Bản PDF tại đây
Động thái của các quốc gia
+ Trung Quốc:
Trung Quốc tập trận bắn đạn thật trên Biển Đông. Ngày 28/7, không quân và hải quân Trung Quốc đã tiến hành các cuộc tập trận với sự tham gia của hơn 100 tàu chiến, hàng chục máy bay, các đơn vị tên lửa và lực lượng tác chiến thông tin. Cuộc diễn tập sử dụng rất nhiều loại pháo, tên lửa và ngư lôi. Trọng tâm của cuộc tập trận là thử nghiệm hệ thống phòng không và cảnh báo sớm của hải quân, đồng thời nâng cao khả năng phản ứng nhanh trong chiến đấu.
Trung Quốc quan ngại hành động của Mỹ ở Biển Đông. Trong buổi họp báo thường kỳ ngày 30/7, người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Dương Vũ Quân tuyên bố chuyến bay tuần tra mới đây của Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương trên Biển Đông làm gia tăng căng thẳng trong khu vực và dẫn đến nguy cơ các vụ đụng độ bất ngờ trên biển và trên không. Về bình luận của Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương Đô đốc Harry Harris rằng hoạt động cải tạo đất của Trung Quốc đang phá hủy môi trường biển, ông Dương cho hay: “Một số quan chức cấp cao của Mỹ đã nhiều lần đưa ra các bình luận vô trách nhiệm về vấn đề Biển Đông. Việc Trung Quốc xây dựng các đảo ở Biển Đông để thực hiện tốt hơn các trách nhiệm quốc tế và góp phần vào việc bảo vệ an ninh biển, hoàn toàn phù hợp với các yêu cầu và tiêu chuẩn bảo vệ môi trường. Chúng tôi kêu gọi Mỹ ngừng đưa ra các bình luận như vậy, vốn hoàn toàn là hành động đạo đức giả dưới vỏ bọc lẽ phải.”
Trung Quốc thúc đẩy du lịch trái phép tới Quần đảo Hoàng Sa. Giới chức Trung Quốc hy vọng con tàu du lịch thứ hai sẽ đi vào hoạt động trước cuối năm nay và đưa nhiều du khách tới các đảo. Trước đó, năm 2013 Trung Quốc đã triển khai tuyến du lịch từ Tam Á tới Quần đảo Hoàng Sa bằng tàu du lịch Coconut Princess. Cho đến nay hơn 10.000 khách du lịch đã tham gia tuyến du lịch này. Việt Nam nhiều lần phản đối các tour du lịch đến Hoàng Sa của Trung Quốc, đồng thời khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, cũng như Trường Sa.
Tàu cá Trung Quốc tràn ra đánh bắt ở Biển Đông. Gần 40.000 ngư dân và thủy thủ Trung Quốc đã nghỉ ngơi và sửa sang tàu thuyền trong thời gian nước này đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông từ ngày 16/5. Sau khi Trung Quốc dỡ bỏ lệnh cấm vào ngày 1/8, khoảng 9.000 tàu cá nước này từ tỉnh Hải Nam đã đổ ra Biển Đông để đánh bắt. Lệnh cấm đánh bắt trên được Trung Quốc đơn phương áp đặt lần đầu tiên vào năm 1999 bất chấp sự phản đối của nhiều nước.
+ Philippines:
Philippines tố cáo Trung Quốc nạo vét ở Biển Đông. Phát biểu trong một Diễn đàn tổ chức tại Tổng hành dinh của quân đội Philippines ở Quezon hôm 29/7, thẩm phán Tòa án Tối cao Philippines ông Antonio Carpio tố cáo để có vật liệu bồi đắp 7 thực thể mà Trung Quốc đang chiếm đóng ở Quần đảo Trường Sa, nước này đã tiến hành nạo vét 10 rạn san hô và bãi cạn khác ở Biển Đông. Theo ông Carpio, Tòa Trọng tài ITLOS cần xét xử vụ kiện của Philippines để bảo vệ tính toàn vẹn của Công ước Luật Biển, “Nếu chúng ta không sử dụng UNCLOS thì Công ước đối với các vùng biển và đại dương không thể áp dụng cho bất kỳ tranh chấp biển nào khác. Đó chắc hẳn báo hiệu sự sụy đổ của UNCLOS khi các nguyên tắc trên biển được thiết lập bởi tàu chiến.”
