển Đông.

Nếu Trung Quốc thành công trong nỗ lực này, Trung Quốc sẽ dễ dàng thành lập một vùng ảnh hưởng khổng lồ ở bờ biển phía Nam của mình, không cho các quốc gia khác trong khu vực quyền lựa chọn nào khác ngoài việc tuân theo ý chí của Trung Quốc. Điều này sẽ làm cản trở các mối liên minh và hợp tác của Mỹ, đe doạ việc Mỹ tiếp cận thị trường và các nguồn lực của khu vực, và hạn chế khả năng của Mỹ trong việc triển khai sức mạnh quân sự và ảnh hưởng chính trị ở châu Á.

Nước Mỹ không can dự

Mặc cho nhiều mối liên hệ tol ớn, Mỹ đã không thể ngăn chặn sự quả quyết của Trung Quốc ở Biển Đông. Về phần mình, Washington đã tin rằng khi Trung Quốc phát triển mạnh hơn và tham gia nhiều hơn với thế giới, Trung Quốc tự nhiên sẽ chấp nhận các quy tắc và chuẩn mực quốc tế. Trong hơn một thập kỷ, kim chỉ nam của chính sách của Mỹ là đưa Trung Quốc vào khuôn khổ vào thứ mà Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Robert Zoellick mô tả năm 2005 là “một bên liên quan có trách nhiệm”- sẽ tuân thủ hệ thống quốc tế hoặc, ít nhất, hợp tác với các cường quốc hiện thời để xem xét lại trật tự toàn cầu. Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ đã cho rằng họ có thể giải quyết tốt hơn những thách thức toàn cầu khi có Bắc Kinh cùng tham gia.

Mỹ bổ sung kế hoạch nhằm đưa Trung Quốc hội nhập vào hệ thống chủ đạo với nỗ lực giảm thiểu những đối đầu không đáng có. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nói về nhu cầu cần “tìm một câu trả lời mới cho câu hỏi điều gì sẽ xảy ra khi một cường quốc hiện thời và một cường quốc đang trỗi dậy đụng độ nhau.” Bà Clinton đang đề cập đến mối nguy hiểm của việc rơi vào “bẫy Thucydides,” xung đột giữa một cường quốc nguyên trạng và một cường quốc mới nổi. Như một sử gia người Athen đã viết, “sự trỗi dậy của Athens và nỗi lo sợ mà điều đó gây ra ở Sparta đã làm cho chiến tranh trở thành điều chắc chắn xảy ra.” Thận trọng trước một hệ quả tương tự, các nhà hoạch định chính sách Mỹ đã tìm kiếm các phương pháp để giảm thiểu căng thẳng và phòng tránh xung đột bất cứ khi nào có thể.

Cách tiếp cận này đã có những thành công nhất định. Hiệp định khí hậu Paris và Thoả thuận hạt nhân Iran đều là kết quả trực tiếp từ các nỗ lực song phương trong việc giải quyết cùng nhau các vấn đề toàn cầu. Trong khi đó, các quan chức Mỹ và Trung Quốc đã trao đổi thường xuyên, giảm thiểu những hiểu lầm và thậm chí tránh được các khủng hoảng nghiêm trọng mà có thể dẫn tới xung đột tức thì.

Áp dụng chiến thuật này vào Biển Đông, chính quyền Obama tạo ra áp lực ngoại giao[5] lên tất cả các bên yêu sách để giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Để ngăn việc Trung Quốc sử dụng vũ lực, Mỹ đã tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực trong khi làm sâu sắc hơn các quan hệ liên minh và hợp tác như một phần trong chiến lược “tái cân bằng” sang châu Á. Và mặc dù Bắc Kinh hiếm khi nhìn nhận điều đó theo cách này, Mỹ đã quan tâm đến việc không lựa chọn ngả về bên nào trong các tranh chấp chủ quyền, ví dụ, cử các tàu đến để thực thi quyền tự do hàng hải trong các vùng nước yêu sách bởi nhiều bên, không chỉ có Trung Quốc.

