I- Tranh giành Biển Đông, nước nhỏ chủ đạo nước lớn? 

Tranh chấp Biển Đông khởi nguồn đã lâu nhưng chưa bao giờ gay gắt như hiện nay. Lịch sử chính trị quốc tế thông thường là lịch sử chính trị nước lớn, nhưng hoàn toàn không phải “nước nhỏ” lúc nào cũng đều im tiếng. Người Trung Quốc phát hiện ra rằng khi Trung Quốc trỗi dậy, áp lực quốc tế đột ngột tăng lên, không chỉ có nước lớn đề phòng hơn, mà những phiền phức từ các nước nhỏ xung quanh cũng ngày càng nhiều thêm, hơn nữa áp lực từ hai phương diện nói trên cũng gặp nhau, trong đó điểm gây áp lực ban đầu chính là Biển Đông. Vấn đề đặc biệt rõ ràng là hoàn toàn không chỉ có nước chủ đạo thế giới hiện nay là Mỹ mới tiến hành kiềm chế Trung Quốc, mà các nước nhỏ xung quanh cũng lo sợ trước thực lực Trung Quốc lớn mạnh nên cũng đề phòng, cảnh giác với Trung Quốc. Trong vấn đề Biển Đông, những người “nổ phát súng đầu tiên” chính là Việt Nam và Philíppin. Việt Nam  năm 2010 với vai trò là Chủ tịch luân phiên ASEAN, đã lôi kéo thành công nước Mỹ vào cuộc. Phó viện trưởng Viện nghiên cứu quan hệ quốc tế và sự vụ công cộng thuộc Đại học Phúc Đán, Giáo sư Ngô Tâm Bá cho biết hành vi của các nước này đã phản ánh một cách tập trung tâm trạng lo lắng và bất an của họ khi sức mạnh của Trung Quốc tăng lên, nhất là lo sợ việc Trung Quốc phát triển hải quân và phương hướng phát triển hải quân của Trung Quốc. Ngày 9/6/2011, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố Việt Nam có “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với “quần đảo Hoàng Sa” và “quần đảo Trường Sa”, “chúng ta sẽ tiếp tục kiên trì tuyên bố và cho thấy quyết tâm mạnh mẽ nhất của toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta bảo vệ vùng biển và các đảo của quốc gia”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga cũng tuyên bố: “Hải quân Việt Nam sẽ áp dụng mọi biện pháp cần thiết, kiên quyết bảo vệ hòa bình, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam . Ngày hôm sau, Việt Nam lớn tiếng tuyên bố sẽ tổ chức diễn tập bắn đạn thật trong 6 tiếng đồng hồ ở Biển Đông, đồng thời cảnh báo cho tàu thuyền các nước tránh xa vùng biển này. Hãng tin AP của Mỹ bình luận, việc làm nói trên của Việt Nam rõ ràng là nhằm “đáp lại” Trung Quốc. Trong ngày diễn tập bắn đạn thật thứ hai, ông Nguyễn Tấn Dũng ký sắc lệnh về việc tuyển quân. Có báo chí cho rằng đây là lần đầu tiên sau 32 năm xảy ra cuộc chiến phản kích tự vệ của Trung Quốc đối với Việt Nam  Chính phủ Việt Nam ban bố lệnh tuyển quân. Tuy nhiên, Việt Nam hoàn toàn không dừng lại ở đó. Từ cuối tháng 7 cho đến giữa tháng 8, trong vòng chưa đầy một tháng, Việt Nam đã cùng với Mỹ tổ chức hai lần diễn tập quân sự chung. Mặc dù Việt Nam tuyên bố việc làm đó hoàn toàn không nhắm vào Trung Quốc nhưng chỉ cần nhìn qua sẽ thấy trong chiếc hồ lô của Việt Nam cuối cùng sẽ có thứ thuốc gì để bán. 

Cũng trong tháng 6, một vai chính nữa có tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc là Philíppin tuyên bố “các tàu của Trung Quốc ngày càng gia tăng hoạt động ở Biển Đông..., đã gây nguy hại cho ổn định khu vực, xâm phạm chủ quyền và quyền quản lý biển của Philíppin, vi phạm “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông”. Hai tháng trước đó, Philíppin đã trình Liên hợp quốc “thư phản đối đường 9 đoạn” về biên giới Biển Đông của Trung Quốc. Trong tháng 5 Philíppin lại lớn tiếng nói rằng “người Trung Quốc xâm phạm Trường Sa”. Ngày 13/6, cùng ngày với Việt Nam diễn tập bắn đạn thật, Bộ trưởng Quốc phòng Philíppin tuyên bố diễn tập quân sự của Việt Nam là phù hợp với “quyền lợi chủ quyền của Việt Nam”, trong khi người phát ngôn của Tổng thống Philíppin cho biết Philíppin đã đổi tên gọi Biển Đông là “biển Tây Philíppin”. Tiếp theo đó, vào cuối tháng 6, Philíppin cũng diễn tập quân sự chung với Mỹ. Vào đầu tháng 7, Ngoại trưởng Philíppin đi thăm Trung Quốc, đề nghị Trung Quốc đưa vấn đề tranh chấp Biển Đônggiữa hai nước lên Tòa án luật biển quốc tế để giải quyết. Trong nửa năm sau đó, những va chạm giữa Philíppin và Trung Quốc trong vấn đề Biển Đôngdường như không hề dừng lại. Ngày 18/10, ở khu vực gần bãi Lễ Nhạc, một tàu được trang bị pháo của Philíppin đã đâm vào một tàu cá cỡ lớn kéo theo 25 chiếc xuồng nhỏ của Trung Quốc đang trong hành trình. Sự kiện nói trên lập tức lan ra thành đề tài nóng được báo chí quốc tế quan tâm. Mặc dù phía quân đội và ngoại giao Philíppin đều cho biết đây là sự kiện “va chạm nhỏ ngẫu nhiên”, Philíppin đã thông báo và tỏ ý xin lỗi Trung Quốc nhưng đồng thời Philíppin vẫn tiếp tục diễn tập quân sự chung. 

Nhìn bề ngoài, dù là diễn tập quân sự của Việt Nam hay của Philíppin, dường như không có gì khác so với các lần diễn tập quân sự chung với Mỹ trước đây, nhưng về thực chất, những cuộc diễn tập này lại có sự khác biệt lớn nhất ở chỗ các cuộc diễn tập này không phải do Mỹ chủ đạo, mà do các nước này chủ động tổ chức và mời gọi Mỹ, hay nói cách khác, Mỹ đã từ vai trò của bên chủ đạo trước đây trở thành bên tham gia. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nói: Nước Mỹ lần đầu tiên từ chỗ là bên khởi xướng trở thành bên tham gia trong vấn đề Biển Đông, hoàn toàn không phải Mỹ yêu cầu các nước đó kiềm chế Trung Quốc, mà tự họ ban đầu đã có phần kiềm chế nhắm vào Trung Quốc. Rõ ràng, sự chuyển biến của hiện tượng nói trên là do thực lực Trung Quốc tăng lên nhanh chóng. Như vậy, một số vấn đề âm ỉ từ lâu nay đã dễ dàng bộc lộ ra, vì các nước xung quanh ngày càng lo sợ người khổng lồ bên cạnh, cuối cùng, trong hệ thống triều cống ở Đông Á do Trung Quốc chủ đạo từ hàng trăm, hàng nghìn năm nay và các nước xung quanh chỉ biết cúi đầu xưng thần. Giữa quốc gia với quốc gia lại luôn vì không hiểu rõ ý đồ của nhau mà nảy sinh mâu thuẫn, đồng thời khả năng quân sự mà nước lớn có được lại trở thành công cụ để nước lớn đó lợi dụng nhằm bành trướng sức mạnh của mình bất cứ lúc nào, vì thế việc các nước nhỏ phải liên kết lại kiềm chế nước lớn đã trở thành cách lựa chọn của nhiều nước trong lịch sử. Chính các nước như Việt Nam và Philíppin ngày nay đang áp dụng kiểu lý luận như vậy trong việc giải thích thực tiễn, vẫn phỏng theo thông lệ lịch sử chứ không nhìn vào tình hình thực tế đã thay đổi. Tại phiên họp lần thứ nhất quốc hội khóa 13 của Việt Nam khai mạc ngày 21/7, Phó Thủ tướng thường trực Việt Nam Nguyễn Sinh Hùng phát biểu Chính phủ Việt Nam sẽ “áp dụng biện pháp bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ các hoạt động của ngư dân, các hoạt động kinh tế, thương mại cũng như hoạt động khai thác và sử dụng dầu khí trong vùng biển thuộc chủ quyền của mình”.