Philippines muốn lập đường dây nóng trên biển với Việt Nam. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Philippines ông Proceso Alcala hôm 26/7 cho biết đường dây nóng thường xuyên là điều cần thiết để Philippines và Việt Nam có thể trao đổi những vấn đề phát sinh trên biển. Vấn đề này từng được đề cập trong thỏa thuận hợp tác thủy sản giữa hai nước ký kết hồi năm 2009. Theo ông Alcala, giới chức hai bên sẽ có cuộc họp bàn chi tiết về việc thiết lập đường dây nóng trước khi trình cho bộ chủ quản hai nước. Dự kiến kế hoạch này sẽ được triển khai vào cuối năm nay.
+ Nhật Bản:
Nhật Bản có thể tiến hành hoạt động rà phá mìn ở Biển Đông. Phát biểu trong buổi giải trình hôm 29/7 trước một ủy ban đặc biệt của Thượng viện Nhật Bản, Thủ tướng Shinzo Abe tuyên bố: “Chúng ta sẽ cân nhắc hoạt động đó nếu tình hình đáp ứng đủ 3 điều kiện (về sử dụng vũ lực theo Luật phòng vệ tập thể của Nhật Bản).” Quân đội Nhật Bản vừa cùng Mỹ tham gia một cuộc diễn tập gỡ mìn ở vịnh Mutsu, miền bắc Nhật Bản. Thủ tướng Abe muốn mở rộng hoạt động tháo gỡ mìn sang khu vực khác như bán đảo Triều Tiên, eo biển Hormuz và Biển Đông.
+ Mỹ:
Mỹ kêu gọi EU lên tiếng mạnh mẽ trong vấn đề Biển Đông. Trong buổi thảo luận về chính sách của Mỹ và EU tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế hôm 29/7, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phụ trách Nam Á và Đông Nam Á bà Amy Searight cho biết Washington hoan nghênh việc EU kêu gọi một giải pháp hòa bình cho tranh chấp biển và yêu cầu các nước tôn trọng luật pháp quốc tế, “Sẽ rất hữu ích nếu EU có thái độ rõ ràng hơn khi ủng hộ những nguyên tắc này. Một giải pháp mang tính tích cực, chẳng hạn như đề xuất tạm dừng việc xây dựng và quân sự hóa đảo nhân tạo, có thể sẽ đem lại hiệu quả.” Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách khu vực Đông Á Michael Fuchs thì cho rằng việc giảm thiểu các nguy cơ xung đột tại Biển Đông là điều cấp thiết, “Điều cần làm là dám thẳng thắn phát biểu khi chúng ta gặp các vấn đề đáng lo ngại.”
Tư lệnh PACOM Mỹ cáo buộc Trung Quốc phá hủy môi trường Biển Đông. Phát biểu tại Diễn đàn an ninh ở Colorado (Mỹ), Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ Đô đốc Harry Harris cảnh báo việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo ở Biển Đông không chỉ là hành động “tuyên bố chủ quyền sai trái” mà còn tổn hại nghiêm trọng đến môi trường biển, “Hành động của Trung Quốc gây ra tổn hại vĩnh viễn các rạn san hô với tốc độ nhanh nhất trong lịch sử loài người. Toàn bộ diện tích đất cải tạo được của các bên tranh chấp khác là khoảng 100 mẫu Anh trong vòng 45 năm chẳng thấm gì so với quy mô và tốc độ xây dựng mà Trung Quốc đang tiến hành. Trong 18 tháng, Trung Quốc đã cải tạo được gần 3.000 mẫu Anh.” Đô đốc Harris nhấn mạnh, “Mỹ kêu gọi giải pháp hòa bình cho tranh chấp Biển Đông và các bên cần chấm dứt các hoạt động đơn phương thay đổi nguyên trạng. Mỹ kêu gọi Trung Quốc sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế và tuân thủ các phán quyết như nhiều quốc gia khu vực đã làm.”
