Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã tuyên bố với 10 nước thành viên ASEAN trong Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) rằng những tranh chấp xung quanh vùng Biển Đông hết sức nhạy cảm là một "ưu tiên ngoại giao hàng đầu" và hiện có ý nghĩa rất "quan trọng đối với an ninh trong khu vực". Lời tuyên bố của bà Hillary đã được đưa ra trong bối cảnh cuộc tranh cãi về vụ tàu hộ tống Cheonan của Hàn Quốc bị đánh chìm hồi tháng Ba còn đang sôi nổi. Mỹ và Hàn Quốc tố cáo Bắc Triều Tiên đánh chìm con tàu này, nhưng Trung Quốc vẫn đứng ngoài và từ chối ủng hộ việc trừng phạt hơn nữa đối với Bình Nhưỡng.


Bối cảnh này chắc chắn góp phần vào mối quan tâm ngày càng tăng ở Bắc Kinh, như đã được giải thích bởi Bộ trưởng Ngoại giao Dương Khiết Trì, người đã lên tiếng mạnh mẽ phản đối tuyên bố của bà Hillary. Các nhà ngoại giao có mặt tại các cuộc thảo luận ở Hà Nội đồng ý rằng ông Dương Khiết Trì đã đáp trả bằng một tuyên bố mạnh mẽ và cảm tính vốn có vẻ mang tính phòng thủ và cho rằng Mỹ đã có âm mưu đánh động đúng lúc vào Trung Quốc.


Trung Quốc đã có cuộc đụng độ vũ trang gần đây nhất với Việt Nam hồi năm 1988 vì một quần đảo trong vùng biển này. Cả hai nước Trung Quốc và Việt Nam đều khẳng định quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trong vùng Biển Đông là toàn bộ của mình, trong khi Philíppin, Malaixia và Brunây tuyên bố quần đảo Trường Sa là một phần của họ. Khẳng định của Đài Loan cũng giống như của phía Bắc Kinh. Các quần đảo này giàu có về dầu mỏ và khí tự nhiên, cả hai nhóm đảo cũng nằm ở tuyến đường biển quan trọng nối châu Á với châu Âu, Trung Đông và châu Phi.


Các tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary có thể được coi như một phần của chiến lược nhằm thúc ép Trung Quốc trên nhiều mặt, từ vụ Bắc Triều Tiên đến vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, không phải tất cả đều di chuyển trệch hướng giữa Trung Quốc và Mỹ ở châu Á. Thực tế là, Oasinhtơn có thể đã có phần trong sự thành công chính trị của Bắc Kinh trong khu vực.


Những năm gần đây, Bắc Kinh đã cải thiện rất nhiều trong mối quan hệ với Đài Loan – hòn đảo này là một phần của "một nước Trung Quốc". Đảng cầm quyền Đài Loan, Quốc Dân Đảng (KMT), đã ký kết một thỏa thuận thương mại tự do với Bắc Kinh, vốn sẽ gắn kết nền kinh tế của Đài Loan với Đại lục, đồng thời mức ủng hộ cho Tổng thống Mã Anh Cửu của Đài Loan hiện nay đang lên rất cao. Quốc Dân Đảng đã từng là đồng minh chính của Mỹ ở châu Á trong khoảng 80 năm nay và chắc chắn rằng các bước đi của ông Mã về phía Bắc Kinh đã không thể không được thảo luận và sự nhất trí từ Oasinhtơn.


Đài Loan là vùng lãnh thổ cực kỳ nhạy cảm đối với Trung Quốc: vùng lãnh thổ này thể hiện chủ đề của vấn đề quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, và là một mũi nhọn thúc ép vào cốt lõi niềm tự hào yêu nước của Trung Quốc. Vùng Biển Đông là việc khác, và trong thực tế Trung Quốc đã từng có cả một thập kỷ từ bỏ khả năng cuỡng chế khẳng định chủ quyền của mình trong vùng biển này và cho thấy một sự cởi mở đến các nguyên tắc phát triển chung của khu vực. Thực tế ấy có nghĩa là Trung Quốc chấp nhận rằng mọi việc sẽ cứ ở mức độ chưa ngã ngũ và tránh được việc khởi phát một cuộc chiến tranh với bất kỳ nước láng giềng nào của mình vào bất cứ lúc nào.


Tuy nhiên, từ quan điểm của Trung Quốc, mọi điều đã rất phức tạp ở vùng Biển Đông, và sự can thiệp của Mỹ sẽ làm phức tạp hơn nữa. Đối với Bắc Kinh, điều ấy có nghĩa là ngay cả khi vấn đề Đài Loan được giải quyết bằng cách nào đó và thậm chí nếu Bắc Kinh từ bỏ sự ủng hộ Bắc Triều Tiên, Trung Quốc và Mỹ vẫn có thể còn tồn tại tranh chấp về các vấn đề rất hóc búa khác. Nếu không, phải chăng lời tuyên bố của bà Hillary là một phần của động thái lớn hơn của Mỹ nhằm buộc Trung Quốc phải tỏ rõ quan điểm trong các chương trình nghị sự quốc tế tế nhị, chẳng hạn như các vấn đề Bắc Triều Tiên, Iran và Ápganixtan?