Trong khi đó các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam cũng đồng thời diễn ra nóng bỏng liên tục. Báo chí phương Tây đã nói: Tại Việt Nam nếu không được nhà nước cho phép, những cuộc biểu tình như vậy về cơ bản là điều không thể tưởng tượng được. Thái độ của chính phủ và biểu tình của dân chúng cũng đủ nói lên rằng trước sự lớn mạnh của Trung Quốc, Việt Nam đã cảm thấy áp lực, đặc biệt lại càng cần có được cảm giác an toàn hơn so với trước đây khi Trung Quốc còn chưa có được thực lực như hiện nay. Vì thế, Việt Nam cần có “bạn” để tăng thêm cảm giác an toàn. Vậy là Việt Nam không chỉ diễn tập quân sự chung với Mỹ mà đồng thời còn mời cả Hải quân Ấn Độ - tàu đổ bộ xe tăng “INS Airavat” của Ấn Độ hồi cuối tháng 7 đã cập cảng Nha Trang thực hiện chuyến thăm Việt Nam. Ngày 12/10 tại Niu Đêli, Thủ tướng Ấn Độ M. Singh đã hội đàm với Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đang ở thăm Ấn Độ, hai bên đã ký hiệp định về khai thác dầu thô ở Biển Đông. Có dư luận nói rằng Việt Nam thông qua nguồn dầu khí ở 29 đảo bãi đã chiếm được ở Biển Đông nên đã thu được lợi nhuận hơn 20 tỉ USD. Rõ ràng Việt Nam sẽ không khoanh tay nhượng bộ về nguồn lợi nhuận này mà càng tiến thêm một bước nói rằng những lợi ích này cũng lại trở thành một lý do nữa để họ phải kiềm chế Trung Quốc. Việt Nam thậm chí không hề e dè, tránh né khó khăn về mặt thời gian và lịch trình như đã sắp đặt sẵn để thực hiện: Chủ tịch nước Việt Nam đi thăm Ấn Độ đồng thời với Tổng bí thư Việt Nam đi thăm Trung Quốc, ký thỏa thuận giải quyết tranh chấp lãnh thổ trên biển Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc vào ngày 11/10. Việt Nam hợp tác với Ấn Độ, trong khi Philíppin cấu kết với Nhật Bản.

Ngày 9/9, chính phủ hai nước Nhật Bản và Philíppin lần đầu tiên đã tổ chức thảo luận, bàn bạc cấp vụ phó về vấn đề an ninh biển ở khu vực châu Á, trong đó một chủ đề quan trọng là đối phó thế nào với chủ trương của Trung Quốc về chủ quyền ở Đông Hải (Biển Hoa Đông) và Biển Đông. Hai nước quyết định sẽ tổ chức thảo luận định kỳ, phối hợp hành động, thúc đẩy hợp tác và đảm bảo tự do và an ninh hàng hải cho tàu thuyền của Nhật Bản ở Đông Hải và Biển Đông. Nhật Bản còn đồng ý chi tiền huấn luyện cho lực lượng cảnh sát bảo vệ bờ biển của Philíppin. Ngày 26/9, Tổng thống Philíppin Aquino 3 đi thăm Nhật Bản, hai bên đã thảo luận vấn đề tự do và an ninh hàng hải ở Biển Đông. Rõ ràng là do có bất đồng với Trung Quốc trong vấn đề Đông Hải nên Nhật Bản đã ủng hộ Philíppin trong vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, đối với Nhật Bản, dù không có vấn đề về lãnh thổ nhưng đã đề cập đến vấn đề biên giới lợi ích quan trọng của họ. Một quốc gia lớn mạnh lại giàu có, biên giới lợi ích mà họ cần bảo vệ lại càng rộng. Bản thân diện tích lãnh thổ của Nhật Bản quá nhỏ, cần nhiều tài nguyên cũng đòi hỏi phải nhập từ bên ngoài nên an toàn vận chuyển tài nguyên đã trở thành việc cần quan tâm nhất đối với Nhật Bản. Vì thế có thể nói Eo biển Malắcca và tuyến đường vận tải biển ở Biển Đông là liên quan đến lợi ích của Nhật Bản. Đồng thời Nhật Bản luôn có ý thức đấu tranh tế nhị với thực lực và ý đồ của Trung Quốc sau khi trỗi dậy. Xét từ góc độ này thì Nhật Bản sẽ không hề do dự can thiệp tình hình tranh chấp Biển Đông, và đã ủng hộ các nước có tranh chấp với Trung Quốc như Philíppin và Việt Nam . 

II- Vì sao họ đều có tính hai mặt? 

Tranh chấp ở Biển Đông cũng đã chứng kiến rất nhiều hành vi tự mâu thuẫn nhau ở các nước đương sự. Ví dụ, Việt Nam tuy lời nói và việc làm không dè dặt nhưng cũng còn nhiều mặt khác: Ngày 27/6, Việt Nam cho biết sẵn sàng giải quyết hòa bình tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông. Ngày 3/8, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết hai nước Trung-Việt sẽ thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị giải quyết hòa bình tranh chấp trên biển giữa hai nước. Ngày 11/10, hai nước đã ký Thỏa thuận về hiệp thương giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Những biểu hiện như trên được xem như hành vi mâu thuẫn trong chủ trương chính của họ, điều không hiếm gặp với chỉ riêng nước nào. Mặc dù Trung Quốc và Việt Nam ký kết Thỏa hiệp giải quyết hòa bình vấn đề Biển Đông, nhưng Tổng thống Philíppin Aquino liền kháng nghị, cho biết tranh chấp lãnh thổ ở khu vực này liên quan đến nhiều nước, cần thông qua hiệp thương đa phương để giải quyết trong khuôn khổ ASEAN, Thỏa thuận song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam không “giải quyết toàn diện vấn đề tranh chấp”. Tuy nhiên, trong chuyến thăm Trung Quốc hồi cuối tháng 8 chính ông này cũng hoàn toàn nhận lời, cam kết vấn đề Biển Đông liên quan giữa Trung Quốc và Philíppin cần thông qua hiệp thương để giải quyết chứ không thể dùng vũ lực. Tuy vậy trong chuyến thăm Trung Quốc lần này, Aquino 3 còn đem về nhiều hợp đồng thương mại lớn, hy vọng thông qua mở rộng quan hệ kinh tế thương mại để làm gia tăng lợi ích thực tế. Rõ ràng, giữa Việt Nam và Philíppin không chỉ đặt trọng tâm vào việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đôngđể tìm kiếm sự bảo hộ lợi ích của mình, mà hai nước này cũng không muốn chọc giận Trung Quốc đến cùng. Năm 1987, Tổng thống Philíppin bà Aquino đi thăm Trung Quốc, khi bàn đến vấn đề Biển Đông với Đặng Tiểu Bình, bà Aquino nói: “Ít nhất về mặt địa lý, các đảo này gần Philíppin hơn”. Đặng Tiểu Bình mỉm cười, đáp: “Về mặt địa lý, Philíppin cũng rất gần Trung Quốc”. Vì thế, sự thực về địa chính trị làm cho Philíppin và Việt Nam không dám hoàn toàn quyết liệt với Trung Quốc, vì như thế không chỉ làm cho họ mất đi lợi ích kinh tế không thể lường trước, mà về khả năng quân sự khoảng cách giữa hai nước này với Trung Quốc cũng cách nhau một trời một vực. Vì vậy, đó vừa là nguyên nhân căn bản khiến hai nước này kiềm chế Trung Quốc, vừa là nguyên nhân thực tế khiến các nước này chỉ có thể là “cáo mượn oai hùm”. 