Mặc dù chiến lược này đã giúp Mỹ tránh được các khủng hoảng nghiêm trọng, nó đã không ngăn cản được sự mở rộng của Trung Quốc tại Biển Đông. Vào năm 2015, nhắc lại một quan điểm rằng các quan chức Mỹ đã truyền đạt hơn một thập kỷ, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã tuyên bố trong một cuộc họp báo chung[6] với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, “Mỹ hoan nghênh sự trỗi dậy hoà bình, ổn định, thịnh vượng và là một bên tham gia có trách nhiệm trong các vấn đề toàn cầu của Trung Quốc.” Tuy nhiên Washington đã không chỉ rõ rằng nước Mỹ sẽ làm gì nếu Bắc Kinh không đáp ứng được tiêu chuẩn đó - như thường xảy ra trong các năm gần đây. Mong muốn của Mỹ trong việc né tránh xung đột có nghĩa rằng gần như mọi lúc Trung Quốc hành động một cách cương quyết hay thách thức luật pháp quốc tế ở Biển Đông, Washington ngay lập tức hành động để giảm căng thẳng, qua đó để cho Trung Quốc giành thêm được lợi thế.

Đây sẽ là một chiến lược hợp lý nếu né tránh chiến tranh là thách thức duy nhất tạo ra bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhưng vấn đề không phải như vậy. Quân đội Mỹ và đồng minh tiếp tục ngăn cản Trung Quốc gây ra sự đối đầu quân sự nghiêm trọng với Mỹ, nhưng không thể kiểm soát việc Trung Quốc dần dần mở rộng ảnh hưởng. Thay vào đó, cách tiếp cận né tránh rủi ro của Mỹ đã cho phép Trung Quốc từng bước thiết lập kiểm soát đối với toàn bộ Biển Đông.

Các nhà hoạch định chính sách Mỹ cần nhận ra rằng hành động của Trung Quốc trên biển là dựa trên nhận thức của nước này về mức độ Mỹ sẽ phản ứng. Sự thiếu phản kháng của Mỹ đã khiến Bắc Kinh cho rằng Mỹ sẽ không để quan hệ với Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi vấn đề Biển Đông. Do đó, mối đe doạ lớn nhất đối với Mỹ ngày nay ở châu Á là bá quyền của Trung Quốc, chứ không phải chiến tranh giữa các siêu cường. Vai trò lãnh đạo trong khu vực của Mỹ sẽ dần mất đi chứ không sụp đổ ngay lập tức.

Cú nước rút cuối cùng

Tin tốt là mặc dù Trung Quốc đã tạo ra những bước tiến lớn tiến tới kiểm soát hoàn toàn Biển Đông, Trung Quốc vẫn chưa đạt được điều này. Để hoàn thành việc kiểm soát, Trung Quốc cần cải tạo thêm đảo, đặc biệt là tại bãi cạn Scarborough nằm ở phía đông Biển Đông, nơi Trung Quốc đang thiếu căn cứ hoạt động. Sau đó, Trung Quốc sẽ cần phát triển khả năng ngăn cản quân đội nước ngoài tiếp cận vùng nước và vùng trời phía trên Biển Đông, bằng việc triển khai một loạt các trang thiết bị quân sự tối tân tại các căn cứ - máy bay chiến đấu, tên lửa hành trình chống hạm, tên lửa phòng không tầm xa và hơn thế nữa.

Mỹ trước đây đã tìm cách ngăn chặn Trung Quốc thực hiện các bước kể trên. Trong những năm gần đây, Washington đã khuyến khích Bắc Kinh và các bên yêu sách khác thông qua chính sách “3 không”: không cải tạo đảo thêm nữa, không xây dựng thêm cơ sở hạ tầng mới, và không quân sự hoá các cơ sở hiện có. Nhưng Mỹ chưa bao giờ giải thích các hậu quả nếu không tuân theo các yêu cầu này. Trong một vài trường hợp, Mỹ, cùng với ASEAN, G-7, và EU đã chỉ trích các hành động của Trung Quốc. Nhưng Bắc Kinh luôn lờ đi chỉ trích, và các nước khác cũng không gây sức ép về vấn đề này lâu.