+ Úc:
Cựu Thủ tướng Úc bác bỏ khả năng chiến tranh Mỹ - Trung ở Biển Đông. Phát biểu trong một chương trình đối thoại trên kênh truyền hình CNN, cựu Thủ tướng Úc Kevin Rudd ngày 27/7 tuyên bố, “Có một động lực ngầm đối với Mỹ và Trung Quốc đó là không bên nào muốn xảy ra một sự cố nghiêm trọng bùng phát thành xung đột khu vực. Đối với Trung Quốc, để xảy ra xung đột sẽ là bước lùi với nhiều chương trình ưu tiên của họ, bao gồm việc cải cách nền kinh tế. Và thứ hai là nếu họ gây ra xung đột với Mỹ, những người thực tế trong PLA biết rõ rằng Trung Quốc nhiều khả năng sẽ là bên thua cuộc. Còn theo quan điểm của Mỹ, Mỹ có nhiều ưu tiên chiến lược trên toàn cầu và không có lợi ích cụ thể nào khi lao vào một cuộc chiến, dù là vô tình hay cố ý ở Châu Á.” Ông Rudd hiện là chủ tịch Viện Chính sách Xã hội Châu Á có trụ sở đặt tại New York.
Quan hệ các nước
Việt Nam - Anh quan ngại về thay đổi hiện trạng ở Biển Đông. Trong chuyến thăm Việt Nam từ ngày 29 đến 30/7, Thủ tướng Anh David Cameron đã có cuộc hội đàm với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Về quan hệ song phương, hai Thủ tướng hoan nghênh những bước phát triển sâu rộng trong quan hệ hợp tác giữa hai nước, đặc biệt trong các lĩnh vực chính trị-ngoại giao, thương mại-đầu tư… Về vấn đề Biển Đông, hai bên bày tỏ quan ngại về tình hình căng thẳng gần đây, đặc biệt là các hoạt động xây dựng trên quy mô lớn, thay đổi nguyên trạng các bãi đá ngầm ở Biển Đông. Hai bên nhấn mạnh lập trường chung về việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ bằng các biện pháp hòa bình, không có các hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ UNCLOS 1982, DOC và phấn đấu sớm tiến tới COC.
Hải quân Liên bang Nga thăm hữu nghị thành phố Đà Nẵng. Sáng 31/7, đội tàu thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Liên bang Nga gồm 3 tàu là tàu chống ngầm (BPK) “Đô đốc Pantelev”, Tàu chở dầu (SMTN) “Pechenga” và tàu cứu-kéo “SB- 522” đã cập cảng Tiên Sa, bắt đầu chuyến thăm hữu nghị thành phố Đà Nẵng từ ngày 31/7 đến 2/8/2015. Chuyến thăm lần này của đội tàu thuộc nhằm tăng cường quan hệ hợp tác quốc phòng song phương giữa quân đội hai nước nói chung, hợp tác giữa hải quân hai nước nói riêng. Ngoài ra, sỹ quan và thủy thủ đoàn có điều kiện nghỉ ngơi, bổ sung hậu cần.
Thủ tướng Anh và Tổng Thư ký ASEAN trao đổi về Biển Đông. Ngày 27/7, Thủ tướng Anh David Cameron đã có chuyến thăm lịch sử đến Ban Thư ký ASEAN. Tổng Thư ký ASEAN nêu rõ mối quan tâm của Vương quốc Anh trong việc tăng cường quan hệ kinh tế với ASEAN là phù hợp với xu hướng phát triển của khối hướng tới hội nhập kinh tế mạnh mẽ hơn. Thủ tướng Cameron đánh giá cao những tiến bộ đạt được trong việc thành lập Cộng đồng ASEAN sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho khu vực. Về tình hình ở Biển Đông, hai nhà lãnh đạo nhất trí về tầm quan trọng của các nỗ lực hướng tới một giải pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982 và nguyên tắc sáu điểm của ASEAN về Biển Đông.
