*******

WASHINGTON – Trong buổi điều trần cả ngày 4 tháng 2 tại Đồi Capitol, các nghị sĩ Quốc hội Mỹ và các chuyên gia đến từ Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng, giới học giả và các tổ chức phi chính phủ đã tham gia trình bày về các hoạt động của Trung Quốc ở Đông Nam Á, và những tác động về kinh tế, chiến lược và an ninh đối với Mỹ. Các quan ngại của của những nước láng giềng chung biên giới biển và đất liền với Trung Quốc ở phía Nam cũng được thảo luận, liên quan đến việc Trung Quốc gia tăng đe dọa và sẵn sàng sử dụng vũ lực để củng cố các yêu sách lãnh thổ của mình.

 

Buổi điều trần được tiến hành bởi Ủy ban Đánh giá Kinh tế và An ninh Mỹ – Trung (USCC), có chức năng tư vấn cho Quốc hội về các hoạt động của Trung Quốc.

“Đặc biệt ở Biển Đông, Trung Quốc ngày càng trở nên hiếu chiến – thậm chí khiêu khích – nhằm vào các nước láng giềng trong các vấn đề trên biển”, Tiến sĩ Richard Cronin thuộc Trung tâm Henry L. Stimson nói. Tiến sĩ Cronin nhận định rằng có vẻ như Trung Quốc đang trở lại lập trường thời kỳ trước năm 1995, khi họ sử dụng hành động quân sự để củng cố yêu sách lãnh thổ của mình ở Biển Đông.


“Kể từ thập niên 50, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã đòi yêu sách hầu hết Biển Đông như thể là vùng biển của Trung Quốc”, Tiến sĩ Andrew Scobell, thuộc trường Đại học Texas A&M nói.

“[Từ cuối năm 2007] Trung Quốc đã gia tăng tuần tra hải quân, gây áp lực ngăn chặn các công ty dầu khí nước ngoài hoạt động trong vùng biển tranh chấp, [tiến hành các bước đi tương ứng tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,] và đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá ở một số khu vực biển”, Bronson Percival, thuộc Trung tâm Phân tích Hải quân (CNA) cho biết. Theo Percival, Trung Quốc khẳng định các tranh chấp là “vấn đề song phương,”như giữa Trung Quốc và một quốc gia yếu hơn, và không thể  đem ra xử lý bởi “các cơ chế đa phương.”

Năm ngoái, Trung Quốc đã thể hiện các hành động hung hăng đối với các tàu Hải quân Mỹ. Vào tháng 3 năm 2009 tàu hải quân Mỹ Impeccable khi đang ở vùng biển quốc tế Biển Đông đã bị các tàu Trung Quốc quấy rối và đòi phải rời khỏi khu vực hoặc “phải chịu hậu quả,” nghị sỹ Dana Rohrabacher (đảng Cộng hoà ở bang CA) xác nhận. Sự cố tương tự đã xảy ra hồi tháng sáu với khu trục hạm USS John S. McCain.


“Những hành động này mang ý nghĩa rõ ràng. Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa qua các hành động của họ nêu tín hiệu một cách hiếu chiến về thống trị và kiểm soát Biển Đông”, ông Rohrabacher nói. Ông nói thêm rằng, Trung Quốc hành động hiếu chiến như thế đối với Mỹ thì có thể hình dung là các nước khác trong khu vực cũng bị đe dọa như thế nào.


“Chúng tôi lên án mạnh mẽ các hành động gây nguy hiểm cho an toàn của các con tàu của chúng ta, và đó là sự vi phạm rõ ràng các chuẩn mực quốc tế về ứng xử trên biển thuộc phạm vi bên ngoài lãnh hải”, Phó Trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ông Robert Scher cho biết. Ông khẳng định rằng Mỹ bác bỏ bất kỳ nỗ lực nào nhằm hạn chế quyền tự do trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Gần 40% đại dương trên thế giới nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Do đó, theo Scher, quyền tự do hàng hải phải được duy trì vì lợi ích kinh tế toàn cầu và hoà bình quốc tế.

Nghị sỹ Rohrabacher cho rằng: mặc dù không có mối đe dọa quân sự thường trực nào đối với Trung Quốc, nhưng họ đang củng cố quân đội với quy mô lớn, và hiểm họa này đang bị chúng ta bỏ qua. Ông dẫn chứng tới tên lửa chống vệ tinh và tên lửa đạn đạo đối hạm mà Trung Quốc đang phát triển, với ý định ngăn chặn chúng ta hỗ trợ các đồng minh trong khu vực.

