Trái với kỳ vọng hạ nhiệt căng thẳng các tranh chấp chủ quyền ở Tây Thái Bình Dương, chuyến công du mới nhất của Tổng thống Obama tới Châu Á dường như mở ra kỷ nguyên mới mà Trung Quốc ngày càng quyết đoán hơn ở các vùng biển. Việc Mỹ không đưa ra một cam kết rõ ràng sẽ ứng cứu các đồng minh như Philippines nếu chiến tranh nổ ra đã tạo cơ hội cho Trung Quốc thúc đẩy chiến lược “tạo sự đã rồi” của mình.

Trong những tháng gần đây, Trung Quốc đã triển khai một số giàn khoan dầu khí đến các khu vực trên Biển Đông và mục tiêu chính là nhằm vào Việt Nam. Đồng thời, nước này cũng tăng cường các hoạt động cải tạo đất ở các thực thể thuộc Quần đảo Trường Sa và ở đây Philippines là nạn nhân chủ yếu. Trung Quốc sẵn sàng phô trương sức mạnh công nghệ bằng việc xây dựng các đảo nhân tạo và triển khai giàn khoan hiện đại ở những vùng biển này.

Bằng cách cải tạo các thực thể nguyên sơ tự nhiên (như các bãi đã ngầm) thành các đảo/quần đảo đủ khả năng duy trì cuộc sống của con người đồng thời thể hiện hành động thực thi chủ quyền hiệu quả, Trung Quốc muốn chứng minh (một cách gián tiếp) học thuyết “đường chín đoạn” bằng việc xác lập Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) 200 hải lý tính từ các thực thể lớn nhất mà Trung Quốc đang kiểm soát. Bằng cách thức này, Trung Quốc có thể lập luận (về mặt lý thuyết) rằng, căn cứ trên luật pháp quốc tế đương đại, Trung Quốc vẫn có yêu sách hợp pháp đối với toàn bộ Biển Đông.

Ngoài ra, các hoạt động xây dựng còn cho phép Trung Quốc triển khai sức mạnh quân sự một cách hiệu quả trên vùng biển này. Kế hoạch thiết lập các cơ sở đồn trú và đường băng trên các thực thể mà Trung Quốc đang gia cố, giúp mang lại nền tảng chắc chắn để thiết lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ) – vốn đòi hỏi một mạng lưới các căn cứ liền kề (cũng như các tàu sân bay) để duy trì hoạt động trên không liên tục tại Biển Đông.

Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng quyết đoán hơn trong việc bộc lộ tham vọng ở Biển Đông. Cuối tháng 6 vừa qua, Bắc Kinh đã chính thức công khai bản đồ mới. Đây là tiền lệ chưa từng có bởi nó phản ánh cách diễn giải mang tính tối đa hóa yêu sách lịch sử của nước này đối với các vùng nước liền kề. Bỏ qua hình thức của thuật vẽ bản đồ, tấm bản đồ này rõ ràng nhấn mạnh sự cân bằng giữa các yêu sách lãnh thổ trên lục địa và trên biển của Trung Quốc. Không giống như các bản đồ trước đó thường phản ánh sự mập mờ về lãnh thổ một cách chủ ý, tấm bản đồ mới đã mô tả các thực thể đang có tranh chấp ở Biển Đông như một phần lãnh thổ không tách rời của Trung Quốc.

Hành động quyết đoán mới của Trung Quốc

Rõ ràng Trung Quốc đang cố gắng tạo lợi thế kiểm soát trên thực tế - thay vì được thừa nhận hợp pháp – đối với các vùng biển lân cận. Trung Quốc cũng tiến hành nhiều biện pháp dồn ép các quốc gia như Việt Nam và Philippines. Không có bất ngờ khi ngay cả Singapore – quốc gia vốn duy trì thái độ trung lập nay cũng bắt đầu lên tiếng phản đối Trung Quốc. Thủ tướng Lý Hiển Long đã công khai chỉ trích quan điểm “lẽ phải thuộc về kẻ mạnh” đang xuất hiện ở Biển Đông và kêu gọi các bên giải quyết tranh chấp theo luật pháp quốc tế.