Cần xem xét phản ứng của Bắc Kinh đối với quyết định mang tính bước ngoặt đưa ra vào tháng 7 năm 2016 bởi Toà trọng tài quốc tế thành lập theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển. Tòa quyết định rằng hầu hết yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông là bất hợp pháp dưới góc độ luật pháp quốc tế. Mỹ và các quốc gia khác đã kêu gọi Trung Quốc tuân thủ phán quyết nhưng đã không thực hiện hành động nào để thực thi điều này. Do đó Trung Quốc đã đơn giản chỉ nhún vai cho qua và tiếp tục quân sự hoá các đảo và kiểm soát các vùng nước xung quanh. Mặc dù Mỹ đã tiếp tục thể hiện sức mạnh đáng kể trong khu vực thông qua diễn tập và kiểm soát quân sự, Mỹ chưa bao giờ thể hiện rõ cho Trung Quốc thấy những động thái đó có ý nghĩa gì. Các quan chức Mỹ thường coi đó là các động thái biểu dương sự cương quyết. Nhưng họ chưa bao giờ giải thích chính xác rằng Mỹ sẽ cương quyết làm gì. Với câu hỏi còn để ngỏ, chính quyền Trung Quốc không thấy cần thiết phải đảo ngược tiến trình.

Với lý do tương tự, ý tưởng của Tổng thống Mỹ Donald Trump trong việc khôi phục chiến lược “hoà bình thông qua sức mạnh” của Tổng thống Ronald Reagan bằng việc tăng cường sức mạnh quân sự của Mỹ sẽ không kéo được Trung Quốc trở lại. Vấn đề không phải Trung Quốc không e ngại sức mạnh quân sự của Mỹ. Trái lại, Trung Quốc còn lo sợ sẽ chịu tổn thất nặng nề nếu để xảy ra chiến tranh với Mỹ. Nhưng Trung Quốc cũng tin rằng Mỹ sẽ chỉ đặt ra những cái giá nhỏ cho những hành động sai trái dừng lại dưới mức hung hăng mà thôi. Bất kể bao nhiêu tàu chiến, máy bay chiến đấu, và vũ khí hạt nhân Mỹ triển khai, tính toán đó sẽ không thay đổi.

Dám hành động

Để điều chỉnh sự hăng hái của Trung Quốc, Mỹ cần đưa ra một cảnh báo rõ ràng: rằng nếu Trung Quốc tiếp tục xây dựng các đảo nhân tạo hay triển khai các khí tài quân sự mạnh, như tên lửa tầm xa hay máy bay chiến đấu, trên các đảo Trung Quốc đã xây dựng, Mỹ sẽ thay đổi hoàn toàn chính sách đối với Biển Đông. Từ bỏ lập trường trung lập, Washington sẽ ngừng kêu gọi kiềm chế và thay vào đó gia tăng nỗ lực trợ giúp các quốc gia trong khu vực phòng vệ chống lại sự cưỡng ép của Trung Quốc.

Trong trường hợp này, Mỹ sẽ làm việc với các quốc gia khác với các yêu sách trên biển để cải tạo đảo xung quanh lãnh thổ đang chiếm đóng bởi các nước này và củng cố vững chắc các căn cứ. Mỹ cũng sẽ triển khai tập trận chung và bán cho các nước này các loại vũ được các chuyên gia quân sự biết đến như  khả năng “chống can thiệp”, cung cấp cho các quốc gia này các công cụ có giá cả phải chăng để ngăn chặn sự cưỡng ép của quân đội Trung Quốc tại và xung quanh khu vực. Những vũ khí đó bao gồm máy bay do thám không người lái, mìn biển, tên lửa chống hạm trên đất liền, tàu tên lửa tấn công nhanh và các hệ thống phòng không di động.