ASEAN - Trung Quốc tìm biện pháp đẩy mạnh việc triển khai DOC. Ngày 29/7, Hội nghị quan chức cấp cao (SOM) ASEAN - Trung Quốc về thực thi DOC ở Biển Đông lần thứ 9 đã diễn ra tại Thiên Tân, Trung Quốc. Hội nghị do Bí thư thường trực Bộ Ngoại giao Thái Lan Noppadon Theppitak và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân đồng chủ trì. Tại hội nghị, các quan chức cấp cao ASEAN và Trung Quốc đã kiểm điểm tình hình triển khai DOC, thảo luận các biện pháp đẩy mạnh tiến trình tham vấn giữa ASEAN và Trung Quốc nhằm tiến tới COC, và chuẩn bị cho các nội dung liên quan sẽ được thảo luận tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN-Trung Quốc và cuộc họp sau Hội nghị Bộ trưởng vào đầu tháng tám tới.
ASEAN và Trung Quốc muốn thiết lập “đường dây nóng” về các tranh chấp. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Philippines ông Charles Joe hôm 2/8 cho hay trong cuộc gặp giữa các quan chức ngoại giao cấp cao Trung Quốc và ASEAN ở Thiên Tân vào tuần trước, hai bên đã thảo luận về việc thiết lập “đường dây nóng” đối với các vụ việc khẩn cấp trên biển, “Mặc dù hai bên nhất trí trên nguyên tắc đây là một biện pháp thu hoạch sớm nhưng việc triển khai cần thảo luận thêm. Theo ông Charles Joe, kế hoạch trên sẽ được không được đưa ra thảo luận tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 48 sắp tới.
Phân tích và đánh giá
“Năm câu hỏi về Biển Đông mà các ứng cử viên tổng thống Mỹ phải trả lời” của Jim Talent, Lindsey R. Neas
Là một khu vực rất quan trọng đối với Mỹ, đồng minh và các quốc gia khu vực, những hành động của Trung Quốc cả về quân sự, ngoại giao, kinh tế ở Biển Đông đặt ra năm câu hỏi lớn về mức độ can dự quân sự mà mọi ứng cử viên Tổng thống Mỹ phải trả lời.
1. Biển Đông đóng vai trò như thế nào đối với Mỹ, đồng minh và với Trung Quốc?
Lợi ích quốc gia của Mỹ, đồng minh cũng như các quốc gia ở Biển Đông là hoạt động qua lại, thương mại ở những vùng biển quốc tế. Kiểm soát được Biển Đông đồng nghĩa với việc biến khu vực này thành nút thắt cổ chai cả về thương mại và quân sự. Hiện tại Trung Quốc đang thực hiện ý đồ này.
2. Việc Trung Quốc chiếm đóng, cải tạo đảo và biến chúng thành các tiền đồn quân sự có ý nghĩa như thế nào?
Chiến thuật của Trung Quốc là thể hiện bằng sức mạnh cứng, rút lui nếu đối thủ tỏ ra quyết đoán nhưng lấn tới nếu đối thủ tỏ ra mềm yếu. Điều này được chứng tỏ qua sự kiện Trung Quốc chiếm đóng Đá Vành Khăn mà không vấp phải bất cứ hành động cụ thể nào ngoài những phản đối sáo rỗng của Mỹ. Hành vi cưỡng đoạt và quân sự hóa các thực thể của Trung Quốc đe dọa trực tiếp đến chính sách quản trị lợi ích chung của Mỹ kể từ sau Thế Chiến thứ hai. Rõ ràng hành vi của Trung Quốc đi ngược với chuẩn mực quốc tế. Ý định của nhà cầm quyền Trung Quốc là tái cấu trúc lại hệ thống quốc tế, trong đó Trung Quốc giữ vai trò trung tâm.
3. Các Ứng cử viên nhìn nhận như thế nào về nhân tố an ninh trong chính sách tái cân bằng của Tổng thống Obama?
Ít nhất cũng có thể hiểu rằng, chính sách này của chính quyền Obama là nhằm tăng cường lực lượng ở Tây Thái Bình Dương. Tuy nhiên, so với chương trình hải quân và tổng thể quy mô phát triển quân đội của Trung Quốc thì số tàu chiến mà Mỹ dự định bổ sung hoàn toàn không cân xứng. Năng lực quân sự của Mỹ đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các vấn đề nổi cộm trên thế giới. Nếu ở Biển Đông, Mỹ không có đủ năng lực cần thiết thì ưu thế về kinh tế và ngoại giao sẽ bị suy giảm.
