Tuyên bố của quan chức Mỹ

Ngày 1/9, cùng ngày luật của Trung Quốc có hiệu lực, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Ned Price khi được hỏi về vấn đề này đã khẳng định các nước nên có quy định chung trên biển và nhấn mạnh trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Theo ông Price, Mỹ luôn nhấn mạnh quan điểm này với Trung Quốc và đồng minh và đối tác, và Washington đã nhiều lần không ngại cùng các đồng minh và đối tác lên tiếng phản đối những yêu sách quá mức và bất hợp pháp của Trung Quốc.

Cũng trong ngày 1/9, Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Mỹ John Supple khi trả lời tờ Stars & Stripes đã khẳng định rằng cách yêu sách bất hợp pháp và bành trướng là “mối đe dọa nghiêm trọng” đối với tự do hàng hải và thương mại, cũng như đối với quyền lợi và lợi ích của các nước ven Biển Đông và các quốc gia ven biển khác. Ông Supple cũng khẳng định rằng quy định của quốc gia ven biển không được vi phạm các quyền mà tất cả các quốc gia được hưởng theo luật pháp quốc tế.

Ngày 2/9, Trung tá Lục quân Martin Meiners khẳng định với Stars & Stripes Mỹ sẽ tiếp tục hoạt động trên biển và trên không "ở bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép."

Ngày 3/9, Phó Đô đốc Tuần duyên Mỹ Michael McAllister khi trả lời báo chí cũng đưa ra nhận định rằng luật của Trung Quốc đi ngược lại thỏa thuận và thông lệ quốc tế. Theo ông McAllister, điều này rất đáng lo ngại vì những luật đó, nếu được thực thi, sẽ tạo nền tảng cho bất ổn và xung đột." Phó Đô đốc McAllister cũng đánh giá Biển Đông là “cao tốc trên biển,” và cho biết các quốc gia ngày càng quan tâm đến hợp tác tuần duyên với Mỹ để bảo bảo đảm an toàn hàng hải do lo ngại về hành động cưỡng ép của Trung Quốc nhưng thiếu năng lực để đối phó.

Những điểm đáng chú ý

Nếu so sánh với phản ứng của Mỹ khi Trung Quốc áp dụng luật hải cảnh (cho phép bắn đạn thật vào tàu nước ngoài) hồi đầu năm 2021, các tuyên bố này có một số điểm đáng chú ý.

Thứ nhất, về thời gian, Mỹ đưa ra chỉ trích nhanh hơn rất nhiều, ngay cùng ngày luật của Trung Quốc có hiệu lực. Lần trước, Trung Quốc đưa ra luật hải cảnh từ cuối năm 2020, có hiệu lực ngày 1/2/2021 nhưng Mỹ ngày 19/2 (sau hơn 2 tuần luật có hiệu lực) mới đưa ra tuyên bố. Mỹ cũng chỉ đưa ra phản ứng đối với Luật hải cảnh của Trung Quốc sau khi các nước như Nhật Bản, Philippines hay Việt Nam đã lên tiếng.

Thứ hai, về hình thức, phản ứng của Mỹ có phần gián tiếp hơn. Với luật hải cảnh của Trung Quốc, Mỹ phản ứng chủ yếu từ phía Bộ Ngoại giao: Trong cuộc họp báo ngày 19/2, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Ned Price bày tỏ “lo ngại” về ngôn ngữ trong luật hải cảnh; đến ngày 16/3, Ngoại trưởng Blinken tiếp tục bày tỏ quan ngại với những diễn biến “gây rối” như luật hải cảnh của Trung Quốc... Phản ứng trước luật hàng hải của Trung Quốc lần này từ phía Bộ Ngoại giao Mỹ mới chỉ dừng lại ở cấp Người phát ngôn, các tuyên bố còn lại đều tới từ các quan chức quốc phòng.

Ngoài ra, phản ứng của Bộ Ngoại giao chỉ được “cài” trong phần trả lời câu hỏi của phóng viên thay vì trong tuyên bố riêng rẽ như lần trước. Các tuyên bố của các quan chức quốc phòng cũng được đưa ra dưới hình thức trả lời qua thư điện tử với các báo thay vì có tuyên bố hay họp báo chính thức.