Mặc dù, cuối năm 2013, Trung Quốc và ASEAN đã ký thỏa thuận tiến hành các đàm phán cụ thể về những hướng dẫn của Bộ qui tắc Ứng xử đề xuất ở Biển Đông (COC), nhưng năm 2014, hai bên gần như không đạt được tiến bộ nào trong các cuộc trao đổi về COC, đây cơ bản là tuyên bố mang tính giải thích, không có tính ràng buộc.

Bước thụt lùi trong việc đàm phán COC cho thấy tính thiếu hiệu quả của các cơ chế đa phương hiện nay của khu vực. Do Trung Quốc có ảnh hưởng chi phối đối với một số thành viên của ASEAN, đặc biệt là Lào và Campuchia, nên các cuộc thảo luận về một cơ chế hàng hải hiệu quả của khu vực khó đạt kết quả trong tương lai gần. Cho đến nay, các thành viên sáng lập ASEAN như Indonesia – với vai trò lãnh đạo không chính thức của Đông Nam Á - đã sử dụng ảnh hưởng của mình để ngăn chặn các thành viên thân Trung Quốc không phương hại đến nỗ lực “xã hội hóa” Trung Quốc vào những nguyên tắc căn bản của khu vực như giải quyết tranh chấp lãnh thổ hòa bình, dựa trên luật pháp.

Điều này đòi hỏi các thành viên chủ chốt của ASEAN như Singapre, Indonesia và Malaysia cùng chung tay tạo nên một phản ứng đa phương đủ mạnh đối với các tranh chấp đang diễn ra. Thay vì đưa ra “một bản vẽ đơn thuần” dựa trên các yêu sách lịch sử mập mờ, theo đánh giá của một số các quan chức khu vực, bản đồ mới của Trung Quốc phát đi tín hiệu về lập trường cứng rắn hơn của Bắc Kinh. Bản đồ mới tiếp nối hành động Trung Quốc phát hành hộ chiếu cuối năm 2012 trong đó in bản đồ Trung Quốc bao trọn gần như toàn bộ Biển Đông, các khu vực trên bộ đang có tranh chấp với Ấn Độ như Arunachal Pradesh và Aksai Chin, và cả một vài điểm du lịch ở Đài Loan.

Người ta có thể lập luận rằng bản đồ mới của Trung Quốc là dấu hiệu cho thấy nước này đang coi các yêu sách lãnh thổ trong khu vực là “lợi ích cốt lõi” – như vậy trên thực tế, ít có khả năng Trung Quốc sẽ thỏa hiệp, ít nhất là trong tương lai gần. Ngoài việc tái khẳng định tham vọng lãnh thổ đối với, tấm bản đồ tượng trưng cho chiến dịch của Đảng Cộng Sản Trung Quốc nhằm tập hợp người dân nước này dưới ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc. Rõ ràng đây là toan tính chính trị mang tính nội bộ của Trung Quốc. Theo tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, mục đích của tấm bản đồ là để “khuyến khích người dân có nhận thức tốt hơn về việc duy trì các quyền trên biển và sự toàn vẹn lãnh thổ”. Và tác động ngoại giao ở đây là khá rõ : Vấn đề tranh chấp lãnh thổ càng đi sâu vào đời sống của người dân Trung Quốc bao nhiêu - các yêu sách lịch sử in sâu vào tâm thức của người dân như những sự thật bất biến - thì giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ càng khó khăn hơn trong việc công khai thỏa hiệp về các tranh chấp lãnh thổ.