Một chương trình như vậy sẽ làm cho các nỗ lực thống trị biển và vùng trời phía trên biển của Trung Quốc trở nên mạo hiểm hơn. Mỹ sẽ không nhắm tới việc tích luỹ đủ hoả lực tập thể để đánh thắng Quân đội Giải phóng Nhân dân, hay thậm chí kiểm soát các vùng biển lớn; thay vào đó, mục tiêu sẽ dành cho các đối tác trong khu vực có khả năng ngăn chặn Trung Quốc tiếp cận các tuyến đường biển quan trọng, các bờ biển lân cận và các nút thắt hàng hải.

Mỹ nên ngả sang các đồng minh và đối tác đã có mối quan hệ an ninh chặt chẽ ở Đông Nam Á để được giúp đỡ. Nhật Bản có thể đem lại những hợp tác có giá trị chặt chẽ với một vài quốc gia xung quanh Biển Đông, do Nhật Bản đã coi Trung Quốc là mối đe doạ, và gần đây đang phát triển hệ thống phòng thủ của riêng mình chống lại sự xâm phạm của Trung Quốc đối với các đảo ngoài khơi của nước này tại Biển Hoa Đông. Trong khi đó, Australia có mối quan hệ thân thiết với Indonesia và Malaysia hơn là Mỹ, cũng tương tự như Ấn Độ với Việt Nam - quan hệ mà sẽ cho phép Australia và Ấn Độ cung cấp sức mạnh quân sự đáng kể hơn cho các quốc gia này so với Washington.

Nếu Bắc Kinh từ chối thay đổi lộ trình, Washington cũng nên đàm phán các thoả thuận mới với các quốc gia trong khu vực để cho phép Mỹ và các lực lượng thân thiện khác ghé thăm hay trong một số trường hợp, thường trú tại các căn cứ trên Biển Đông. Mỹ nên xem xét tìm kiếm việc tiếp cận đảo Ba Bình (chiếm đóng bởi Đài Loan), đảo Thị Tứ (chiếm đóng bởi Philippines), và đảo Trường Sa (chiếm đóng bởi Việt Nam) - các thực thể thuộc quần đảo Trường Sa và là các đảo tự nhiên lớn thứ nhất, nhì, và tư tại Biển Đông, theo thứ tự. Ngoài việc giúp Mỹ và các đối tác tập luyện cùng nhau dễ dàng hơn, sở hữu các lực lượng trên các đảo này sẽ tạo ra các “dây chằng mới” ngăn cản Trung Quốc, gia tăng nguy cơ cho các hoạt động cưỡng chế quân sự của nước này.

Biện pháp răn đe mới này sẽ đem đến cho Bắc Kinh một lựa chọn không dễ chịu: một mặt, Trung Quốc có thể quân sự hoá thêm Biển Đông và phải đối đầu với các quốc gia có căn cứ và quân đội hiện đại, được hậu thuẫn bởi Mỹ, hoặc, mặt khác, dừng việc quân sự hoá các đảo, từ bỏ các kế hoạch cải tạo đảo, và bắt đầu làm việc nghiêm túc để tìm một giải pháp ngoại giao.

Duy trì hoà bình

Để chiến lược trên thành công, các quốc gia trong khu vực sẽ cần đầu tư quân đội mạnh hơn và hợp tác chặt chẽ hơn với Mỹ. May mắn là, điều đó đang xảy ra. Việt Nam đã mua một hạm đội tàu ngầm đắt đỏ của Nga để ngăn chặn Trung Quốc; Đài Loan gần đây tuyên bố kế hoạch xây dựng quân đội của riêng mình. Indonesia đã tăng cường các cuộc tập trận gần quần đảo Natuna giàu tài nguyên. Và mặc cho những phát ngôn thù địch của Tổng thống Rodrigo Duterte, Philippines đã không huỷ kế hoạch cho phép Mỹ đưa thêm tàu chiến và máy bay đến các cảng và phi trường của Philippines dọc theo rìa phía đông Biển Đông.