Trên thực tế, những nước chủ động tỏ ra thân thiện với Trung Quốc không chỉ có Philíppin và Việt Nam. Tại Hội nghị cấp cao Đông Á họp ở Bali của Inđônêxia mới đây, sau khi nghe nói Mỹ và Ôxtrâylia diễn tập quân sự liên hợp, chủ tịch luân phiên ASEAN là Inđônêxia đã tuyên bố hy vọng diễn tập quân sự nói trên sẽ mời Trung Quốc và tất cả các nước Đông Nam Á cùng tham gia. Brunây cũng đã ký thỏa thuận với Trung Quốc về hợp tác dầu khí ngoài khơi. Thậm chí cả Ấn Độ gần đây cũng đề nghị ba nước Trung Quốc-Mỹ-Ấn Độ tổ chức hội nghị hiệp thương giải quyết tranh chấp Biển Đông. Nói cho cùng thì mỗi nước đều có cách tính toán riêng của mình. Các nước Philíppin và Việt Nam vừa muốn được lợi kinh tế từ Trung Quốc, lại vừa hy vọng thông qua liên kết với Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản để kiềm chế Trung Quốc, đề phòng Trung Quốc chủ đạo tình hình Biển Đông, từ đó gia tăng cảm giác an toàn của mình. Nhưng đồng thời cũng sợ đi quá xa, vừa làm cho Trung Quốc tức giận, lại vừa “rước sói vào nhà”, cuối cùng khiến Biển Đông một lần nữa trở thành vũ đài để các nước lớn đấu nhau, còn những nước nhỏ như họ sẽ làm vật hy sinh. Chính mâu thuẫn tâm lý như vậy là nguyên nhân thực sự khiến cho hành vi của họ xem ra mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, không phải cách suy nghĩ của tất cả các nước Đông Nam Á đều chỉ như thế. Inđônêxia là nước Hồi giáo lớn nhất thế giới, cũng coi là nước lớn ở khu vực Đông Nam Á. Sở dĩ Inđônêxia muốn Trung Quốc và các nước Đông Nam Á đều có thể tham gia diễn tập quân sự hỗn hợp Mỹ-Ôxtrâylia vì đó cũng là dịp để nước này thể hiện địa vị của mình, hy vọng có được quyền phát ngôn lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á. Về phương diện này Philíppin có biểu hiện hết sức rõ rệt, thông qua hội nghị về vấn đề Biển Đôngdo Philíppin tự tổ chức, hy vọng có thể chủ đạo việc giải quyết tình hình Biển Đông, đồng thời đưa ra dự thảo nghị quyết về vấn đề Biển Đông tại Hội nghị cấp cao ASEAN. Qua đó có thể thấy được tính hai mặt của các nước này. Sự việc bề ngoài xem ra “cần phải” như vậy thì trên thực tế lại luôn chưa ra hàng ra lối, đó là khó khăn trong hành động tập thể. Ý muốn liên kết kiềm chế Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng bởi sự khác nhau về lợi ích giữa các nước. Xây dựng liên minh là bởi có kẻ thù chung, biện pháp an ninh tập thể được cho là có khả năng bảo vệ sự tồn tại của chính mình được tốt hơn, nhưng trên thực tế lợi ích của mỗi quốc gia với quốc gia khác trong cùng liên minh lại chưa bao giờ thống nhất với nhau, kể cả áp lực an ninh mà mỗi nước phải đối mặt cũng không hoàn toàn giống nhau. 

Ví dụ, Việt Nam giáp giới với Trung Quốc, lại có không biết bao nhiêu mối liên hệ khác trong lịch sử, tiếp nữa là cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam, tất cả đều có ảnh hưởng rất lớn đối với Việt Nam. Vì thế áp lực mà Việt Nam cảm nhận trong nội tâm phải lớn hơn các nước khác. Cũng như vậy, do bóng đen của chiến tranh, trong phản ứng của Việt Nam với nước Mỹ cũng tự nhiên có theo bao nhiêu mối lo. Đồng thời trong vấn đề Biển Đông, Việt Nam đã chiếm được 29 đảo bãi, đó vừa là quốc gia được lợi lớn nhất, cũng vừa là quốc gia có bất đồng lớn nhất với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Một thời kỳ gần đây tình hình kinh tế Việt Nam xấu đi nhiều, xét trong ngắn hạn sẽ vẫn còn xấu đi. Trong khi đó dầu thô đã trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam , phát triển dầu khí là trụ cột quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Trong tổng số lượng dầu xuất khẩu hàng năm của Việt Nam có 27% là từ khu vực đang có tranh chấp ở Biển Đông. Đối với Inđônêxia, tranh chấp với Trung Quốc trong lịch sử ít, vị trí cách Trung Quốc cũng xa, liên lụy với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đôngcũng không nhiều nên áp lực cảm nhận về thực tế Trung Quốc trỗi dậy và bất đồng với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đôngđều nhỏ, hiển nhiên phương thức hành động của Inđônêxia và Việt Nam có phần khác nhau. Sự thực cũng đã kiểm nghiệm cách lập luận này, Việt Nam tích cực liên kết với nước khác kiềm chế cân bằng Trung Quốc, trong khi Inđônêxia chỉ phụ họa đi theo. Giữa các nước không nhất định cứ vì đe dọa lợi ích chung mới hợp tác, hơn nữa không nhất thiết cứ phải hợp tác để tranh thủ lợi ích chung. Trong một thế giới “hỗn mang”, người bạn hôm nay có thể trở thành kẻ thù vào ngày mai, vấn đề mà quốc gia quan tâm hơn là lợi ích tương đối chứ không phải tuyệt đối, nếu một nước cho rằng nước khác có thể có được nhiều lợi ích hơn thì rất có khả năng sẽ từ bỏ hợp tác. Đó chính là nguyên nhân giải thích vì sao chính sách đối ngoại của những nước này lại có tính hai mặt. 

III- Ai có thể kiềm chế, cân bằng Trung Quốc ở Biển Đông? 

Cách nghĩ của các nước Đông Nam Á trong vấn đề Biển Đông kỳ thực là gặp nhau trong việc mở rộng thành viên của ASEAN, đều không muốn bị chính trị nước lớn chôn vùi. Bộ trưởng cao cấp Xinhgapo Lý Quang Diệu đã nói Trung Quốc và Mỹ xảy ra xung đột, đó là việc mà các nước Đông Nam Á lo lắng nhất. Các nước này không muốn gặp cảnh buộc phải lựa chọn hoặc nước này hoặc nước kia. Vì thế, trong khi Việt Nam và Philíppin lôi kéo Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ thì đồng thời, Philíppin gần đây lại cũng lôi kéo Liên minh châu Âu vào vấn đề Biển Đông. Các nước này muốn các nước lớn đó kiềm chế lẫn nhau, lo ngại cục diện chỉ một nước lớn độc chiếm làm chủ tất cả. Nhưng các nước này đã bỏ qua một vấn đề căn bản nhất, đó là nước nhỏ dù có “đục nước béo cò” đến đâu thì việc đảm bảo cơ bản đối với họ vẫn phải dựa vào nước lớn để thực hiện. Nói cách khác, họ tuy có ý đồ “tránh sói” thế nào ở cửa trước cũng không tránh được phải “rước hổ” từ phía cửa sau. Hành động hiện nay của họ rất có thể dẫn đến hậu quả như vậy, cho dù bản thân họ cũng có phần cảnh giác. Xét tình hình trước mắt thì các nước lớn xen vào vấn đề Biển Đông có Nhật Bản, Ấn Độ và Mỹ. Nhật Bản coi Eo biển Malắcca là tuyến đường biển huyết mạch, nhưng Nhật Bản không có đòi hỏi lãnh thổ ở Biển Đông nên bản thân lý do Nhật Bản nhảy vào Biển Đông là rất khiên cưỡng, lộ liễu. Không lâu sau khi Nhật Bản thành lập nội các mới nhiệm kỳ hiện nay, Ngoại trưởng Nhật Koichiro Gemba ngày 11/10 đã bắt đầu thực hiện chuyến thăm Đông Nam Á 5 ngày, trong đó vấn đề quan tâm nhất là thảo luận bàn bạc thống nhất và hiệp thương với Inđônêxia và các nước các nước Đông Nam Á khác về “vấn đề đảm bảo an ninh biển”. Báo chí Nhật Bản đưa tin Chính phủ Nhật Bản đang có kế hoạch cùng với Việt Nam và Philíppin thành lập một cơ quan phối hợp về vấn đề chủ quyền và đảm bảo an ninh hàng hải ở Biển Đông.

