Ngày 4/5, Bộ trưởng Quốc phòng Đài Loan đã xác nhận rằng Trung Quốc đang có kế hoạch thiết lập ADIZ ở Biển Đông. Theo một nguồn tin từ quân đội Trung Quốc, các kế hoạch thiết lập ADIZ ở Biển Đông đã được triển khai từ năm 2010. Cũng trong năm này, giới chức trách Trung Quốc đã thông báo cho một phái đoàn của Nhật Bản đến thăm Bắc Kinh rằng nước này đang cân nhắc việc thiết lập ADIZ ở biển Hoa Đông. Vào ngày nước này tuyên bố ADIZ tại biển Hoa Đông, người phát ngôn của Bộ Quốc phòng Trung Quốc nói: “Trung Quốc sẽ thiết lập các ADIZ khác vào một thời điểm thích hợp sau khi đã hoàn tất công tác chuẩn bị”.

Nếu Trung Quốc thiết lập một ADIZ tại Biển Đông, thì đây cũng không phải là ADIZ đầu tiên tại đây. Đầu thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Philippines đã thiết lập một ADIZ vào năm 1953, và Việt Nam Cộng hòa cũng có một ADIZ trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, ngày nay, ADIZ của Philippines đã không còn hoạt động và ADIZ của Việt Nam Cộng hòa cũng đã bị khai tử cách đây 45 năm. Ngược lại, việc thiết lập một ADIZ sau các yêu sách biển quá đáng và vô căn cứ dưới góc độ luật pháp quốc tế  của Trung Quốc sẽ gây gián đoạn lớn trong khu vực. Mỗi tuần, hàng ngàn chuyến bay, cả quân sự và dân sự, không chỉ quốc tế mà cả các chuyến bay nội địa của Việt Nam, Philippines, Malaysia và trong khu vực Đông Nam Á, sẽ bị gián đoạn. Liệu Trung Quốc có thiết lập một ADIZ tại Đông Nam Á hay không? Nếu nước này làm như vậy, thì khi nào họ sẽ tiến hành và quy mô, phạm vi của ADIZ sẽ như thế nào? Tổng quát hơn, làm thế nào để có thể dự đoán về ADIZ của Trung Quốc?

Dự án ADIZ của Trung Quốc thuộc loại nào?

Đó là một dự án chưa thành hiện thực. ADIZ của Trung Quốc ở Biển Đông có thể trở thành một trong ba loại dự án sau: (1) một dự án cuối cùng sẽ thành hiện thực, (2) một dự án sẽ không bao giờ thành hiện thực và (3) một dự án được thực hiện dưới vỏ bọc của một dự án khác. Vậy ADIZ của Trung Quốc ở Biển Đông thuộc loại nào trong ba loại nêu trên. Có lẽ, ngay cả các nhà hoạch định chiến lược của Trung Quốc cũng không có câu trả lời nhất quán. Mặc dù vậy, cũng cần phải xem xét khả năng tồn tại của dự án này theo cả 3 loại trên.

Một số nhà quan sát cho rằng dự án này cuối cùng sẽ thành hiện thực dựa vào hai dấu hiệu quan trọng. Trong các tuyên bố chính thức, Trung Quốc chưa bao giờ loại trừ khả năng thiết lập một ADIZ khác ở Biển Đông. Các nguồn tin thân cận với quân đội Trung Quốc thi thoảng tiết lộ với các nhà báo nước ngoài rằng Trung Quốc có kế hoạch và sẵn sàng thiết lập một ADIZ ở Biển Đông. Ngoài các tuyên bố, các cơ sở hạ tầng của Trung Quốc trên các hòn đảo, bãi đá tranh chấp ở Biển Đông cho thấy chúng có nhiệm vụ giúp nước này biến trung tâm hàng hải của khu vực Đông Nam Á thành “ao nhà” của riêng họ. Trong số đó có 4 đường băng dài 3km; các kho chứa máy bay có thể tiếp nhận hàng chục máy bay trên các Đảo Phú Lâm (Woody Island), đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef), đá Subi (Subi Reef) và đá Vành Khăn (Mischief Reef); các trạm radar tần số cao trên những hòn đảo, bãi đá này và đá Châu Viên (Cuarteron Reef). Trung Quốc cũng đã triển khai tới khu vực này các loại tên lửa đối hạm và tên lửa đất đối không có tầm bắn lên tới 250 dặm (khoảng 400 km). Gần đây hơn, các hình ảnh vệ tinh đã phát hiện thấy máy bay kiểm soát và cảnh báo sớm trên không KJ-500 cũng như máy bay tuần tra chống ngầm KQ-200 trên đá Chữ Thập. Các hình ảnh vệ tinh cũng cho thấy một bến cảng dành cho tàu đổ bộ Type 071 lớp Ngọc Châu trên rạn đá này. Con tàu này có thể được sử dụng để đánh chiếm các đảo/đá tranh chấp trong khu vực. Nếu những cơ sở hạ tầng và hệ thống vũ khí này là các công cụ phục vụ cho mưu đồ làm chủ Biển Đông của Trung Quốc, thì một ADIZ được thiết lập sẽ cung cấp cho họ cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc triển khai chúng.