Khẳng định của Trung Quốc trên Biển Đông là một kế hoạch của Bắc Kinh về các đại dương, một lời hẹn ước nghìn năm của việc thay đổi vận mệnh Trung Quốc và đi theo một chiến lược từng bị lãng quên của Đô đốc Trịnh Hòa vào thế kỷ 15 để có thể đi lại và làm chủ các đại dương. Trung Quốc theo đuổi tham vọng hải quân trên biển phần lớn nhờ vào các yêu cầu khẳng định chủ quyền của họ trên các vùng quần đảo và bãi đá ở vùng nhiệt đới này.


Những tham vọng này đã không thách thức được vị trí thống lĩnh tổng thể của Mỹ trong các đại dương trong nhiều thập kỷ. Trung Quốc sẽ phải cần nhiều năm để phát triển một lực lượng hải quân có khả năng đe dọa vai trò của Mỹ, và cho đến nay Trung Quốc vẫn chưa thể tự khẳng định vị trí của mình chống lại Mỹ trên các đại dương. Hơn nữa, sứ mệnh hải quân trên biển đầu tiên của Trung Quốc, chống lại hải tặc Xômali, đã được thực hiện trong khuôn khổ một thỏa thuận phối hợp với Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương. Tuy nhiên, hải quân Trung Quốc có thể trở thành một trở ngại cho hành động địa phương của Mỹ trong khu vực. Tại sao, vì thiếu vắng một thỏa thuận chính trị song phương rộng rãi, liệu Mỹ có cho phép điều này xảy ra hay không?


Trong nhiều phương diện, khẳng định của Trung Quốc trên Biển Đông chính là di sản của cuộc Chiến tranh Lạnh. Liên Xô đã chiếm hàng triệu km² ở những vùng lạnh giá phía bắc của bản đồ Trung Quốc từ thời nhà Thanh và thời Cộng hòa, bao gồm các bộ phận của Mông Cổ, Mãn Châu và Tân Cương. Tuy nhiên, Liên Xô đã chấp nhận và khuyến khích các khiếu nại về hàng hải của Mao Trạch Đông trên các khu vực đó, vốn từng bị thống trị bởi người Pháp ở Đông Dương và người Mỹ, chủ nhân của Philíppin vào những năm 1950.


Đặc biệt, trong nhiều năm qua, ước nguyện giành được Biển Đông của Trung Quốc đã trở thành một nước cờ chính trị bước đầu đối với Mỹ trong cuộc Chiến tranh Lạnh, đất nước sau đó đã can dự vào Việt Nam sau khi đánh bại Pháp và Việt Nam bị phân chia thành hai miền Nam-Bắc. Trên phương diện nào đó, việc Liên Xô mở rộng các lãnh thổ châu Á, đã bảo đảm được vị trí của họ trên cảng Vladivostok, đẩy Trung Quốc ra khỏi các khát vọng lãnh thổ từ thời cổ đại của họ ở phía Bắc vào một vùng biển mới không thể đo lường được ở phía Nam.


Ở những thập kỷ sau, những sự chia rẽ về chính trị đã thay đổi, trong khi địa lý chính trị vẫn tồn tại và mang một vai trò khác. Các mục tiêu của Trung Quốc trong Chiến tranh Lạnh, vốn đã phá vỡ sự tham gia của Mỹ ở Đông Dương và do đó đã hỗ trợ cho Hà Nội. Việt Nam đang sẵn sàng tìm sự hỗ trợ từ Mỹ, kẻ thù cũ, để chống lại Trung Quốc, người hàng xóm đe dọa mình từ thời cổ đại.


Chẳng hạn như, tại Hội nghị ASEAN, Ngoại trưởng Hillary đã ca ngợi Việt Nam là một quốc gia năng động và tuyệt vời. Lầu Năm Góc cũng đã ghi nhận các hành động của Trung Quốc với sự cảnh giác, đặc biệt là với những cảnh báo liên tục của Trung Quốc đối với các công ty dầu khí của Mỹ và các nước khác để họ rút bỏ các thỏa thuận thăm dò với Hà Nội ở vùng biển miền Nam Việt Nam. Các giám đốc điều hành của ExxonMobil - công ty dầu khí lớn nhất thế giới - đã bị các phái viên Trung Quốc tiếp cận, nói rằng việc kinh doanh của họ tại Trung Quốc sẽ bị tổn thương, trừ khi họ từ bỏ những thỏa thuận với Việt Nam.