Theo Ủy viên Larry M. Wortzel, người đồng chủ trì buổi điều trần, lực lượng hải quân đang lớn mạnh của Trung Quốc được xem như mối đe dọa tiềm tàng đối với các nước có tranh chấp trên biển với Trung Quốc như Việt Nam, Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines và Đài Loan. Ông nói rằng, trong chuyến thăm Việt Nam của Ủy ban hồi tháng mười hai vừa qua, họ đã nhiều lần nghe phía Việt Nam bày tỏ lo ngại về tính hiếu chiến của Trung Quốc ở Biển Đông, liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước.


Các đại biểu tham dự điều trần thống nhất rằng Mỹ nên can dự nhiều hơn tới khu vực và Mỹ có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn Trung Quốc thống trị ở Biển Đông và trong việc đảm bảo tự do di chuyển của lực lượng vũ trang Mỹ và đường vận chuyển năng lượng.

ASEAN lo ngại khi Trung Quốc phát triển thương mại


Trong thập niên 90, các nước Đông Nam Á đã từng rất lo ngại rằng Trung Quốc có thể làm điều gì đó, nhất là liên quan tới các lãnh thổ ở Biển Đông mà họ đòi hỏi chủ quyền. Walter Lohman, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Châu Á, thuộc Quỹ Heritage, dẫn chứng về các hành động đối đầu của Trung Quốc trong tranh chấp quần đảo Trường Sa với Philippinse và trong cuộc khủng hoảng tên lửa tại eo biển Đài Loan năm 1995-1996. Tuy nhiên, vào cuối thập niên 1990 và những năm đầu sau năm 2000, Trung Quốc bắt đầu đảo ngược hình ảnh của mình với việc sử dụng “cuộc tấn công hấp dẫn”, bớt ý thức hệ hơn và nhấn mạnh tới quan hệ thương mại hơn là các tranh chấp lãnh thổ.

Năm thành viên sáng lập của ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á) vào năm 1967 là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan, gia nhập sau là Brunei, Campuchia, Lào, Myanmar (Burma) và Việt Nam. Với mục đích là liên kết kinh tế, chính trị và văn hóa khu vực.

Quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN phát triển hàng năm và nhiều khả năng sẽ phát triển hơn nữa sau khi Hiệp định Thương mại Tự do Trung Quốc – ASEAN (CAFTA) có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm nay. Thương mại hai chiều của Trung Quốc và mười nước ASEAN đạt $193 tỷ trong năm 2008, vượt của Mỹ với $181 tỷ, giúp Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba của ASEAN sau Liên minh châu Âu và Nhật Bản. “Xét về qui mô thị trường, CAFTA chỉ đứng sau Cộng đồng Châu Âu (European Community) và Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA)”, giáo sư Donald E. Weatherbee, Đại học South Carolina, nói.

“Theo Ban Thư ký ASEAN, thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc đã duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình là 26% hàng năm kể từ 2003,” Walter Lohman từ Heritage Foundation nói. ”… có thể dự kiến rằng thương mại của Trung Quốc với ASEAN sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn thương mại của các đối tác khác với ASEAN …. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Malaysia và Việt Nam, và là đối tác lớn thứ hai của Philippines, Thái Lan, Singapore và Myanmar”, Giáo sư Weatherbee nói.

Tăng trưởng thương mại được các nước này chào đón, nhưng sự thống trị của Trung Quốc ở châu Á khiến cho các nước này cảnh giác về các động cơ của Trung Quốc. Đồng nhân dân tệ đang có giá thấp và Trung Quốc không muốn định giá lại, "xuất khẩu của ASEAN kém cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, và nhập khẩu từ Trung Quốc – sẽ gia tăng với CAFTA – cạnh tranh hơn ở thị trường nội địa ASEAN. Việt Nam nhận thấy cần thiết phải phá giá đồng tiền của mình, và các nước ASEAN khác, đặc biệt là Thái Lan, có thể sẽ phải hành động theo cho phù hợp”, Giáo sư Weatherbee nói. Ông cũng cho rằng, nhiều tiếng nói ở Indonesia - là thị trường lớn nhất ASEAN- lo lắng rằng hàng nhập khẩu rẻ hơn từ Trung Quốc sẽ dẫn đến mất việc làm trầm trọng trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, và thuỷ sản.