Giữa tháng 11, Thủ tướng Nhật Bản Noda đã tham gia loạt hội nghị cấp cao các nhà lãnh đạo Đông Á, đề xuất ý tưởng về một “hành lang kinh tế biển ASEAN”, hy vọng đạt được nhận thức chung cùng thành lập hành lang nói trên với các nước Đông Nam Á. Trên thực tế “Hành lang kinh tế” nói trên là “hành lang kinh tế vòng quanh Biển Đông”, cho thấy rõ lập trường của Nhật Bản can thiệp toàn diện vào vấn đề Biển Đông để đảm bảo chắc chắn quyền và lợi ích của Nhật Bản trong vùng biển Biển Đôngcũng như giao thông hàng hải của Nhật Bản ở vùng biển này. Giáo sư Ngô Tâm Bá cho rằng Nhật Bản can thiệp Biển Đông trước hết là phối hợp với Mỹ. Mỹ khi có ưu thế, nói chung đều tự can thiệp vào khu vực có vấn đề, khi thế của họ yếu đi thì kích động các bên khác kiềm chế. Vì thế trong vấn đề Biển Đông, Mỹ đặc biệt cổ vũ Nhật Bản và Ấn Độ kiềm chế Trung Quốc. Sau nữa, để có được lợi thế trong tranh chấp ở biển Hoa Đông, Nhật Bản rõ ràng kiềm chế Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, khiến Trung Quốc phải phân tán lực lượng. Cuối cùng, một bộ phận người Nhật Bản cho rằng Trung Quốc về mặt chiến lược ngày càng coi thường Nhật Bản nên biểu hiện của Nhật Bản ở Đông Nam Á cũng đáp lại Trung Quốc bằng cách nhìn nhận như vậy. Tuy nhiên, một số nước như Philíppin tích cực lôi kéo Nhật Bản can thiệp vấn đề Biển Đông nhưng không phải tất cả các nước ASEAN đều tán thành cách làm như vậy. Ngay từ tháng 1, Ngoại trưởng Inđônêxia đã thể hiện sự lo lắng đối với việc Nhật Bản can thiệp Biển Đông. Trong tháng 6 và tháng 11, Inđônêxia lại cho biết vấn đề Biển Đông cần phải do các nước đương sự giải quyết với nhau. Inđônêxia không chỉ xem xét vấn đề từ phương diện lịch sử của Nhật Bản mà cũng không muốn nước lớn khác can thiệp quá nhiều vào vấn đề Biển Đông. Từ đó có thể thấy Nhật Bản dù có ý định can thiệp vấn đề Biển Đôngđể kiềm chế Trung Quốc nhưng “không ở địa vị sẽ khó mưu việc chính sự”.

Nhật Bản có rất nhiều cách nghĩ trong vấn đề Biển Đông nhưng rất khó áp dụng được trong thực tiễn. Đồng thời xét những hạn chế trong hiến pháp Nhật Bản cũng như kinh tế Nhật Bản nhiều năm nay suy yếu, lại gặp nhiều rủi ro không lường trước, cộng thêm điều kiện địa lý làm hạn chế khả năng của bản thân Nhật Bản thì ảnh hưởng của Nhật Bản đối với vấn đề Biển Đông là không nhiều. Ấn Độ là nước hết sức hăng hái trong năm nay, từ báo chí đến chính phủ lúc nào cũng chĩa mũi dùi vào Trung Quốc, thường xuyên tỏ rõ địa vị nước lớn của mình trong các nước láng giềng của Trung Quốc. Tuy nhiên, cuối cùng khu vực lợi ích trung tâm của Ấn Độ không phải nằm ở Biển Đông. Một loạt tài liệu của Ấn Độ đều xác định khu vực lợi ích trung tâm của Ấn Độ là ở vùng biển Ấn Độ Dương. Đối với mục tiêu kiềm chế Trung Quốc, mặc dù Ấn Độ hài lòng với việc mình làm, một mặt có thể hạn chế Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng khi tham gia các công việc ở Nam Á, đặc biệt coi đó là biện pháp để đáp lại quan hệ đặc biệt giữa Trung Quốc và Pakixtan, mặt khác có thể có được một số lợi ích kinh tế, ví dụ như hợp tác phát triển dầu khí với Việt Nam ở Biển Đông. Nhưng nếu có hành động trong vấn đề Biển Đông thì Ấn Độ phải xem xét đến giá phải trả về trách nhiệm kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy, càng chưa nói đến lĩnh vực này không hề có vai trò quan trọng đối với Ấn Độ. Thêm nữa là đặc tính truyền thống về tôn giáo và văn hóa của Ấn Độ, rất khó nói được rằng Ấn Độ có điều kiện cơ bản để kiềm chế Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Vì thế, có thể thấy được rằng trong vấn đề Biển Đông, các nước Đông Nam Á, Ấn Độ và Nhật Bản đều không thể trở thành bên kiềm chế Trung Quốc hữu hiệu, nên lần này Mỹ đã quyết tâm phải tự mình ra tay. Trong khi bà Clinton lại lớn tiếng tuyên bố “trở lại châu Á”, hành động của Mỹ một lần nữa cũng đồng thời nhắm đúng vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

IV- Mỹ ra tay, phải để Trung Quốc tin được Mỹ có khả năng sử dụng vũ lực 

“Tay cân bằng xa bờ”, đó là cách miêu tả về vai trò của nước Anh khi đứng trước những đối thủ cạnh tranh có thể xuất hiện ở lục địa châu Âu lúc ban đầu: Dựa vào đặc điểm cách biệt của vùng nước, thúc đẩy các nước châu Âu khác đối kháng với nước trỗi dậy, duy trì thế cân bằng ở châu Âu, đề phòng xuất hiện kẻ thách thức lớn mạnh, còn mình thì thờ ơ như kẻ ngoài cuộc để hưởng lợi. “Tay cân bằng xa bờ” chỉ có một nguyên tắc là tránh cho một khu vực nào đó xuất hiện một nước bá quyền, còn nước chủ đạo hiện hữu đầu tiên là trút bỏ trách nhiệm, sau đó đứng về bên của nước chống lại nước trỗi dậy để loại bỏ mầm họa. Sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Mỹ triệt để tiếp nhận chiếc gậy quyền lực của nước Anh, bắt đầu đóng vai trò của “tay cân bằng xa bờ” trong phạm vi thế giới: Thi hành “Kế hoạch Marshall” ở châu Âu, hy vọng châu Âu có thể tự đảm nhận trách nhiệm cân bằng với Liên Xô; Ở châu Á, Mỹ một thời muốn lợi dụng Trung Quốc thời chính phủ Quốc dân đảng để kiềm chế, cân bằng Liên Xô, sau đó Tưởng Giới Thạch bị lật đổ, Mỹ mới bắt đầu coi trọng địa vị của Nhật Bản, đồng thời không tiếc sức đóng quân tại nhiều địa điểm ở châu Á-Thái Bình Dương. Vì nguồn lực chiến lược của Nhật Bản rất có hạn nên Mỹ không thể thoái thác trách nhiệm, đành phải tự mình đứng ra cân bằng. Nước bá quyền và nước trỗi dậy tranh giành thiên hạ đã xuyên suốt lịch sử thế giới. Trong khi thực lực tương đối của Trung Quốc và Mỹ có sự thay đổi nhất định, Mỹ phải kiềm chế Trung Quốc để giữ địa vị chủ đạo của mình. Như đã nói trên, hiện nay ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương chưa có được nước cân bằng thích hợp, Mỹ cần phải tạo nên một “cây cầu lớn” như vậy. Từ lâu nay Mỹ đã duy trì trạng thái đóng quân với số lượng lớn ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Các liên minh quân sự Mỹ-Nhật Bản, Mỹ-Hàn Quốc, Mỹ-Philíppin, Mỹ-Ôxtrâylia đã đe dọa Liên Xô (Nga) và Trung Quốc. Người Mỹ tự cho mình là người bảo vệ hòa bình thế giới, nhưng sự thực là việc Mỹ đóng quân luôn trở thành người bảo vệ cho lợi ích của Mỹ ở khu vực, bất luận biện pháp bảo vệ là đe dọa hay là sử dụng vũ lực.

Lần này Mỹ tuyên bố đóng quân lâu dài ở Ôxtrâylia, số quân sẽ tăng lên đến 2.500 người trong vòng 5 năm, tàu sân bay chạy bằng động cơ hạt nhân của Mỹ cũng sẽ tuần tiễu ở vùng biển thuộc Ôxtrâylia, hơn nữa Mỹ gần đây đã đề xuất chiến lược mới về “nhất thể hóa không quân và hải quân”. Quan chức Bộ Quốc phòng Mỹ khi giới thiệu chiến lược nói trên tuy không nhắc đến tên “Trung Quốc” nhưng có quan chức cao cấp nói: “Xét đến vũ khí mang tính tấn công kiểu mới của Trung Quốc có thể tạo nên mối đe dọa đối với tự do hàng hải ở Biển Đông và Hoàng Hải nên Bộ mới định ra chiến lược nói trên”. Còn có quan chức quân sự cấp cao Mỹ nói: “Chiến lược này đánh dấu một bước chuyển ngoặt lớn của nước Mỹ đối với xu hướng quân sự của Trung Quốc đang chuyển sang phong cách chiến tranh lạnh của phương Đông đối với phương Tây”. Có nhà lý luận cho rằng Mỹ đóng quân ở Ôxtrâylia là chuyển dịch từ Okinawa, theo vị trí đối thẳng với Trung Quốc thì đó là cách xa chứ không phải đến gần, hơn nữa máy bay chiến đấu F16C/D mà Mỹ bán cho Inđônêxia cũng không nhiều, xét về căn bản thì không đáng để Trung Quốc phải ngạc nhiên. Quan điểm này đã lẫn lộn về điều kiện đe dọa. Đe dọa có được thành công phải có hai điều kiện, một là bên đe dọa có thực lực, hai là bên bị đe dọa tin là bên đe dọa có thể sử dụng vũ lực. Thực lực của nước Mỹ không nói ai cũng biết, nhưng trước khi Mỹ bố trí quân sự cụ thể theo cách gọi “trở lại châu Á-Thái Bình Dương” mới đây thì Trung Quốc có thể không cảm nhận được áp lực mạnh như thế. Nói ngắn gọn thì Mỹ đang thỏa mãn điều kiện thứ hai trong hai điều kiện đe dọa, nghĩa là Mỹ phải làm cho Trung Quốc tin chắc rằng Mỹ có thể sử dụng vũ lực. Giáo sư Ngô Tâm Bá cho biết Mỹ trở lại châu Á-Thái Bình Dương, bề ngoài xem như quan tâm sâu sắc hơn đến khu vực Đông Nam Á nhưng thực tế là hành vi kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy. 