Chậm mà chắc, Trung Quốc đang triển khai chính sách lãnh thổ chủ động hơn, theo đó thiên về hăm dọa hơn là hòa giải. Tuy nhiên, việc Bắc Kinh liên tục phủ nhận sử dụng lực lượng quân sự thông thường để thúc đẩy các yêu sách lãnh thổ đã nhấn mạnh ưu tiên của nước này trong việc“quản lý căng thẳng”. Nói tóm lại, Trung Quốc có thể đã nâng cấp “chính sách ngoại giao cây gậy nhỏ” của mình, nhưng nước này sẽ không hoàn toàn tháo bỏ chiếc găng tay quân sự của mình. 

Đối với Trung Quốc ở giai đoạn hiện nay, cách tốt nhất để giành chiến thắng trong các tranh chấp lãnh thổ là dựa vào một hạm đội bán quân sự được tranh bị tốt và tổ chức hợp lý dưới vỏ bọc dân sự. Và Trung Quốc sẽ không ngần ngại sử dụng các hình thức trừng phát kinh tế khác nhau nhằm tăng thêm cái giá phải trả cho những hành động thách thức nước này.

Vai trò mới của Nhật Bản trong khu vực

Với Hà Nội, trong nhiều năm qua luôn thận trọng tìm kiếm giải pháp mang tính hài hoà và cố gắng tránh đối đầu trực tiếp với nước láng giềng phương bắc, thì hành động Bắc Kinh triển khai giàn khoan Hải dương 981 vào sâu vùng EEZ của Việt Nam đã thực sự gây sốc. Nhưng Hà Nội còn bất ngờ hơn nữa khi Bắc Kinh tiếp tục triển khai thêm nhiều giàn khoan cùng thời điểm ông Dương Khiết Trì, cựu bộ trưởng ngoại giao nước này và một trong những nhân vật chính trị có nhiều ảnh hưởng, có chuyến công du Việt Nam được cho là để xoa dịu căng thẳng giữa hai bên. Tuy nhiên, thay vì có hành động hạ nhiệt, ông Dương đã đi quá khi chỉ trích Việt Nam "thổi phồng" các tranh chấp ở Biển Đông.

Trong bối cảnh hai bên tiếp tục thế đối đầu trên thực địa, nguyên nhân làm bùng phát làn sóng biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam, CCP đã cấm các công ty Trung Quốc tham gia vào những dự án mới tại Việt Nam. Với vai trò là đối tác thương mại và nhà đầu tư hàng đầu của Việt Nam, những biện pháp như vậy có thể gây hậu quả nặng nề hơn nhiều so với việc Bắc Kinh áp đặt lệnh lệnh trừng phạt chủ yếu mang tính tượng trưng đối với Philippines vào năm 2012.

Việc Trung Quốc đẩy nhanh chiến lược “tạo sự đã rồi” ở Biển Đông khiến Philippines hết sức lo ngại. Hành động kiện Bắc Kinh ra tòa của Manila đã không ngăn cản Trung Quốc tiến hành thêm các hành động khiêu khích. Trước thực tế đó, Ngoại trưởng Philippines Albert Del Rosario đã đề nghị Tòa Trọng tài ở The Hague đẩy nhanh quá trình xét xử. Philippines cho rằng các thực thể ở Biển Đông không thể tạo ra vùng lãnh hải vượt quá 12 hải lý, và được khích lệ bởi các vụ kiện gần đây, nước này đã đặt câu hỏi về cách diễn giải mang tính tối đa của Trung Quốc đối với luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, quá trình phân xử có thể sẽ mất nhiều năm – cùng một thực tế Trung Quốc đã công khai bác bỏ toàn bộ quy trình này.