Các nhà quan sát khác lại cho rằng ADIZ của Trung Quốc ở Biển Đông là dự án không bao giờ thành hiện thực bởi có rất nhiều lý do để tin như vậy. Một số suy đoán rằng Trung Quốc đã rút ra bài học từ việc thiết lập ADIZ ở biển Hoa Đông và kết luận rằng đây là việc làm lợi chẳng bõ công. Theo lập luận này, ADIZ của Trung Quốc ở biển Hoa Đông, hiện đã tồn tại được gần 7 năm, hầu như không mang lại lợi ích gì. Việc thiết lập thêm một ADIZ ở Biển Đông sẽ làm hoen ố hình ảnh của Trung Quốc trên trường quốc tế và khiến các quốc gia ven biển khác cũng tuyên bố các ADIZ chồng chéo của chính họ. Tuy nhiên, đây chỉ có thể là một trong nhiều bài học mà Trung Quốc đã rút ra từ ADIZ ở biển Hoa Đông. Một nhà phân tích của Trung Quốc đã đưa ra lập luận trái ngược rằng những lợi ích mà ADIZ mang lại nhiều hơn rủi ro. Nếu điều này phản ánh tư duy của giới lãnh đạo Bắc Kinh, thì có lẽ Trung Quốc đã sẵn sàng thiết lập một ADIZ ở Biển Đông.

Tuy nhiên, một số người lại lập luận rằng một ADIZ có thể làm suy yếu bản chất mơ hồ của các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Sự mập mờ rất phù hợp với các lợi ích của Trung Quốc. Do vậy, Trung Quốc sẽ phải suy tính kỹ càng trước khi áp đặt một ADIZ ở Biển Đông. Một lý do khác có thể ngăn cản các kế hoạch thiết lập ADIZ của Trung Quốc ở biển Đông là khả năng các nước láng giềng “ăn miếng trả miếng”. Những nước này đang nắm trong tay các lá bài mà có thể ngăn cản Trung Quốc tuyên bố thành lập một ADIZ tại Biển Đông. Việt Nam có thể tuyên bố thành lập một ADIZ của riêng mình ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, từ đó tái thiết lập một số hình thức quản lý đối với các hòn đảo và như vậy làm suy yếu vị thế của Trung Quốc. Việt Nam và Malaysia có thể kiện Trung Quốc vì đã có những hành động đơn phương tại các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình, những hành động mà theo phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) năm 2016 là phi pháp. Tất cả những điều này sẽ khôi phục cán cân quyền lực trong khu vực và vô hiệu hóa ADIZ của Trung Quốc. Tuy nhiên, một ADIZ giả định của Trung Quốc ở khu vực Đông Nam Á cũng có thể ngăn cản các ADIZ khác. Nếu Bắc Kinh nghĩ rằng một ADIZ sẽ phát huy hiệu quả cao nhất khi nó chưa được hiện thực hóa, thì Trung Quốc sẽ duy trì tình trạng này.