Ngoài lĩnh vực quân sự, Mỹ còn có hành động trong các lĩnh vực ngoại giao và kinh tế. Từ lâu nay Mianma trên tổng thể luôn ủng hộ Trung Quốc. Gần đây Ngoại trưởng Mỹ H. Clinton đi thăm Mianma, đó là chuyến thăm Mianma đầu tiên của chính khách quan trọng Mỹ từ hơn 50 năm qua. Rất rõ ràng, Mỹ ủng hộ lãnh tụ phe đối lập Aung San Suu Kyi tham gia bầu cử, trên danh nghĩa là thúc đẩy tiến trình dân chủ ở Mianma nhưng trên thực tế còn giành giật đồng minh với Trung Quốc. Điều rõ ràng hơn nữa là phía sau việc Mỹ thúc đẩy tiến trình dân chủ là vực dậy chính quyền thân Mỹ và làm cho chính quyền này có tác dụng đối với Mỹ. Điều đặc biệt quan trọng là Mianma sẽ trở thành nước Chủ tịch luân phiên ASEAN vào năm 2014, ảnh hưởng của Mianma sẽ không ngừng mở rộng, không thể nói Mỹ không có tính toán gì về phương diện này. Ngày 10/11/2011, trước khi diễn ra Hội nghị không chính thức các nhà lãnh đạo của Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương lần thứ 19, H. Clinton tuyên bố khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ là trọng tâm chiến lược ngoại giao của Mỹ tới đây, thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ Thái Bình Dương của nước Mỹ. Tại hội nghị, Obama đã thúc đẩy “Hiệp định quan hệ đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương” (TPP) do Mỹ chủ đạo, trở thành một bộ phận quan trọng về phương diện kinh tế trong chiến lược trở lại châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ. Rõ ràng, Mỹ muốn thông qua hiệp định này để ngăn chặn châu Á hình thành một tập đoàn thương mại thống nhất, đồng thời can thiệp toàn diện vào tiến trình nhất thể hóa khu vực Đông Á, đảm bảo chắc chắn lợi ích địa chính trị, kinh tế và an ninh, cuối cùng là tạo dựng lại và chủ đạo tiến trình củng cố kinh tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương, làm tiêu tan ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực này. 

Có nhà lý luận đã chỉ ra rằng cụm từ Mỹ “trở lại châu Á-Thái Bình Dương” là không chuẩn xác, vì Mỹ từ trước đến nay chưa bao giờ rời khỏi châu Á. Đúng như thế nhưng trọng tâm chiến lược của Mỹ từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh đến nay chưa bao giờ ngả về châu Á-Thái Bình Dương như vậy, lại càng chưa bao giờ coi trọng Biển Đông đến vậy. Sự thực cơ bản ở đây là dù các nước Đông Nam Á có ý đồ kiềm chế, cân bằng Trung Quốc như thế nào cũng đều không có thực lực. Vì thế, dù một số nước có lo ngại và bài trừ việc Mỹ hoàn toàn chủ đạo Biển Đông, các nước này cũng vẫn phải lựa chọn theo cách hợp tác với Mỹ. Thực tế cho thấy diễn tập quân sự của Việt Nam, Philíppin, Ấn Độ, Ôxtrâylia đều không thiếu sự tham gia của Mỹ. Hành vi của các nước Đông Nam Á, ở mức độ rất lớn dù là ý muốn của chính họ nhưng các nước này vẫn cần thực lực của Mỹ để làm cơ sở, cần Mỹ lớn tiếng nói về chính sách “trở lại châu Á-Thái Bình Dương” để làm bối cảnh. Thực chất việc Mỹ trở lại châu Á-Thái Bình Dương chính là thông qua liên kết với nước láng giềng của Trung Quốc để kiềm chế Trung Quốc, làm giảm nhẹ áp lực của bản thân và cuối cùng duy trì địa vị chủ đạo, cũng là chiến lược “tay cân bằng xa bờ” mà Mỹ đang sử dụng. Trương Hạo, Chủ nhiệm Phòng ngoại giao an ninh, Ban châu Á-Thái Bình Dương thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc cho biết nói đến việc Philíppin và Việt Nam có lập trường cứng rắn trong vấn đề Biển Đông, ngoài yêu cầu chính trị và nhu cầu lợi ích kinh tế ở trong nước thì đó là tâm lý lo sợ do chênh lệch về thực lực của quốc gia so với sức mạnh quốc gia tổng hợp của Trung Quốc đang tăng lên. Do bị hạn chế bởi quy mô và tốc độ phát triển kinh tế trong nước, Việt Nam và Philíppin chỉ dựa vào thực lực bản thân, rõ ràng không thể kiềm chế được Trung Quốc nên hai nước vừa phải tăng cường xây dựng quân bị của mình, lại vừa phải tăng cường hợp tác với Mỹ, trở thành biện pháp hữu hiệu kiềm chế Trung Quốc của họ. Việc Mỹ lớn tiếng trở lại đã được Philíppin và Việt Nam hoan nghênh, hy vọng lợi dụng mâu thuẫn Trung- Mỹ để được lợi. 

Mặt khác, nguyên nhân căn bản của việc Mỹ “trở lại châu Á-Thái Bình Dương” là sự thay đổi thực lực tương đối giữa Trung Quốc và Mỹ. Diêm Học Thông, Giám đốc Học viện Quan hệ quốc tế đương đại thuộc Đại học Thanh Hoa nói hiện nay khoảng cách giữa Mỹ với tất cả các nước ngoài Trung Quốc đều đang giãn rộng ra, khoảng cách giữa Trung Quốc với tất cả các nước ngoài Mỹ cũng đang giãn rộng ra, đồng thời khoảng cách giữa Mỹ và Trung Quốc lại đang thu hẹp lại. Như vậy cũng là nói cục diện thế giới phát triển rất có thể là một xu thế hai cực, vì thế khi thực lực của bản thân nước Mỹ ở mức độ nào đó giảm đi thì hơn lúc nào hết Mỹ phải thể hiện thực lực của mình. Diêm Học Thông cho rằng sở dĩ Mỹ có được địa vị chủ đạo trong thế giới hiện nay vì ngoài thực lực của bản thân, còn có danh tiếng đang phát huy vai trò của Mỹ. Cũng có thể nói khi người khác đều tin tưởng rằng Mỹ có thực lực tương đối mạnh thì, dù thực lực có giảm đi Mỹ vẫn là nước chủ đạo, nhưng khi nước Mỹ thể hiện ra dấu hiệu suy thoái nào đó, dần dần nước khác sẽ nghi ngờ, cuối cùng Mỹ “đi cũng dở, ở không xong”. Đó chính là việc Mỹ đưa tàu sân bay đến khu vực Trung Đông, đối đầu với Xyri và Iran được Nga đứng phía sau, đồng thời tuyên bố tại châu Á thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ, chắc chắn đã thể hiện rõ nguyên nhân kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy. Tuy nhiên, như Ngô Tâm Bá đã nói, biện pháp để Mỹ giữ địa vị bá quyền ở khu vực Đông Á thậm chí trên thế giới không hoàn toàn là cân bằng xa bờ, vì Mỹ trước sau chưa bao giờ thực sự “xa bờ”, ví dụ như Mỹ đã duy trì đóng đến 100 nghìn quân ở khu vực Đông Á. Theo Ngô Tâm Bá, phải nói là Mỹ “tham gia cân bằng” hoặc “tiếp xúc cân bằng” sẽ đúng hơn. Hơn nữa, Mỹ không chỉ nhằm cân bằng mà còn giữ ưu thế. Ngô Tâm Bá nói Mỹ luôn cố gắng để giữ được ưu thế về sức mạnh tuyệt đối của mình ở bất cứ khu vực quan trọng nào. Trước mắt Trung Quốc phát triển quân sự, Mỹ đã bắt đầu cảm nhận được thách thức ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Mục đích bố trí quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ là để có khả năng can thiệp vào tất cả mọi vấn đề liên quan mà trọng tâm là bán đảo Triều Tiên và eo biển Đài Loan.Hiện nay, sau khi Bắc Triều Tiên có vũ khí hạt nhân, khả năng và ý muốn can thiệp vấn đề Triều Tiên đã giảm mạnh, đồng thời khả năng quân sự của Trung Quốc lớn mạnh cũng làm cho Mỹ cảm thấy cái giá phải trả để can thiệp vấn đề Đài Loan tăng lên, vì thế Mỹ phải có thay đổi. Lần này, Mỹ lớn tiếng tuyên bố “trở lại châu Á-Thái Bình Dương”, một là phát đi tín hiệu với nước đồng minh của mình rằng “Mỹ chưa yếu đi”, tỏ cho thấy họ sẽ tiếp tục đảm bảo an ninh cho các nước này, hơn nữa Mỹ có khả năng như vậy, đồng thời cũng cảnh cáo Trung Quốc rằng nước Mỹ chưa yếu đi, Trung Quốc không được có hành động sai lầm; hai là tập hợp lại, có sự điều chỉnh về bố trí lực lượng, ba là muốn tìm lại khả năng kiểm soát toàn cục. Vì thế tất cả mọi việc làm của Mỹ hoàn toàn không phải là một điểm hoặc một tuyến đơn nhất, mà phải xem xét đến toàn cục ở Đông Á và châu Á-Thái bình Dương, cũng tuyệt đối không chỉ nhằm vào vấn đề Biển Đông. 