Gia tăng quan hệ thương mại và đầu tư tạo cho Trung Quốc đòn bẩy mà trước đây họ không có. Giáo sư Weatherbee dẫn chứng: nhân vật thứ hai của Trung Quốc là Tập Cận Bình tới Phnôm Pênh ký 14 hiệp định hỗ trợ kinh tế giữa Trung Quốc và Campuchia thì hai ngày sau nước này đã trục xuất hồi hương 20 người tị nạn thiểu số Ngô Duy Nhĩ, những người đã được Cao ủy Liên Hiệp quốc về người tỵ nạn (UNHCR) bảo vệ.

Ngoại trưởng Clinton: ‘Mỹ trở lại’

Tất cả những người ra điều trần đều nói về tầm quan trọng của biển Đông Nam Á đối với Trung Quốc và đối với các nước khác phụ thuộc vào việc đi lại ở đây. “Các tuyến đường biển  qua khu vực Đông Nam Á là một trong những tuyến bận rộn nhất và quan trọng chiến lược nhất. Năm ngoái, 90% lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc được chuyên chở qua eo biển Malacca”,David B. Shear, Phó Trợ lý Ngoại trưởng nói.

Tuy vậy, theo những người tham gia điều trần, Mỹ thiếu một chiến lược rõ ràng đối với khu vực.

“Phần lớn Chính phủ các nước ASEAN trông đợi sự can dự sâu hơn của Mỹ. Dưới thời Tổng thống George W. Bush, nhận thức chủ yếu là Mỹ chỉ quan tâm đến việc chống khủng bố và thờ ơ với các nhu cầu khác của Đông Nam Á”, Tiến sĩ Ellen Frost, thuộc Viện Kinh tế Quốc tế Peterson, nhận định. Chính quyền Obama đã nỗ lực làm mới và mở rộng sự can dự của Mỹ ở Đông Nam Á. Tháng 7 năm 2009, Ngoại trưởng Clinton đã ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác, điều chỉnh chính sách của chính quyền Bush và tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ Mỹ-ASEAN. Cũng trong tháng bảy, bà đã tham dự Diễn đàn Khu vực ASEAN ở Phuket ,Thái Lan, nơi bà  tuyên bố: “Mỹ đang trở lại”.

“Tuyên bố Clinton” rõ ràng là sự đáp trả, thể hiện quan ngại rằng sự tham gia của Trung Quốc trong khu vực tạo ra bất ổn tiềm tàng, đặc biệt là ở lưu vực sông Mekong và Biển Đông “, Tiến sĩ Cronin nói.

Hồi tháng 11, Tổng thống Obama đã gặp ASEAN -10 trong chuyến thăm Singapore và  dự Hội nghị Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và đây là cuộc gặp đầu tiên của Tổng thống Mỹ với tất cả những người đứng đầu chính phủ các nước ASEAN. Và ngày 1 tháng 2, Nhà Trắng thông báo rằng Tổng thống sẽ  thăm Indonesia và Úc vào tháng ba.

Sự tham gia của Trung Quốc vào các dự án cơ sở hạ tầng mang tính hủy hoại

Báo cáo bằng văn bản của của tiến sĩ Cronin tại phiên điều trần phần lớn đề cập về quyết định của Trung Quốc xây tám đập thủy điện trên thượng nguồn sông Mekong, điều mà ông nói là sẽ có tác động tàn phá môi trường ở các nước hạ nguồn sông Mekong như Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam. Ông cũng quy lỗi cho các quốc gia hạ nguồn này có cái nhìn thiển cận khi theo đuổi sự phát triển không bền vững tác động đến môi trường với kế hoạch xây dựng 13 con đập trên dòng chính ở hạ nguồn sông Mekong

“… Các con đập ở dòng chính của cả thượng nguồn sông Mê Kông tại Trung Quốc lẫn hạ nguồn sông Mekong tại Lào, Thái Lan, Campuchia [và Việt Nam] sẽ có tác động không thể lường được đối với con người, an ninh lương thực và môi trường sống trong toàn bộ lưu vực sông Mekong”, Tiến sĩ Cronin nói. Việc bảo tồn các nguồn cá, điều mà nhiều dân chúng kiếm sống phụ thuộc vào, không tương ứng với các con đập chính.

Bình luận về viện trợ của Trung Quốc cho các nước Đông Nam Á, Ernest Z. Bower, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), cho biết:

“Thông thường, tài trợ của Trung Quốc được sử dụng vào các dự án không cần thiết,  phục vụ mục đích chính trị hơn là yêu cầu thực tế. Các dự án này chỉ mang lợi cho các chính trị gia bản địa hơn là các yêu cầu thực tế. “

 

Gary Feuerberg

21-02-2010

Người dịch: Phương Nga