Cuối cùng với loại dự án thứ ba, một ADIZ ở Biển Đông có thể đã được thiết lập nhưng được ngụy trang dưới vỏ bọc một khu vực cấm không sử dụng cái tên ADIZ, hay có thể là một khu vực gần giống ADIZ hoặc trên thực tế là một ADIZ không được công bố nhưng vẫn hoạt động tích cực. Theo quan điểm của thẩm phán người Philippines Antonio Carpio, Trung Quốc đã phát huy hiệu quả của một khu vực gần giống ADIZ bằng cách phát đi các tín hiệu cảnh báo qua sóng vô tuyến yêu cầu các máy bay của Philippines bay qua quần đảo Trường Sa tránh xa khu vực này. Được biết các tàu thuyền và máy bay từ Việt Nam, Mỹ, Úcvà Ấn Độ cũng từng nhận được những tín hiệu cảnh báo tương tự. Tuy nhiên, một khu vực gần giống ADIZ của Trung Quốc dường như bao phủ chưa quá 20 hải lý tính từ bờ biển các cấu trúc địa hình do Trung Quốc kiểm soát ở Biển Đông.

Tại sao Trung Quốc cần một ADIZ?

Mọi người có xu hướng tự nhiên cho rằng ADIZ, đúng như tên gọi của nó là một khu vực phòng thủ trên không hay một công cụ quân sự để kiểm soát lãnh thổ. Thế nhưng giống như bất kỳ thứ gì do con người tạo ra, nó có thể thực hiện nhiều chức năng khác ngoài chức năng được quy định ban đầu. Thứ nhất, ADIZ là một cơ chế cảnh báo sớm. Khi thiết lập ADIZ đầu tiên trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Mỹ muốn giảm nguy cơ Nga tiến hành các cuộc tấn công bất ngờ trên không. Ngày nay, Trung Quốc có thể lo lắng về các hoạt động giám sát và tự do hàng hải của Mỹ hơn là một vụ tấn công bất ngờ, nhưng cảnh báo sớm vẫn còn tốt hơn là không cảnh báo gì.

Thứ hai, ADIZ hoạt động như một khu vực cấm. Đây cũng là một trong những chức năng của ADIZ do Trung Quốc thiết lập ở biển Hoa Đông. Bằng cách yêu cầu ngay cả các máy bay bay qua không phận quốc tế và không hướng về phía Trung Quốc phải tự nhận diện, ADIZ tạo cơ sở pháp lý để bác bỏ quyền của máy bay nước ngoài trong việc tiếp cận hầu như toàn bộ khu vực biển Hoa Đông. Khi Trung Quốc có các tranh chấp chủ quyền căng thẳng với hầu hết các nước láng giềng giáp biển, một ADIZ có thể đóng vai trò là một chỉ dấu về chủ quyền. Thứ ba, mặc dù bản thân ADIZ không phải là một yêu sách lãnh thổ, nhưng nó có thể được sử dụng như một cách thức thực thi quyền chủ quyền và quyền quản lý đối với không phận của một lãnh thổ. Việc các máy bay nước ngoài chấp nhận hay mặc định sự tồn tại của một ADIZ có thể được hiểu là sự công nhận khả năng thực thi quyền chủ quyền của quốc gia tuyên bố ADIZ đối với một vùng lãnh thổ.

Mặc dù việc triển khai trên thực tế là điều kiện tiên quyết để một ADIZ hoạt động như một cơ chế cảnh báo sớm hay khu vực cấm, nhưng cũng không nhất thiết phải coi ADIZ là một chỉ dấu về chủ quyền. Việc triển khai kém hiệu quả có thể cũng đủ để xác lập chủ quyền và không cần phải có hành động thực thi nào trên thực tế để chứng tỏ sự công nhận của các nước bên ngoài. Thứ tư, giống như mọi vấn đề khác trong lĩnh vực ngoại giao, một ADIZ có thể được tận dụng như một lợi thế, đặc biệt là để nâng cao vị thế của quốc gia tuyên bố thiết lập nó trong một số trò chơi đối với các quốc gia bên ngoài. Đây cũng là một trong những chức năng của ADIZ do Trung Quốc thiết lập ở biển Hoa Đông. ADIZ này đã củng cố lập trường của Trung Quốc chống lại Nhật Bản trong các tranh chấp liên quan đến quần đảo Senkaku/Điếu Ngư bằng cách: (1) Tạo cơ sở pháp lý để Trung Quốc cho các máy bay chiến đấu đáp trả các máy bay của Nhật Bản, (2) mở rộng phạm vi tranh chấp vật lý bao gồm không chỉ các vùng biển tiếp giáp mà cả không phận của các hòn đảo; (3) tạo ra những sự việc mới trên hiện trường. Như hai nhà phân tích đã lập luận: “Trung Quốc sẽ có được lợi thế chiến lược bằng cách khẳng định lập trường quá khích rồi sau đó lại xuống nước, đồng thời vẫn duy trì một số lợi ích gia tăng – giống như hiệu ứng chốt hãm ngược.