Khi Bắc Kinh chấp nhận sự mặc cả của Mátxcơva, phải chăng họ đã bị sập bẫy của Liên Xô? Phải chăng Joseph Stalin, vô tình hay cố ý, đã tạo nên một cuộc xung đột về lãnh thổ trong tương lai vì các ảnh hưởng lâu đời của Mỹ và Trung Quốc trong vùng biển này? Các chuyên gia Trung Quốc bị cáo buộc đã mua một số chứng từ từ kho lưu trữ tài liệu của Liên Xô cho thấy Stalin đã hỗ trợ những bước đầu của việc hình thành nhà nước Ixraen chỉ nhằm để đặt ra một cái bẫy đối với Mỹ ở Trung Đông. Với sự tồn tại của nhà nước Ixraen, nước Mỹ, với một cộng đồng người Do Thái mạnh mẽ, sẽ bị ràng buộc để phải hỗ trợ Ixraen chống lại các quốc gia Arập láng giềng. Sau đó Liên Xô có thể thay đổi đồng minh và hỗ trợ người Arập - hoặc tối thiểu là sẽ gây khó chịu nước Mỹ thông qua các cuộc chiến tranh ủy nhiệm chống lại Ixraen.


Có phải Stalin, vì nghi ngờ sự nghiêng ngả của Mao để cộng tác với Mỹ, đã tung ra một cái bẫy tương tự đối với Trung Quốc và Mỹ tại Biển Đông? Đó sẽ là một trong những lý do hợp lý để Trung Quốc thoát khỏi các cạm bẫy cũ. Tuy nhiên, chính sách của Trung Quốc về sự mở cửa với cả thế giới và quyết định của họ đưa sự phát triển đến các vùng bờ biển và ra khỏi các con sông (nơi đã từng được định vị trong lịch sử) đương nhiên sẽ đòi hỏi một kế hoạch hướng về các đại dương và do đó vào vùng Biển Đông. Hơn nữa, khẳng định hiện thời của Bắc Kinh trong vùng Biển Đông đáp ứng được hai nhu cầu của Trung Quốc. Trước hết, khẳng định ấy ít nhất cũng hứa hẹn dập tắt được một phần cơn khát năng lượng của họ. Thứ hai, mở rộng được khu vực an ninh thương mại, mà nếu không sẽ hoàn toàn nằm trong tay của Mỹ, quốc gia duy nhất có thể bảo vệ các tuyến hàng hải trên toàn thế giới. Sau đó, có hoặc không có nhận xét của bà Hillary, Trung Quốc đã có nhiều khó khăn khách quan chồng chéo phía Nam của mình. Thực tế, vấn đề tổng thể chính ở chỗ Trung Quốc là tù nhân cho chính bản thân nền địa ký của họ - và có các tranh chấp lãnh thổ với tất cả các nước và vùng lãnh thổ sát biên giới của nước này.


Điều này trở nên phức tạp hơn vì các khẳng định của chính Trung Quốc ở phía Nam . Tất cả các nước láng giềng của Trung Quốc có thể có thiện cảm về một sự hiện diện của Mỹ trong khu vực khi Trung Quốc phát triển mạnh hơn và uy quyền hơn, với lý do đơn giản là một người bạn ở xa thì tốt hơn là một kẻ thù bên cạnh. Sau đó, một lần nữa, vấn đề của Trung Quốc là phát triển một chiến lược có khả năng giải quyết hoặc giảm bớt các tranh chấp lãnh thổ của mình và nhận thức được rằng sự hiện diện của Mỹ ở châu Á có khả năng là thường trực, vĩnh viễn. Thậm chí là nếu trong vòng 20 năm nữa, kinh tế Mỹ không đáp ứng được sự phát triển của mình nữa, các nước láng giềng của Trung Quốc và thậm chí ngay cả chính Trung Quốc cũng có thể sẵn sàng tài trợ cho Mỹ, để thay vào đó sẽ có được vai trò trọng tài theo hình thức trung lập. Điều này sẽ làm giảm bớt các tranh chấp và xung đột - một điều cần tiếp tục thực hiện trong nhiều thập kỷ nếu người châu Á muốn đạt được mức GDP bình quân đầu người của Mỹ.


Phải chăng Ngoại trưởng Hillary ám chỉ đến tương lai này hoặc chỉ đơn giản muốn “xát thêm ít muối” vào một trong nhiều vết thương đang chảy máu của Trung Quốc? Thực tế khó khăn đối với Trung Quốc là, không có sự hiện diện của Mỹ trong khu vực, những vết thương này vẫn có thể làm mủ nhanh hơn là có người Mỹ nhúng tay vào.