4. Hiểu như thế nào về quy mô hiện đại hóa, phát triển quân sự, đặc biệt là về hải quân của Trung Quốc?
Quy mô hiện đại hóa, phát triển quân sự của Trung Quốc tập trung vào sức mạnh hải quân, tên lửa đạn đạo, phát triển lực lượng hạt nhân trên biển và trên đất liền, tăng cường năng lực chống vệ tinh với khả năng phá hủy vệ tinh của Mỹ và phát triển năng lực không gian. Do đó, Mỹ cần tập trung vào chương trình hải quân của Trung Quốc.
5. Cần điều chỉnh chính sách Biển Đông của Mỹ như thế nào?
Mỹ phải duy trì đủ lực lượng để khẳng định cam kết của mình. Quy mô và cấu trúc các hạm đội phải đủ khả năng đối phó sự phát triển của đối thủ. Các lực lượng còn lại phải đủ số lượng và được duy trì ở mức độ cần thiết, sẵn sàng hỗ trợ cho khu vực Tây Thái Bình Dương và các khu vực khác khi có lệnh.
Tóm lại, Mỹ cần phải tăng cường ngân sách đóng thêm tàu cũng như khuyến khích các đồng mình của mình làm điều tương tự.
“Trục biển Toàn cầu: Chiến lược phát triển mới của Indonesia dưới thời Widodo” của Tuấn Hà
Tại Hội nghị Cấp cao Đông Á lần thứ 9 tổ chức tháng 11/2014 tại Myanmar, Tổng thống Indonesia (khi đó mới đắc cử) Joko Widodo chính thức công bố sáng kiến Trục biển toàn cầu (Global Maritime Fulcrum - GMF). Với sáng kiến này, Indonesia sẽ theo đuổi một chiến lược lấy biển cả làm trung tâm phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh, và xây dựng văn hóa.
Indonesia là một quốc gia quần đảo rộng lớn trên thế giới. Về kinh tế, hệ thống giao thông vận tải Indonesia chịu sự chi phối mạnh của đặc tính quốc gia quần đảo. Về an ninh quân sự, vùng biển của Indonesia tiếp xúc với 10 nước khác nhau, nằm giữa hai đại dương lớn là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, giữa Châu Á và Châu Úc. Đặc điểm này khiến Indonesia dễ bị tổn thương trước những thách thức an ninh truyền thống cũng như phi truyền thống trên biển. Về xã hội, phân hóa giữa khu vực phía Tây phát triển hơn với phần phía Đông nghèo khó và hạ tầng yếu kém của Indonesia ngày càng gia tăng.
Sáng kiến GMF bao gồm 5 trụ cột. Thứ nhất, xây dựng lại nền văn hoá biển của Indonesia. Thứ hai, Indonesia sẽ bảo vệ và quản lý tài nguyên biển, trong đó tập trung vào việc thiết lập chủ quyền đối với các thực phẩm có xuất xứ từ biển. Thứ ba là ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng và kết nối trên biển bằng cách xây dựng các trạm thu phí trên biển và cảng biển nước sâu, đồng thời cải thiện ngành công nghiệp vận chuyển, hậu cần và du lịch biển. Thứ tư, thông qua ngoại giao biển, Indonesia kêu gọi tất cả đối tác của mình cùng hợp tác biển. Thứ năm, Indonesia phải xây dựng sức mạnh quốc phòng trên biển của mình.
Về những hệ lụy đối với khu vực. Mặc dù GMF có tính hướng nội rõ ràng, nhưng trong thời đại toàn cầu hóa và tùy thuộc lẫn nhau, sáng kiến Trục biển có tác động tới quan hệ đối ngoại của Indonesia và hợp tác trong khu vực theo nhiều chiều hướng khác nhau. Thứ nhất, Chính sách này có thể đưa Indonesia dịch chuyển toàn diện, gần hơn tới các nước phương Tây như Mỹ và Nhật Bản về kinh tế và quốc phòng. Thứ hai, quan hệ Indonesia - Trung Quốc phức tạp hơn do Indonesia muốn nhận các khoản đầu tư tài chính khổng lồ từ Trung Quốc cho kế hoạch phát triển hạ tầng và tăng cường hợp tác kinh tế song phương nói chung, song ít nhiều e ngại về an ninh do đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Thứ ba, đối với ASEAN, lập trường của Indonesia tới nay vẫn chưa rõ ràng. Nếu nhìn xa hơn, trong giai đoạn tranh cử, Jokowi thẳng thắn tuyên bố nếu việc can dự của Indonesia trong giải quyết tranh chấp ở Biển Đông không đem lại kết quả thì không nhất thiết phải can dự.