Nhưng những rào cản đáng kể vẫn tồn tại. Nhiều quốc gia trong khu vực lo sợ rằng Trung Quốc sẽ trả đũa bằng các hình phạt kinh tế nếu các quốc gia này liên kết với Mỹ. Sau quyết định rút khỏi Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) của Trump, các quốc gia Đông Nam Á càng tin rằng Trung Quốc sẽ đương nhiên thống trị trật tự kinh tế trong khu vực, thậm chí nhiều quốc gia đang lo ngại với viễn cảnh đó. Nhận thức đang gia tăng này sẽ làm cho các quốc gia trong khu vực lưỡng lự trong việc tham gia các hoạt động quân sự với Mỹ do lo sợ sự trả đũa của Trung Quốc. Cách duy nhất cho Washington ngăn chặn xu hướng nguy hiểm này là cung cấp một giải pháp khả thi thay thế cho việc lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc. Điều đó có thể là khôi phục lại một phiên bản TPP hoặc đề xuất một sáng kiến mới và đầy tham vọng về thương mại và đầu tư trong khu vực. Mỹ không thể đánh bại một thứ gì mà không có gì trong tay.

Washington cũng nên xây dựng hình ảnh tích cực hơn trong chính trị nội bộ các quốc gia với các yêu sách ở Biển Đông bằng việc phổ biến công khai thông tin về các hoạt động của Trung Quốc trên biển. Các nhà báo và chuyên gia quốc phòng hiện đang phải dựa vào hình ảnh lẻ tẻ và không đầy đủ từ các vệ tinh thương mại để biết được các hoạt động của Trung Quốc. Chính phủ Mỹ nên cải thiện điều này bằng việc bổ sung thêm các báo cáo thường xuyên và các hình ảnh về việc triển khai vũ khí của Trung Quốc, cũng như các tàu hải quân và tàu tuần tra của Trung Quốc và các tàu đánh cá do chính phủ Trung Quốc hậu thuẫn hoạt động bất hợp pháp tại các vùng đặc quyền kinh tế và lãnh hải của các nước khác.

Các nước trong khu vực cũng nhiều khả năng sẽ hợp tác với Washington nếu họ có thể tin tưởng vào Mỹ để duy trì luật pháp quốc tế. Để đạt được mục đích đó, hải quân Mỹ nên thường xuyên tiến hành tuần tra thực thi quyền tự do hàng hải trên Biển Đông, không phải thực hiện điều này chỉ khi Washington muốn ghi điểm về ngoại giao.

Một số nhà phê bình phản đối biện pháp răn đe mạnh mẽ hơn lập luận rằng điều đó chỉ khuyến khích Trung Quốc gia tăng gấp đôi việc quân sự hoá. Nhưng trong vài năm trở lại đây, Mỹ đã chứng tỏ rằng bằng thông báo về những hệ quả rõ ràng, Mỹ có thể thay đổi hành vi của Trung Quốc. Vào năm 2015, khi chính quyền Obama đe doạ đặt ra các trừng phạt[7] đáp trả lại việc đánh cắp bí mật thương mại của Mỹ do Trung Quốc hậu thuẫn, chính phủ Trung Quốc đã nhanh chóng hạn chế các hoạt động bất hợp pháp của mình. Và trong những tháng cuối của chính quyền Obama, Bắc Kinh cuối cùng đã bắt đầu cho đóng cửa các công ty làm ăn bất hợp pháp với Triều Tiên sau khi Washington nói rằng Mỹ sẽ áp dụng các biện pháp trừng phạt tài chính với các công ty Trung Quốc đang lẩn trốn các lệnh trừng phạt đối với Triều Tiên.

