Biển Đông ngày càng dậy sóng. Tháng trước, Trung Quốc bắt đầu tiến hành thăm dò địa chất trong Vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia (EEZ), và một tàu đánh cá của Việt Nam đã bị đâm chìm gần khu vực Quần đảo Hoàng Sa sau khi đối đầu với một tàu hải cảnh của Trung Quốc.

Một loạt phân tích gần đây đã nhấn mạnh rằng Trung Quốc đang lợi dụng những cơ hội mà đại dịch COVID-19 tạo ra để cải thiện vị thế của nước này ở Biển Đông, trong khi các quốc gia khác bị sao nhãng hoặc không thể phản ứng lại Trung Quốc. Ẩn ý quan trọng đằng sau những tuyên bố như vậy là: nếu không có đại dịch, Trung Quốc có thể sẽ hành động khác và có lẽ sẽ kiềm chế hơn.

Chiến lược Biển Đông của Trung Quốc không thay đổi

Trước khi đại dịch bùng phát, những động thái gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông là nhằm tìm cách khẳng định các quyền lợi lịch sử của nước này tại vùng biển trên. Tuy nhiên, quan điểm về quyền lợi lịch sử của Bắc Kinh xung đột với định nghĩa về vùng EEZ theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), trong đó quy định các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với những nguồn tài nguyên nằm trong khu vực rộng 200 hải lý tính từ đường bờ biển của quốc gia đó. Năm 2016, Tòa trọng tài thường trực (PCA) giải quyết vụ việc do Philippines khởi kiện đã ra phán quyết rằng bất kể tuyên bố nào về quyền lợi lịch sử ở Biển Đông (ám chỉ "đường chín đoạn" trên các bản đồ của Trung Quốc) đều vô giá trị.

Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã chỉ trích Trung Quốc không tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của các nước láng giềng. Vậy câu chuyện ở đây là gì?

Khi bác bỏ phán quyết của tòa PCA, Bắc Kinh lại càng quyết tâm hành động hơn bằng cách đưa ra một tuyên bố hiếm thấy để công khai khẳng định rằng "Trung Quốc có các quyền lợi lịch sử ở Biển Đông". Mặc dù Bắc Kinh vẫn chưa xác định nội hàm của những quyền lợi lịch sử này, song theo một nhà phân tích đáng tin cậy của Trung Quốc, có thể chúng bao gồm "quyền đánh bắt cá, quyền đi lại hàng hải và các quyền được ưu tiên khi khai thác các nguồn tài nguyên".

Để khẳng định các quyền lợi lịch sử này, trong những năm qua, Trung Quốc sử dụng ba căn cứ tác chiến tiền phương lớn mà nước này đã tạo ra trên các bãi đá ngầm ở Quần đảo Trường Sa thông qua hoạt động cải tạo quy mô lớn năm 2014-2015, nhằm tăng cường sự hiện diện và triển khai sức mạnh tại những vùng biển này.

Những tranh cãi gần đây nhất đã có từ trước khi đại dịch bùng phát

Tháng 12/2019, Bắc Kinh và Jakarta đã trực tiếp đối đầu nhau khi một đội tàu cá của Trung Quốc hoạt động gần đảo Natuna của Indonesia ở cực Tây Nam của Biển Đông. Tình thế đối đầu này kéo dài tới cuối tháng 1/2020, với việc các tàu hải cảnh của Trung Quốc hộ tống các tàu cá của nước này và các lực lượng vũ trang của Indonesia cùng thể hiện quyết tâm bảo vệ chủ quyền của mình.

Cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Indonesia chỉ là ví dụ mới đây nhất cho thấy có một cuộc cạnh tranh kéo dài hơn liên quan tới việc đánh bắt cá ở vùng biển này, vốn bắt đầu gia tăng từ năm 2016. Trung Quốc coi khu vực đó là ngư trường truyền thống của nước này. Tuy nhiên, vùng biển này nằm trong EEZ của Indonesia, điều đó có nghĩa rằng Jakarta có quyền chủ quyền duy nhất đối với các nguồn tài nguyên ở khu vực này theo quy định của luật pháp quốc tế.

Đợt đánh bắt cá mùa Xuân thường châm ngòi những căng thẳng mới

Ngày 2/4, một tàu cá của Việt Nam đang hoạt động gần đảo Phú Lâm thuộc Quần đảo Hoàng Sa thì bị đâm chìm sau khi đụng độ với một tàu hải cảnh của Trung Quốc. Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với khu vực Quần đảo Hoàng Sa - vốn đang bị Trung Quốc chiếm đóng kể từ năm 1974. Những thảm kịch kiểu như vậy thường xảy ra ở khu vực xung quanh quần đảo này, đặc biệt trong giai đoạn cao điểm của mùa đánh bắt cá mỗi khi vào Xuân. Ví dụ, tháng 3/2019, một tàu cá khác của Việt Nam đã bị đâm chìm vì đụng độ với một tàu thực thi pháp luật của Trung Quốc gần Đá Lồi. Vụ đụng độ mới nhất hồi tháng trước phản ánh những biến động có tính chu kỳ giữa Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực này, và quyết tâm đáp trả một cách cay nghiệt của Bắc Kinh.