Nhận thấy những giới hạn trong cam kết của Mỹ đối với khu vực, trong lúc Mỹ phải căng mình giải quyết các xung đột toàn cầu và chính quyền Obama cũng đang thận trọng cải thiện quan hệ quân sự với Trung Quốc, Việt Nam và Philippines đã quay sang phía Nhật Bản, nước này gần đây đã cam kết sẽ hỗ trợ về quân sự và kinh tế nhiều hơn cho các đối tác Đông Nam Á. Việt Nam và Philippines đang hướng tới việc thay đổi các hình thức thỏa thuận quân sự cho phép Nhật Bản duy trì sự hiện diện chiến lược nhiều hơn ở Biển Đông, mặc dù còn đôi chút lo ngại về quan điểm "xét lại" của chính quyền Abe đối với tội ác lịch sử của nước này trong thế chiến thứ hai.

Từ khi trở lại nắm quyền lực vào cuối năm 2012, Thủ tướng Shinzo Abe đã nhanh chóng xác lập vị thế của Nhật Bản như một đối trọng với Trung Quốc. Khai thác những lo ngại của các nước ASEAN về một Trung Quốc trỗi dậy, chính quyền Abe đã cố gắng thể hiện hình ảnh Nhật Bản giống như một "lực lượng của chính nghĩa". Cuối năm 2013, Nhật Bản đã đề xuất gói hỗ trợ kinh tế cho các quốc gia Đông Nam Á trị giá 20 tỷ USD. Trong khi đó, Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (Self-Defense Forces - JSDF) luôn giữ vai trò đi đầu trong các hoạt động cứu trợ nhân đạo trên quy mô lớn sau cơn bão Hải Yến ở Philippines. Với sự thể hiện đầy ấn tượng về phương diện ngoại giao, Đại sứ Nhật Bản tại Philippines ông Toshinao Urabe đã xin lỗi việc Đế quốc Nhật Bản từng xâm lược Philippines trong thế chiến thứ 2.

Nhận thấy sự phản đối đang lan rộng trong nước về kế hoạch sửa đổi hiến pháp hòa bình do mình thúc đẩy, ông Abe đã khôn khéo thúc đẩy “việc giải thích lại” các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến nghĩa vụ an ninh của Nhật Bản đối với các vùng lãnh thổ gần kề nước này. Với học thuyết "tự vệ tập thể", ông Abe hy vọng mở đường cho việc thay đổi vai trò an ninh của Nhật Bản trong khu vực, cho phép lực lượng trên biển của Nhật Bản (a) đóng vai trò trực tiếp trong hoạt động "duy trì an ninh" Các tuyến Thông thương trên Biển (Sealines of Communication -SLOC) như Biển Đông; (b) hỗ trợ các đối tác an ninh trong trường hợp xảy ra khủng hoảng.

Tuy nhiên, để thúc đẩy vai trò lớn hơn của Nhật Bản trong khu vực, chính quyền Abe cần phải hồi sinh nền kinh tế khá ảm đạm của nước này. Theo học thuyết "Abenomics", Tokyo đã kết hợp các biện pháp như kích thích tài chính và nới lỏng tiền tệ để phục hồi nền kinh tế. Tiếp đó là sự cải tổ cơ cấu, đặc biệt trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, tạo cơ hội kết thúc sự trì trệ kinh tế kéo dài hàng thập kỷ qua ở Nhật Bản. Quan trọng hơn, ông Abe cũng nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ các nước như Philippines, nước đã hoan nghênh kế hoạch về chính sách quốc phòng chủ động hơn của Nhật Bản

Tóm lại, một điều đang trở nên hết sức rõ ràng: Trong lúc Trung Quốc tìm cách tối đa hóa mâu thuẫn chiến lược của Mỹ để thúc đẩy các yêu sách chủ quyền ở Biển Đông thì nước này có nguy cơ tạo cơ hội cho đối thủ lịch sử của mình, Nhật Bản – dần tiến tới ngôi vị lãnh đạo mới của khu vực.

Richard Javad Heydarian là giảng viên các vấn đề quốc tế và khoa học chính trị tại Đại học Ateneo De Manila, và cố vấn chính sách cho Hạ viện Philippines. Bài viết đăng trên trang “National interest” (ngày 28/6).

Nhật Linh (dịch)