Hơn nữa, sự phản kháng mạnh mẽ hơn của Mỹ sẽ không, như một số người khẳng định, làm dấy lên tư tưởng diều hâu trong hàng ngũ lãnh đạo Trung Quốc. Trên thực tế, những người ở Bắc Kinh ủng hộ việc quân sự hoá hơn nữa Biển Đông làm điều đó trên cơ sở rằng Mỹ không quyết đoán, chứ không phải Trung Quốc hiếu chiến. Cơ hội thực sự duy nhất cho giải pháp hoà bình xử lý các tranh chấp nằm ở việc ngăn chặn động lực của Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ không thoả hiệp khi thấy mình đang đẩy một cánh cửa mở.

Và trong trường hợp Trung Quốc không từ bỏ đường lối xét lại, Mỹ vẫn có thể chấp nhận một Biển Đông bị quân sự hoá hơn, miễn là cân bằng quyền lực không ngả quá về phía Trung Quốc. Đó là lý do tại sao Trung Quốc sẽ nhận thấy một mối đe doạ rõ ràng của việc Mỹ sẽ thúc đẩy hỗ trợ quân sự cho các quốc gia yêu sách khác trên Biển Đông. Đảm bảo rằng các quốc gia trong khu vực có thể đóng góp cho việc ngăn chặn sự hung hăng của Trung Quốc sẽ đem lại sự ổn định hơn là chỉ dựa vào thiện chí của Trung Quốc hay quân đội Mỹ để duy trì hoà bình. Phải thừa nhận là, với rất nhiều lực lượng vũ trang triển khai trong một môi trường căng thẳng, các quốc gia cần phát triển các cơ chế mới để quản lý khủng hoảng và phòng ngừa leo thang không lường trước. Nhưng trong những năm gần đây, ASEAN đã tạo ra bước tiến đáng kể trên mặt trận này bằng việc đưa ra các biện pháp mới để xây dựng lòng tin giữa quân đội các nước trong khu vực, các nỗ lực mà Mỹ nên ủng hộ.

Cuối cùng, một số nhà phê bình đối với một chiến lược mạnh mẽ hơn của Mỹ tuyên bố rằng Biển Đông là không đáng để rắc rối, vì phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc có thể không nguy hiểm. Nhưng với việc sẵn sàng sử dụng sức kinh tế và quân sự của Bắc Kinh đối với các mục đích chính trị, sự đánh cược này ngày càng trở nên mạo hiểm hơn. Và ngay cả khi sự kiểm soát của Trung Quốc bắt đầu một cách hòa bình, sẽ không có gì bảo đảm rằng Trung Quốc sẽ giữ nguyên tình trạng hoà bình đó. Cách tốt nhất để ngăn xung đột trên biển là để Mỹ làm những gì vốn đã mang lại thành công cho đất nước này trong hơn một thế kỷ qua: ngăn chặn bất kỳ cường quốc nào khác chỉ huy mình.

Ely Ratner là nghiên cứu viên cao cấp của Hội đồng Chính sách Đối ngoại Theo dõi Ely Ratner trên Twitter @elyratner. Bài viết được đăng trên Foreign Affairs.

Biên dịch: Hoàng Minh

Hiệu đính: Thanh Hải

Bài dịch thuộc bản quyền Nghiên cứu Biển Đông. Đề nghị chỉ được dẫn đường link, không đăng lại khi chưa có sự đồng ý của Ban Biên tập.

[1] https://www.foreignaffairs.com/search?qs=South+China+Sea

[2] https://www.foreignaffairs.com/articles/2016-06-13/truth-about-trade

[3] https://www.foreignaffairs.com/articles/china/2014-07-13/pandoras-sandbox

[4] https://www.foreignaffairs.com/articles/china/2016-03-21/chinas-short-term-victory-south-china-sea

[5] https://www.foreignaffairs.com/articles/2015-11-25/make-no-mistake

[6] https://obamawhitehouse.archives.gov/the-press-office/2015/09/25/remarks-president-obama-and- president-xi-peoples-republic-china-joint

[7] https://www.nytimes.com/2015/09/17/us/politics/obama-hints-at-sanctions-against-china-over- cyberattacks.html?mcubz=2&_r=0