V- Áp lực và đối sách để Trung Quốc trỗi dậy 

Phó giáo sư Tôn Học Phong, Học viện quan hệ quốc tế đương đại thuộc Đại học Thanh Hoa cho rằng xét từ kinh nghiệm lịch sử trong quan hệ quốc tế thì khó khăn lớn nhất trong quan hệ đối ngoại của nước lớn trỗi dậy là làm dịu bớt được khó khăn trong quá trình trỗi dậy. Cái gọi là khó khăn trỗi dậy ở đây là cục diện lưỡng nan, theo đó nước lớn trỗi dậy vừa phải duy trì xu hướng tăng trưởng thực lực, chuyển hóa thực lực quốc gia thành ảnh hưởng đối với hệ thống, đồng thời lại phải cố gắng hết khả năng kiểm soát được áp lực an ninh trong hệ thống. Các quốc gia trỗi dậy khác nhau hoặc cùng một quốc gia nhưng trong các giai đoạn trỗi dậy khác nhau thì cường độ khó khăn trỗi dậy của nước đó hoàn toàn không giống nhau. Ngoài nhân tố địa lý và nhân tố kết cấu hệ thống, sự lựa chọn chiến lược của nước trỗi dậy cũng sẽ có ảnh hưởng quan trọng đối với khả năng nước đó có làm dịu được khó khăn trỗi dậy một cách hữu hiệu hay không. Thông thường, trong giai đoạn mà thực lực của nước trỗi dậy còn yếu hơn thực lực của nước chủ đạo hệ thống, nếu hành động chiến lược của nước trỗi dậy xung đột với lợi ích an ninh cốt lõi của nước chủ đạo và nước láng giềng càng nhỏ, thì thành công làm dịu khó khăn của nước trỗi dậy sẽ càng lớn; mức độ ép buộc trong hành động chiến lược của nước trỗi dậy càng thấp thì khả năng thành công của nước trỗi dậy cũng sẽ càng lớn. Ví dụ, sau khi nước Đức thống nhất, trọng tâm chiến lược đối ngoại của Bismarck là thông qua thành lập liên minh để duy trì thế cân bằng ở châu Âu, đem hết khả năng làm yếu đi thách thức của nước Đức đối với lợi ích an ninh trung tâm của nước chủ đạo là nước Anh và các nước lớn châu Âu khác. Đồng thời Đức cố gắng tránh sử dụng vũ lực, nhất là sử dụng vũ lực ở khu vực lợi ích trung tâm của nước chủ đạo. Kết quả là, nước Đức trỗi dậy đã tạo ra môi trường an ninh xung quanh rất tốt, làm dịu tình trạng khó khăn trỗi dậy mà nước Đức đang phải đối mặt ở thời kỳ đầu. 

Năm 2011 là năm mà mức độ phản ứng của Mỹ và các nước khác đối với Trung Quốc trỗi dậy đã mạnh thêm một cấp. Áp lực đối với Trung Quốc trong năm cũng không ngừng tăng lên, kích hoạt cho những vấn đề xung quanh Biển Đông có thể xuất hiện. Trung Quốc đã đặc biệt phải làm tốt công tác hoạch định chiến lược đối ngoại. Tôn Học Phong cho rằng từ những năm 90 của thế kỷ trước đến nay, Trung Quốc luôn cố gắng thử nghiệm chính sách vỗ về triệt để trong ngoại giao láng giềng, nhằm làm dịu bớt khó khăn trỗi dậy của bản thân. Chiến lược này tuy có thể làm dịu mâu thuẫn an ninh giữa Trung Quốc với các nước xung quanh nhưng lại khó có được hiệu quả lâu dài. Nguyên nhân xảy ra hiện tượng nói trên là do trong hệ thống Đông Á đã xuất hiện hệ thống an ninh theo đẳng cấp của nước Mỹ. Theo phương thức bảo vệ sự sống còn của quốc gia thì các nước Đông Á về cơ bản có thể chia thành hai loại, một loại là quốc gia tự lực, như Trung Quốc, Việt Nam, chủ yếu dựa vào lực lượng của bản thân để duy trì an ninh sống còn của mình. Loại quốc gia thứ hai là dựa vào nước khác, ví dụ như Nhật Bản, Philíppin, Hàn Quốc. Các nước này tuy có lực lượng quân sự riêng nhưng an ninh sinh tồn của quốc gia luôn phải nhờ vào viện trợ và giúp đỡ của nước đồng minh bên ngoài như Mỹ để được đảm bảo. Cũng có thể nói giữa các nước này với Mỹ đã hình thành một hệ thống an ninh đẳng cấp, trong đó Mỹ là nước cung cấp an ninh, nước đồng minh ở khu vực là nước tiêu thụ an ninh. Chính yếu tố này đã khiến cho chiến lược vỗ về của Trung Quốc không có được hiệu quả lâu dài. 

Tôn Học Phong còn làm rõ thêm rằng trong khi làm hòa hoãn mâu thuẫn an ninh với Trung Quốc, nước được giúp đỡ và bảo hộ trong hệ thống an ninh của nước Mỹ sẽ dựa vào Mỹ, tiếp tục tỏ rõ sức mạnh với Trung Quốc nhằm có được ưu thế trong cạnh tranh lợi ích an ninh, vì hoà hoãn tạm thời trong tranh chấp cuối cùng không đồng nghĩa với mâu thuẫn an ninh song phương cuối cùng được giải quyết. Còn Mỹ lại có thể đem lại sự bảo hộ an ninh hữu hiệu hơn. Ngoài ra, song song với việc Trung Quốc triển khai chính sách lợi dụng hợp tác kinh tế vỗ về các nước láng giềng Đông Á, quan hệ thương mại giữa các nước nói trên với Trung Quốc phần lớn đều trở nên chặt chẽ hơn, mức độ lệ thuộc vào Trung Quốc từng bước sâu sắc hơn, nhưng lo ngại của các nước này cũng bắt đầu tăng lên. Họ sợ rằng nếu tiếp tục phối hợp theo chính sách vỗ về như vậy của Trung Quốc, sẽ tạo ra ảnh hưởng mặt trái trong việc bảo vệ lợi ích an ninh trung tâm của bản thân, từ đó thúc đẩy các nước này quyết tâm lợi dụng biện pháp tất yếu mà Mỹ áp dụng trong bảo vệ an ninh để đưa đến cục diện có lợi trong cuộc cạnh tranh an ninh với Trung Quốc, cố gắng đến mức tối đa, ngăn ngừa Trung Quốc lợi dụng ưu thế để gây tổn hại đến lợi ích an ninh trung tâm của họ trong tương lai. Rõ ràng, những biện pháp nói trên ở mức độ nào đó đã làm lung lay quyết tâm của Trung Quốc trong việc kiên trì chính sách vỗ về. Trung Quốc không thể làm dịu mâu thuẫn nhưng phải trả giá bằng cách gây tổn hại cho lợi ích trung tâm của mình, cũng không thể đáp ứng nước khác mà hạ thấp mạnh mẽ mức độ ủng hộ ở trong nước đối với chính sách của mình. Vì thế, mặc dù Trung Quốc phải tiếp tục tự kiềm chế nhưng cũng không thể kiên trì mãi chính sách vỗ về. 