GMF cho thấy Indonesia dưới thời Tổng thống Jokowi đang khởi động một quá trình “đổi mới” trên cơ sở thực dụng, tập trung hơn vào phát triển kinh tế hướng nội. Quá trình này chắc chắn tác động sâu rộng đến đường lối đối ngoại của Indonesia và dẫn đến những hệ lụy kinh tế và an ninh trong khu vực. Nhưng để phát huy vai trò trên trường quốc tế, khả năng là Indonesia vẫn sẽ trở lại với “quỹ đạo” hợp tác ở Đông Nam Á trong những năm tới đây.
“Bằng cách nào để Mỹ chiếm ưu thế so với Trung Quốc ở Biển Đông” của Van Jackson
Đâu là ranh giới giữa hành động cứng rắn và khiêm tốn? Hay ranh giới giữa hành động rủi ro không cần và hành động thận trọng là gì? Đó chính là bối cảnh.
Tuần trước, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương mới được bổ nhiệm gần đây, Đô đốc Scott Swift, đã tham gia nhiệm vụ giám sát thường lệ ở Biển Đông bằng phi cơ trinh sát P-8. Với một vị tướng bốn sao và không thường xuyên thực hiện nhiệm vụ này thì động thái trên sẽ bị coi là hành vi đầy rủi ro và mang tính đối đầu. Trung Quốc gọi đây là hành động “vô trách nhiệm và nguy hiểm”.
Tuy nhiên, động thái này sẽ mang lại lợi thế cho Mỹ và hiện trạng ở Biển Đông. Bởi vì đây là dấu hiệu cho thấy quyết tâm can dự của Mỹ vào vấn đề Biển Đông mà không cần đến các hành động răn đe. Lợi ích của Mỹ ở Biển Đông là sự ổn định và con đường hiệu quả nhất để duy trì sự ổn định đó sẽ phụ thuộc vào nhiệm vụ trinh sát ở Biển Đông bằng P8 của tướng Swift: thiết lập một tiền lệ mới có lợi hơn cho hiện trạng trong khi vẫn tránh được việc sử dụng hoạt động răn đe trực tiếp.
Giới quân sự Mỹ luôn ủng hộ hành động răn đe. Tuy nhiên răn đe thường là chiến lược của kẻ thua cuộc, giống như đánh cược vào trò chơi may rủi và tỷ lệ thua cuộc thường nghiêng về bản thân. Ngoài ra, cho dù hành động răn đe có đủ sức nặng thì đối phương vẫn có niềm tin rằng, lợi ích đem lại đáng để thách thức chiến lược răn đe đó.
Việc chỉ quanh quẩn tìm kiếm một cuộc chiến, một cơ hội triển khai hoạt động ngăn chặn trực tiếp là quá liều lĩnh. Và đó là lý do tại sao việc triển khai P8 của tướng Swift là rất hợp lý, tạo ra hiện trạng theo hướng có lợi hơn cho tình hình. Lực lượng trên biển của các quốc gia Đông Nam Á không đủ khả năng đối phó với Cảnh sát biển của Trung Quốc, huống hồ là Hải quân PLA. Do đó, nếu một quốc gia Đông Nam Á nào đó cố tạo ra các tiền lệ mới với Trung Quốc thì rất có thể dẫn đến xung đột không thể giải quyết. Nhưng với Mỹ lại khác, và Trung Quốc hiểu điều này. Lập trường của Mỹ về hoạt động giám sát trong vùng biển quốc tế là rất rõ ràng, việc đưa Đô đốc 4 sao thực hiện nhiêm vụ tuần tiễu thường kì tại một khu vực vốn nhạy cảm đã chứng minh điều đó.