Thứ năm, ADIZ có chức năng báo hiệu. Việc tuyên bố thành lập ADIZ cho dù phải đối mặt với sự phản đối của các lực lượng bên ngoài hay vi phạm luật pháp quốc tế có thể báo hiệu quyết tâm của Trung Quốc. Nó cũng có thể báo hiệu sự giận dữ của Trung Quốc khi phải đối phó với một sự kiện gây tổn hại cho họ trước khi ra tuyên bố thiết lập ADIZ. Ngoài ra, điều này cũng là dấu hiệu cho thấy sức mạnh đáng gờm, trong khi việc triển khai trên thực tế lại thể hiện năng lực. Một số người cho rằng ADIZ có thể được sử dụng để trấn an các nước khác về ý định hợp tác của nước ra tuyên bố về ADIZ. Một nhà quan sát lập luận rằng Trung Quốc đã cố gắng sử dụng ADIZ ở biển Hoa Đông như một công cụ can dự, chứ không phải là công cụ gây hấn. Tuy nhiên, sự phản đối của cộng đồng quốc tế đối với ADIZ của Trung Quốc là bằng chứng cho thấy chỉ có những kẻ ngu ngốc mới coi đó là tín hiệu của sự hợp tác.

Thứ sáu, ADIZ có chức năng răn đe. Bằng cách báo hiệu về năng lực và sức mạnh đáng gờm, một nước có thể răn đe các nước khác. Thế nhưng, ngay cả khi chưa được thiết lập, một ADIZ giả định cũng có thể được coi là mối đe dọa đối với các nước khác. Trung Quốc đã xây dựng một câu chuyện nhất quán về ADIZ ở Biển Đông và tuyên bố rằng việc họ có thiết lập nó hay không còn phụ thuộc vào mức độ đe dọa mà họ phải đối mặt. Nếu theo nghĩa này thì có thể nói Trung Quốc đã triển khai việc thiết lập ADIZ ở Biển Đông.

Khi nào Trung Quốc thiết lập một ADIZ ở Biển Đông?

Nếu Trung Quốc muốn sử dụng ADIZ ở Biển Đông cho các mục đích quân sự (cảnh báo sớm và chống tiếp cận/ngăn chặn xâm nhập), thì triển khai trên thực tế là một yêu cầu chủ chốt. Với 4 đường băng dài và nhiều cơ sở hạ tầng trên một số đảo nhân tạo ở Biển Đông, Trung Quốc đã có đủ điều kiện vật chất để thực hiện nhiệm vụ này. Tất cả 4 căn cứ không quân trên các hòn đảo nhân tạo này đều có đủ các kho chứa máy bay để tiếp nhận khoảng 24 máy bay chiến đấu và 4-5 chiếc máy bay lớn hơn như máy bay do thám, vận tải, tiếp liệu và ném bom. Ngoài những căn cứ không quân chiếm lĩnh vị trí đắc địa này, kể từ tháng 12/2019, Trung Quốc đã hạ thủy tàu sân bay thứ hai mang tên Sơn Đông tại thành phố Tam Á thuộc đảo Hải Nam. Trong khi các sân bay trên các hòn đảo nhân tạo ở giữa Biển Đông có thể tiếp nhận tới 96 máy bay chiến đấu kiểm soát trên không, tàu sân bay Sơn Đông có thể bổ sung 36 chiếc nữa vào đội hình các máy bay chiến đấu kiểm soát trên không có thể cùng lúc hoạt động ở Biển Đông. Khi tàu sân bay lớp Nimitz của Mỹ tiến vào Biển Đông, ADIZ của Trung Quốc sẽ phải đối phó với 90 máy bay chiến đấu, bao gồm 64 máy bay chiến đấu kiểm soát trên không. Tuy vậy, được hỗ trợ của các sân bay trên lục địa, đảo Hải Nam, đảo Phú Lâm, đá Subi, đá Chữ Thập, đá Vành Khăn và tàu sân bay Sơn Đông, các máy bay thuộc Bộ Tư lệnh Vùng tác chiến phía Nam, bao gồm khoảng 198 máy bay chiến đấu kiểm soát trên không, có thể áp đảo lực lượng không quân của những nước lớn cũng có yêu sách chủ quyền ở Đông Nam Á và một tàu sân bay của Mỹ kết hợp lại.