Trong khi làm dịu mâu thuẫn an ninh với Trung Quốc, nếu nước tự lực có mâu thuẫn an ninh trực tiếp với Trung Quốc thì họ sẽ lo lắng rằng việc hòa hoãn mâu thuẫn lâu dài với Trung Quốc (đặc biệt là tranh chấp lãnh thổ) cuối cùng sẽ có lợi cho Trung Quốc. Rốt cuộc Trung Quốc sẽ có ưu thế về thực lực và từng bước mở rộng thực lực, trong khi những nước đó lại không thể tìm kiếm được sự bảo hộ an ninh hữu hiệu nên sẽ đem hết khả năng tăng cường thực lực của mình. Tuy nhiên, sự chênh lệch về thực lực với Trung Quốc đã quyết định cho những nước này phải tìm kiếm sự giúp đỡ từ bên ngoài. Điều quan trọng hơn là các nước này sẽ nhờ vào những nước được Mỹ giúp đỡ nói trên để kiềm chế Trung Quốc trong xung đột với Trung Quốc. Đứng trước thách thức an ninh với các nước loại này, Trung Quốc không thể tránh khỏi phải có hành động để không làm tổn thất lợi ích an ninh trung tâm của mình. Kết quả là, mâu thuẫn an ninh song phương sẽ tiếp tục kích hoạt, chính sách vỗ về của Trung Quốc sẽ mất đi tính hữu hiệu. Dù quốc gia tự lực có mâu thuẫn an ninh với Trung Quốc, nhưng nước đó cũng có thể hy vọng nhờ vào sự giúp đỡ của Trung Quốc để loại bỏ mối đe dọa an ninh đến từ hệ thống an ninh của nước Mỹ, đặc biệt là hy vọng Trung Quốc làm theo cách của nước Mỹ, cũng trở thành nước đảm bảo an ninh cho mình một cách hữu hiệu. Nhưng chính sách vỗ về của Trung Quốc thường chỉ có thể đảm bảo cho những đe dọa an ninh của các nước này không xấu đi rõ rệt chứ không thể loại bỏ được những đe dọa lớn từ bên ngoài của loại quốc gia này một cách hữu hiệu, thiết thực. Kết quả tự nhiên là cuối cùng quốc gia này sẽ ngày càng xác định chính sách vỗ về của Trung Quốc làm tổn hại đến lợi ích an ninh trung tâm của họ, từ đó sẽ không sẵn sàng phối hợp lâu dài với chính sách vỗ về của Trung Quốc. 

Đối với việc Trung Quốc trỗi dậy, tư duy của các nước Đông Nam Á và cách nghĩ chủ yếu của phương Tây là nhất trí với nhau, cho rằng nước trỗi dậy nhất định sẽ thông qua thay đổi hiện trạng để có được địa vị chủ đạo, còn ở khu vực Biển Đông là kẻ đi đầu. Nhưng về phương diện khác, vấn đề này cũng giải thích vì sao giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á lại thiếu lòng tin. Tại Hội nghị các nhà lãnh đạo Trung Quốc - ASEAN lần thứ 14, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã nói tranh chấp ở Biển Đông là vấn đề tích tụ từ nhiều năm qua, cần phải do nước chủ quyền liên quan trực tiếp thông qua hiệp thương hữu nghị và đàm phán hòa bình để giải quyết, thế lực bên ngoài không nên can thiệp bằng bất cứ giá nào. Kỳ thực, trong vấn đề Biển Đông, Mỹ dù lên tiếng rất mạnh nhưng khó khăn của họ trong việc can dự sâu vào vấn đề Biển Đông là rất lớn. Ngô Tâm Bá cho rằng vấn đề Biển Đông chủ yếu bắt nguồn từ tranh chấp chủ quyền khiến cho Mỹ rất khó tỏ rõ thái độ. Cho dù Mỹ có thể ủng hộ lập trường của nước đồng minh, nhưng bản thân họ rất khó có được thái độ công khai để khẳng định phần lãnh thổ cụ thể nào thuộc về một quốc gia nào. Ngoài ra, Mỹ không có cách nào để trực tiếp tham gia đàm phán với nước hữu quan, vì bản thân họ không phải là bên liên quan trực tiếp, bởi thế Mỹ cùng lắm cũng chỉ gây áp lực, vì vấn đề này vừa không gây tổn hại đến lợi ích của Mỹ, vừa không có mối liên quan gì khác với họ. Trương Khiết cho rằng không nhất thiết phải quá lo lắng việc Mỹ can dự sâu vào vấn đề Biển Đông. Lợi ích chủ yếu của Mỹ ở Biển Đông chẳng qua chỉ có ba điểm là: Chiến hạm của Mỹ tự do đi qua Biển Đông không bị thiệt hại; khi xung đột leo thang mà ảnh hưởng đến lợi ích của đồng minh của Mỹ ở khu vực này, Mỹ sẽ phải có biện pháp đối phó; đảm bảo lợi ích khai thác tài nguyên ở Biển Đông cho các công ty xuyên quốc gia của Mỹ. Rõ ràng là trong lợi ích cụ thể ở Biển Đông, Trung Quốc và Mỹ không có xung đột mang tính căn bản. Còn ý đồ trung tâm của Mỹ là cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc đang ngày một tăng lên. Mỹ cho rằng chỉ có nước Mỹ mới có địa vị và sức mạnh quốc gia để loại bỏ tình trạng mất cân bằng quyền lực rõ ràng ở khu vực này. 

Như vậy, Trung Quốc cần phải đối phó với cục diện phức tạp ở Biển Đông bằng cách nào? Các học giả đã nêu lên một số giả thiết cho vấn đề này. Ngô Tâm Bá cho biết ông đã tham gia Hội nghị an ninh châu Á tổ chức tại Xinhgapo (Đối thoại Shangri La lần thứ 14). Khi đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ R. Gates đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại thông điệp chủ yếu tại hội nghị rằng Mỹ sẽ không rời khỏi khu vực này. Nhưng sau đó, Giám đốc Học viện chính trị Lý Quang Diệu ở Xinhgapo Mã Khải Thạc vẫn truy vấn, rằng khi chi phí quân sự của Trung Quốc không ngừng tăng lên, còn chi phí quân sự của Mỹ không ngừng giảm đi, ngài Gates sẽ làm thế nào để cho chúng tôi tin được rằng trong 5 năm tới Mỹ sẽ không rời khỏi đây? Rõ ràng trong phương diện này, Mỹ đã phải chịu áp lực, hay nói cách khác là đồng minh của Mỹ đã nghi ngờ Mỹ. Trong chính trường quốc tế, lòng tin phải quan trọng hơn khả năng thực tế. Ngô Tâm Bá cho rằng trong đối sách của Trung Quốc cần phải nắm chắc ba điểm sau: Trước hết, phải nhìn nhận thấu đáo vấn đề, phải thấy được rằng các động thái của Mỹ luôn hư hư thực thực nên không nhất thiết phải quá lo lắng. Hành động mới đây của Mỹ chắc chắn là có ý tạo thanh thế. Việc Mỹ đóng quân tại Ôxtrâylia, tư thế của Mỹ trong các hội nghị, trên thực tế không tạo nên mối đe dọa về bản chất đối với Trung Quốc nhưng đó là một tín hiệu. Thứ hai, trong khi xem xét vấn đề Biển Đông và quan hệ với các nước xung quanh, Trung Quốc nhất định phải có quan niệm toàn cục chứ không thể thấy vấn đề nào thảo luận vấn đề đó, mà phải là có cần có bỏ, có tiến có lui. Thứ ba, Trung Quốc cần phải phát huy triệt để ưu thế của mình. Trước hết là ưu thế địa lý, tức Trung Quốc là một quốc gia hải lục phức hợp; Trung Quốc có nhiều mối quan hệ với các khu vực, có diện tích lãnh thổ rộng, có thể sẵn sàng can dự và xuất quân trong các vấn đề xung quanh. Hai là, Trung Quốc có ưu thế về kinh tế. Những nước này dựa vào nước Mỹ về an ninh nhưng về kinh tế chỉ có thể dựa vào Trung Quốc. Trung Quốc hiện nay là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên, Mông Cổ, Ấn Độ, Việt Nam, Inđônêxia. Nước này là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Nhật Bản, Hàn Quốc, Mông Cô, Malaixia, Inđônêxia và Thái Lan; Trung Quốc còn là nước có nguồn lực đầu tư nước ngoài chủ yếu vào ngày càng nhiều nước châu Á. Trong khi đó, Mỹ còn phải xuất khẩu sang khu vực Đông Á để thu lời. Vì thế, các nước Đông Nam Á còn phải dựa vào Trung Quốc về kinh tế. Cuối cùng là ưu thế về ý tưởng của Trung Quốc. Nói một cách tương đối thì ý tưởng của Trung Quốc thời hậu Chiến tranh Lạnh là nghiêng về hòa bình hơn, chú trọng hợp tác an ninh khu vực hơn, có quan điểm an ninh mới “không sử dụng vũ lực, giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa bình”. Trong khi đó, Mỹ yêu cầu người khác phải tuân thủ luật pháp quốc tế, còn bản thân Mỹ đến nay vẫn chưa tham gia “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”. 