Đây chính xác là phương thức mà Mỹ nên theo đuổi ở Biển Đông. Nếu như cần thiết phải sử dụng các hành động ngăn chặn trực tiếp, thì vị trí các lực lượng quân sự ở khu vực, dư luận quốc tế, tiền lệ lịch sử và các quốc gia liên quan sẽ tạo thế thuận lợi cho Mỹ. Các nỗ lực bảo đảm hoà bình của Mỹ sẽ định hình bối cảnh xung đột trong tuơng lai theo hướng này, do đó, nếu như xảy ra đối đầu ngăn chặn, phần thắng sẽ cao hơn rất nhiều.
Việc triển khai máy bay do thám trong phạm vi 12 hải lý các thực thể mà Trung Quốc tôn tạo thuộc hoạt động thường xuyên của Mỹ, không mang tính leo thang căng thẳng và củng cố một tiền lệ hoàn toàn có lợi cho hiện trạng mà không quốc gia nào khác có khả năng thực hiện.
“Campuchia: Trung gian hoà giải mới trong vấn đề Biển Đông ?” của Prashanth Parameswaran
Tuần trước, Bộ Trưởng Ngoại giao Campuchia Hor Namhong đã đưa ra gợi ý về việc Campuchia sẽ tiếp tục tìm kiếm một vai trò trung gian hoà giải cho tranh chấp Biển Đông. Ông nói: “Campuchia muốn làm trung gian để giảm bớt không khí căng thẳng giữa ASEAN và Trung Quốc, vì chúng tôi hiểu rằng sẽ không thể có giải pháp nếu như hai bên không bàn bạc cùng nhau”
Với những ai theo sát vấn đề Biển Đông và Đông Nam Á sẽ không khỏi tò mò trước lời đề nghị của Campuchia. Bởi Campuchia không phải là một bên yêu sách Biển Đông và sứ mệnh hoà giải là một đòi hỏi cao, ngay cả đối với quốc gia luôn đi đầu như Indonesia. Ngoài ra, Hội nghị Cấp cao 2012 đã chứng kiến thất bại chưa từng có của ASEAN trong việc không đưa ra Tuyên bố chung. Có những cáo buộc cho rằng Campuchia đã đồng lõa với Bắc Kinh, đưa bản dự thảo Tuyên bố chung cho Trung Quốc, và điều này làm xói mòn lòng tin trong ASEAN. Gần đây nhất, Campuchia còn đưa ra tuyên bố rằng tranh chấp Biển Đông chỉ là vấn đề giữa các quốc gia yêu sách và Trung Quốc và không ảnh hưởng gì đến Asean.
Rõ ràng, với những điều này thật khó để chứng minh được rằng Campuchia có thể trở thành một trung hòa giải chân thành cho vấn đề Biển Đông, ngược lại còn dấy lên những nghi ngờ về sự thông đồng giữa Campuchia và Trung Quốc.
Tuy nhiên, nếu Campuchia muốn trở nên hữu ích thì họ nên bắt đầu với một vài bước đi khiêm tốn:
Trước tiên, cùng các quốc gia khác, Campuchia cần nhận thức thực tế rằng Biển Đông ảnh hưởng đến toàn khu vực và do đó đòi hỏi phản ứng khu vực ở một mức độ nhất định
Thứ hai, Campuchia nên chứng minh cho các quốc gia thành viên ASEAN và cộng đồng quốc tế rằng, mối quan hệ giữa họ với Trung Quốc không gây tổn hại tới sự đoàn kết của ASEAN. Ví dụ, các quan chức Campuchia nên kêu gọi sớm có kết luận về COC ở Biển Đông và thông qua một số cuộc họp giữa Campuchia và Trung Quốc kêu gọi Trung Quốc làm điều tương tự.
Sự gián đoạn đối với hòa bình khu vực và nguy cơ bất ổn định sẽ ngăn cản tất cả các nước Đông Nam Á, trong đó có Campuchia, trên con đường hiện thực hóa thịnh vượng chung. Thay vì tham vọng làm người hòa giải, những bước đi trên sẽ giúp khôi phục uy tín của Phnom Penh và thuyết phục các nhà quan sát rằng Campuchia cam kết tích cực để mang lại tiến triển, thay vì cản trở, trong vấn đề Biển Đông.