Về nội dung, hầu hết các tuyên bố của Mỹ không trực tiếp nhắc tới luật mới của Trung Quốc mà chỉ đề cập đến các quy định về tự do hàng hải trong luật quốc tế nói chung, khác với các tuyên bố chỉ trích trực tiếp luật hải cảnh (Phó Đô đốc McAllister là người duy nhất nhắc đến luật này). Phát ngôn của Ned Price cũng tỏ mềm mỏng hơn so phát ngôn từ phía các quan chức quân đội Mỹ. Đáng chú ý, Ned Price cũng né tránh trả lời câu hỏi của giới truyền thông về vấn đề liệu chính phủ Trung Quốc có trao đổi trực tiếp với Mỹ về luật an toàn hàng hải mới hay không.

Bên cạnh đó, phản ứng lần này của Mỹ cũng không nhấn mạnh vào việc phối hợp lập trường với các đồng minh - đối tác như lần trước. Sau khi luật hải cảnh có hiệu lực vào tháng 2/2021, giới chức Mỹ đã nhấn mạnh Mỹ "đồng lòng với Việt Nam, Nhật và các nước láng giềng" trong quan ngại về vấn đề này. Thậm chí, câu chuyện luật hải cảnh của Trung Quốc còn được đưa vào họp Bộ trưởng Ngoại giao các nước Quad ngày 18/3. Lần này, phản ứng của quan chức Mỹ đối với luật hàng hải của Trung Quốc chủ yếu dừng lại ở việc nhấn mạnh quyền tự do hàng hải theo quy định của Công ước luật biển UNCLOS 1982.

Có nhiều lý do để giải thích cách phản ứng gián tiếp hơn, cả về phương thức và nội dung, của Mỹ lần này. Mỹ có thể không coi luật hàng hải mới có hiệu lực của Trung Quốc là vấn đề nghiêm trọng như luật hải cảnh trước đó của nước này vì luật chỉ yêu cầu thông báo thông tin, chưa cụ thể về các hình thức đáp trả bằng vũ trang... Thứ hai, Mỹ cũng có thể coi luật là nghiễm nhiên trái với UNCLOS nên không muốn gây thêm chú ý vào động thái của Trung Quốc, tránh gián tiếp tuyên truyền cho luật này, gây hoang mang cho các lực lượng và tàu bè Mỹ. Thứ ba, ta cũng không nên loại trừ khả năng Bộ Ngoại giao Mỹ sẽ có những phát ngôn về luật này về sau (như Ngoại trưởng Blinken đã làm sau khi luật hải cảnh Trung Quốc có hiệu lực hơn một tháng).

Bên cạnh đó, quân đội Mỹ cũng có thể "phớt lờ" luật của Trung Quốc, tương tự như động thái của Mỹ khi Trung Quốc tuyên bố Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) tại biển Hoa Đông. Hồi tháng 11/2013, Bắc Kinh yêu cầu các nước phải thông báo hoạt động khi bay vào vùng ADIZ mà Trung Quốc thiết lập (tương tự luật lần này). Đáp lại, Mỹ ngay trong tháng 11/2013 đã điều máy bay ném bom vào vùng Trung Quốc tuyên bố ADIZ mà không thông báo. Mỹ sau đó cũng có nhiều hành động ủng hộ Nhật và Hàn Quốc khi các nước này tuyên bố phản đối hoặc điều máy bay vào vùng Trung Quốc tuyên bố ADIZ.

Dù mức độ ảnh hưởng của luật an toàn hàng hải Trung Quốc có thể nghiêm trọng đến đâu thì bước đi này của Bắc Kinh vẫn cần được theo dõi sát sao. Đây vẫn là hành động trái với luật về tự do hàng hải trong UNCLOS với nhiều mập mờ về phạm vi áp dụng[1]. Một số dấu hiệu gần đây cũng cho thấy Trung Quốc có thay đổi trong cách tiếp cận pháp lý đối với việc xác lập các yêu sách Biển Đông (hạn chế sử dụng "Đường Chín đoạn" hơn trước kia, dùng những ngôn ngữ gần với UNCLOS hơn). Điều này có thể cho thấy Trung Quốc đang đặt ra “bài toán thử” mới đối với Mỹ, đòi hỏi Mỹ phải có sự thận trọng nhất định để đối phó hiệu quả.

Đỗ Hoàng, nghiên cứu viên Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.



[1] Không loại trừ khả năng Trung Quốc "cố ý" chưa nêu cụ thể định nghĩa "lãnh hải" và đối tượng tàu áp dụng để linh hoạt điều chỉnh sau này