Tôn Học Phong cho rằng cần phải điều chỉnh chiến lược vỗ về của Trung Quốc theo hai phương diện sau đây: Thứ nhất, Trung Quốc cần kết hợp, điều hòa giữa chính sách vỗ về xung quanh và chính sách đối với Mỹ, xem xét toàn diện trong mối liên hệ chứ không tách biệt. Nếu không, ngoại giao Trung Quốc sẽ thường xuyên gặp phải tình trạng quan hệ song phương với Mỹ vẫn được, nhưng quan hệ với các nước Đông Á lại sinh ra cạnh tranh quyết liệt. Phương thức chủ yếu để gắn kết chính sách Đông Á của Trung Quốc với chính sách đối với Mỹ của Trung Quốc lại với nhau là nâng cấp đối thoại an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã được thiết lập giữa Trung Quốc và Mỹ và cố gắng tổ chức thảo luận đạt hiệu quả thực tế như dự kiến để duy trì trạng thái ổn định tổng thể ở khu vực Đông Á. Đồng thời, có thể thử nghiệm thiết lập cơ chế đối thoại song phương không chính thức về an ninh chiến lược Đông Á giữa Trung Quốc và Mỹ, để đảm bảo cho đối thoại chiến lược châu Á-Thái Bình Dương chính thức của chính phủ có được hiệu quả thiết thực. Thứ hai, hoạch định chính sách phù hợp hơn với đặc điểm về sự đe dọa an ninh của nước tự lực trong khu vực Đông Á và nhắm mục tiêu vào các nước đó. Về chính sách an ninh của nước được bảo hộ như Philíppin, điều dễ nhận thấy là những nước này không có nhiều khả năng áp dụng chính sách mang tính đối kháng đặc biệt nghiêm trọng trong điều kiện Trung-Mỹ có thể đạt được nhất trí. Vì thế, chính sách Đông Á của Trung Quốc (bao gồm khu vực Biển Đông) chủ yếu cần quan tâm đến nước tự lực vốn phải dựa vào bản thân để bảo vệ an ninh của chính mình, đồng thời xây dựng chính sách sao cho phù hợp hơn với đặc điểm của nước đó và nhắm vào nước đó. Nếu đe dọa chủ yếu của những nước đó đến từ những nước đồng minh quân sự do Mỹ chủ đạo thì Trung Quốc có thể bảo hộ an ninh cho nước đó một cách thích hợp để làm yếu đi chính sách đối kháng của nước đó nhắm vào Trung Quốc. Nếu đe dọa của những nước đó đến từ Trung Quốc thì Trung Quốc tất yếu phải áp dụng chính sách phối hợp giữa vỗ về và cứng rắn để đạt được hiệu quả tương tự. Cách đây không lâu, 4 nước Trung Quốc, Lào, Mianma và Thái Lan đã đạt được thỏa thuận cùng bảo vệ tuyến giao thông đường thủy trên sông Mê Công. Cùng với việc thực lực quốc gia của Trung Quốc phát triển, Trung Quốc vừa phải thể hiện được ý nghĩa của sự phát triển đối với dân chúng, cũng vừa phải dựa vào thực lực của bản thân để bảo vệ biên giới lợi ích đang ngày một mở rộng của mình. Việc bảo vệ an ninh vận tải đường thủy trên sông Mê Công không chỉ là bảo vệ an ninh khu vực, đảm nhận trách nhiệm nước lớn của Trung Quốc, mà còn phải là vấn đề bảo vệ an ninh cho các công dân của Trung Quốc ở nước ngoài. Hơn nữa, việc mở rộng hoạt động thương mại của Trung Quốc cũng khiến cho mức độ an toàn của khu vực xung quanh liên quan trực tiếp đến lợi ích của Trung Quốc. Vì thế, Trung Quốc cần phải làm được như vậy, nếu không thì nước trỗi dậy sẽ không biết phải bắt đầu bàn bạc từ đâu.

Ngày 2/12/2011, Ngoại trưởng Adam của Xâysen cho biết Xâysen đang đề nghị Trung Quốc xây dựng căn cứ quân sự trong lãnh thổ nước này để nâng cao khả năng đối phó với hải tặc. Đề nghị nói trên của Xâysen một lần nữa tiếp tục cho thấy khi thực lực của Trung Quốc tăng lên, việc họ đóng quân nhằm bảo vệ an ninh khu vực sẽ phù hợp với yêu cầu của rất nhiều quốc gia. Giáo sư Ngô Tâm Bá cho rằng đối với Trung Quốc, tầm quan trọng của việc bảo vệ an ninh đường thủy bằng lực lượng vũ trang trên sông Mê Công chỉ đứng sau cơ chế hợp tác của Tổ chức hợp tác Thượng Hải, sự kiện xảy ra trên sông Mê Công quả đã một lần đem lại cơ hội cho Trung Quốc. Vấn đề mà Trung Quốc và các nước xung quanh phải đối mặt nhiều hơn là an ninh phi truyền thống, vì thế hoàn toàn có thể lấy đó làm thông lệ, thông qua phương thức hợp tác quân sự với các nước láng giềng để cùng bảo vệ an ninh. Trung Quốc gần đây đã bắt đầu tự tổ chức diễn tập quân sự ở Thái Bình Dương. Báo chí đưa tin, từ ngày 22 - 23/11/2011, sáu chiến hạm của Hải quân Trung Quốc đã lần lượt đi qua vùng biển giữa đảo Okinawa và đảo Miyako với tốc độ 25 km/giờ, từ biển Hoa Đông tiến đến Thái Bình Dương. Việc làm nói trên hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế. Trung Quốc gần đây liên tục diễn tập quân sự ở vùng biển nói trên. Từ tháng 10/2011 đến nay, Quân Giải phóng Trung Quốc đã tổ chức diễn tập quân sự liên hợp phối hợp giữa lục quân và không quân ở Tây Tạng. Ở Hoàng Hải, họ cũng đã tổ chức huấn luyện chiến đấu liên hợp. Vào cuối tháng 10/2011, tàu chiến hải quân lại tiến đến huấn luyện ở Tây Thái Bình Dương. Cuối tháng 11, tàu sân bay của Trung Quốc ra khơi chạy thử lần thứ hai. Những động thái thể hiện thực lực của Trung Quốc nói trên cũng là hành động đáp trả mạnh mẽ trong vấn đề xung quanh Biển Đông. Trương Khiết cho biết từ cố gắng ngoại giao của Chính phủ Trung Quốc trong năm 2011, có thể nhận định rõ rằng trong tương lai Trung Quốc vẫn sẽ áp dụng chính sách tự kiềm chế để đối phó với tranh chấp Biển Đông. Duy trì môi trường xung quanh ổn định, đảm bảo để Trung Quốc trỗi dậy vẫn là sự lựa chọn chiến lược quan trọng của Trung Quốc hiện nay. Sách lược Trung Quốc trong xử lý tranh chấp Biển Đông, việc Trung Quốc cố gắng phát triển tàu sân bay và một loạt cuộc diễn tập quân sự trên vùng biển gần đều được coi là một chỉnh thể, đã trở thành hàn thử biểu để các nước trong và ngoài khu vực đoán định Trung Quốc lựa chọn phương thức hòa bình hay sử dụng vũ lực để trỗi dậy. Vấn đề Biển Đông đã không chỉ là tranh chấp chủ quyền về lãnh thổ lãnh hải, mà còn là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến môi trường an ninh xung quanh và chiến lược toàn cầu của Trung Quốc.


Theo Tạp chí “Tri thức thế giới”- BNG Trung Quốc ( kỳ 24 năm 2011)

Lê Sơn (gt)