“Cuộc chiến pháp lý Trung - Phi trên Biển Đông” của Lan Nguyen
Trường hợp từ chối tham gia tranh tụng trước tòa án hay tòa trọng tài quốc tế không phải là hiếm, cũng không phải là lần đầu tiên đối với một cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS. Trường hợp Nga trong vụ tàu Arctic Sunrise do Hà Lan khởi kiện tại Toà Quốc tế về Luật biển (ITLOS) năm 2013 là ví dụ. Tuy nhiên, điều đặc biệt trong vụ Philippines kiện Trung Quốc là dù Trung Quốc từ chối tham gia tố tụng, nhưng họ đã không bỏ qua bất kỳ cơ hội nào để làm rõ quan điểm của mình thông qua cả hai kênh chính thức và không chính thức.
Về mặt truyền thông, dù không tham gia vụ kiện, nhưng Trung Quốc cũng không “phủi tay” đối với vụ việc. Thông qua các kênh khác nhau, Trung Quốc thể hiện quan điểm về thẩm quyền của tòa đối với vụ kiện, trong khi đó vẫn giữ im lặng về vân đề đúng sai của vụ việc. Về mặt chính thức, Trung Quốc đã công bố “Tài liệu Lập trường của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Vấn đề Thẩm quyền trong Vụ kiện Biển Đông do Cộng hoà Philippines khởi xướng”, trong đó lập luận chi tiết những lý do khẳng định tòa trọng tài không có thẩm quyền. Ngoài ra, các học giả Trung Quốc cũng rất tích cực xuất bản sách và bài viết phản đối thẩm quyền của tòa. Thực tế, Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) cũng đã gặp trường hợp tương tự và thường lưu tâm đến thông tin từ quốc gia vắng mặt, tham khảo để xác định lập luận của bên vắng mặt. Do đó, Trung Quốc được lợi: vừa làm cho tòa hiểu về lập trường và vừa duy trì quan điểm phủ định thẩm quyền của tòa.
Hệ quả từ sự vắng mặt của Trung Quốc, theo Điều 9, Phụ lục VII và quy tắc 25 Quy định về thủ tục, bên không hiện diện vẫn là một bên trong vụ kiện và vẫn bị ràng buộc bởi các quyết định của tòa án dù họ có đồng ý hay không. Theo luật học, bên không hiện diện phải chấp nhận rằng, họ không thể kỳ vọng tòa hiểu đầy đủ về lập trường như khi họ tham gia. Điều này vẫn đúng khi quốc gia đó công khai lập trường thông qua các phương tiện truyền thông. Điều đáng lưu ý là hội đồng trọng tài hiện nay gồm ba thẩm phán ITLOS trong vụ xử Arctic Sunrise, luật sư chính của Philippines cũng là luật sư chính trong những trường hợp nổi tiếng về sự vắng mặt, vụ Nicaragua.
Về cơ chế giải quyết hiện tại, hệ thống giải quyết tranh chấp của UNCLOS không bao gồm cơ chế thực thi như ICJ của Hội đồng Bảo an. Điều này có nghĩa là Trung Quốc có thể từ chối tuân theo phán quyết nếu như bất lợi cho họ. Mặc dù vậy, phản ứng của các nước không tham gia vụ kiện lại đa dạng. Trong vụ Arctic Sunrise và Nicaragua, mặc dù ban đầu cả Nga và Mỹ đều phủ nhận nhưng cuối cùng cả hai đều có những nhượng bộ mặc dù không khẳng định đó là hành động tuân theo phán quyết. Đối với Philippines, họ xem vụ kiện không phải là kết quả cho các tranh chấp mà chỉ là sự khởi đầu gỡ rối các tranh chấp.
Để đối phó với láng giềng hùng mạnh hơn trong mọi khía cạnh, tòa trọng tài cũng là cách để thu hút sự chú ý của dư luận, tạo áp lực quốc tế lên Trung Quốc.