Trung Quốc cũng can thiệp vào hoạt động khai thác dầu khí của các nước khác

Cũng trong tháng 4, tàu Hải dương Địa chất 8 - một tàu thăm dò địa chất của Trung Quốc - bắt đầu hoạt động trong EEZ của Malaysia với sự bảo vệ của các tàu hải cảnh nước này. Đây không phải là nỗ lực mới của Bắc Kinh nhằm khẳng định chủ quyền đối với nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí đốt. Năm 2017 và 2018, Trung Quốc từng gây sức ép nhằm buộc Việt Nam chấm dứt các hoạt động khai thác gần Bãi Tư Chính. Năm 2019, Trung Quốc đã điều các tàu hải cảnh đi tuần tra xung quanh, và đôi lúc quấy rối các hoạt động khoan thăm dò trong EEZ của Việt Nam và Malaysia. Trên thực tế, chính tàu Hải dương Địa chất 8 này đã từng tiến hành thăm dò bên trong vùng EEZ của Việt Nam từ đầu tháng 7 tới cuối tháng 10/2019.

Một nhân tố khác đó là việc Malaysia tăng cường các hoạt động khai thác dầu mỏ và khí đốt kể từ mùa Thu năm ngoái. Tháng 10/2019, giàn khoan West Capella của Công ty dầu khí quốc doanh Petronas của Malaysia đã bắt đầu hoạt động ở nhiều lô dầu trong vùng EEZ và thềm lục địa của Malaysia. Tháng 12/2019, Malaysia đã đệ trình lên Liên hợp quốc yêu cầu xin công nhận thềm lục địa mở rộng ở vùng trung tâm của Biển Đông, theo đó bao phủ vùng đáy biển của toàn bộ khu vực Quần đảo Trường Sa và trực tiếp thách thức các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.

Phản ứng của Trung Quốc cũng giống với phản ứng của nước này đối với Việt Nam hồi năm 2019. Bắt đầu từ tháng 12/2019, các tàu hải cảnh của Trung Quốc tuần tra xung quanh giàn khoan West Capella, và đôi khi còn hăm dọa các tàu dịch vụ. Sau đó, đến giữa tháng 4/2020, tàu Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc bắt đầu hoạt động khảo sát trong EEZ của Malaysia, gần nơi West Capella đang khoan thăm dò.

Cũng trong tháng 4, Bộ Dân chính Trung Quốc tuyên bố thành lập hai quận hành chính mới ở cái được gọi là thành phố Tam Sa - được Bắc Kinh thành lập năm 2012 để quản lý các đảo và vùng biển ở Biển Đông. Đặt trên đảo Phú Lâm, "quận Tây Sa" sẽ quản lý Quần đảo Hoàng Sa cũng như bãi ngầm Macclesfield và bãi cạn Scarborough. Đặt trên Đá Chữ Thập, "quận Nam Sa" sẽ quản lý quần đảo Trường Sa. Mặc dù có thể là điển hình của chủ nghĩa cơ hội, song có vẻ như Bắc Kinh thành lập hai quận mới này để thể hiện rằng "quyết tâm và ý chí bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là điều không thể lay chuyển".

Liệu sẽ có thêm những động thái như vậy?

Xem xét tổng thể, những động thái của Trung Quốc ở Biển Đông phản ánh sự tiếp nối của các hành động trước đó, không phải là chủ nghĩa cơ hội. Tương tự như vậy, bất chấp đại dịch COVID-19, những gì mà Mỹ đang làm hiện nay tại khu vực cũng phản ánh một sự tiếp nối. Kể từ tháng 1/2020, Hải quân Mỹ đã triển khai 4 chiến dịch tự do hàng hải xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và Hải quân Mỹ cũng công bố việc các tàu chiến của Mỹ đã 3 lần qua lại khu vực Eo biển Đài Loan vào tháng 1, tháng 2 và tháng 4/2020. Cả hai động thái này dường như phù hợp với nhịp độ hoạt động của Mỹ tại khu vực trước khi đại dịch xảy ra.

Vậy điều gì giải thích cho những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông trong bối cảnh đại dịch đang hoành hành? Trung Quốc có thể coi việc thúc đẩy những tuyên bố chủ quyền của họ quan trọng hơn việc tạm dừng lại để tập trung vào đối phó với đại dịch hay cải thiện quan hệ với các nước khác. Ngoài ra, do tư duy chiến lược của Trung Quốc luôn cân nhắc sự tương quan giữa bạo loạn ở trong nước với các thách thức ở bên ngoài, nên các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể đã cho rằng bất cứ việc tạm dừng hành động ở Biển Đông có thể sẽ phát đi tín hiệu thể hiện sự yếu đuối hay sự thay đổi giới hạn đáy của Bắc Kinh trong vấn đề Biển Đông.

M. Taylor Fravel, Giáo sư Khoa học Chính trị, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu An ninh tại Viện Công nghệ Massachusetts. Bài viết được đăng trên The Washington Post.

Minh Anh (gt)