Ba năm sau khi hoàn thành việc xây dựng các đảo nhân tạo lớn ở Biển Đông, Trung Quốc đã có năng lực để triển khai một ADIZ cũng như thực thi các yêu sách hàng hải và lãnh thổ của nước này trong khu vực – “đường 9 đoạn” phi pháp. Câu hỏi đối với Trung Quốc ở Biển Đông không phải là liệu nước này có năng lực để thực thi một ADIZ hay không mà là họ muốn gì từ ADIZ, và nếu họ cần phải thiết lập một ADIZ, thì đâu là thời điểm tốt nhất để làm vậy. Nếu Trung Quốc triển khai một ADIZ ở Biển Đông như một chỉ dấu chủ quyền (để đăng ký chủ quyền đối với Biển Đông và có được sự chấp thuận hay thừa nhận của cộng đồng quốc tế), một lợi thế hay một thiết bị báo hiệu, thì một tuyên bố quan trọng hơn việc thực thi trên thực tế. Trung Quốc không cần một ADIZ để báo hiệu sức mạnh và quyết tâm của nước này ở Biển Đông; riêng các lực lượng bảo vệ bờ biển, dân quân và các tàu khảo sát đã có thể thực hiện công việc đó. Một ADIZ có thể phát đi tín hiệu rõ hơn, nhưng các rủi ro dường như nhiều hơn giá trị gia tăng mà nó mang lại.

Là một chỉ dấu về chủ quyền, ADIZ có thể tốt hơn “đường 9 đoạn” do “đường 9 đoạn” đã bị PCA bác bỏ vào năm 2016. ADIZ cũng có thể là một lợi thế trong các cuộc đàm phán của Trung Quốc với các thành viên ASEAN về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Kết thúc cuộc chơi của Trung Quốc ở Biển Đông là một trạng thái bình thường mới mà nước này là bên chịu trách nhiệm và công việc của COC theo quan điểm của Bắc Kinh là giữ nguyên trạng thái bình thường mới đó. Do Trung Quốc đã nói với các thành viên ASEAN rằng nước này mong muốn kết thúc các cuộc đàm phán COC vào năm 2021, nên Bắc Kinh cần phải chạy đua với thời gian để tạo ra những thực tế mới trên thực địa và củng cố tình trạng bình thường mới. Sự gây hấn gia tăng đến lượt nó sẽ tạo áp lực buộc nhiều nước thành viên ASEAN phải kết thúc đàm phán. Chính trong bối cảnh đó, Trung Quốc đã gia tăng các hành động gây hấn ở Biển Đông trong những năm qua, bao gồm cả các hoạt động khảo sát của tàu Hải Dương Địa Chất 8 trong EEZ của Việt Nam và Malaysia kể từ mùa Hè năm 2019. Mặc dù Bắc Kinh có thể khai thác ADIZ trong tương lai, nhưng giá trị của nó như một lợi thế có thể được phát huy cao nhất trong các cuộc đàm phán về COC. Nếu ADIZ được sử dụng như một biện pháp răn đe, thì nó sẽ mất giá trị ngay sau khi được công bố. Với năng lực ngày càng gia tăng của mình, Trung Quốc có thể áp đặt các hệ thống cảnh báo sớm và các khu vực cấm dưới những cái tên khác ngoài ADIZ, hoặc nước này có thể vẫn triển khai chúng mà không tuyên bố trên thực tế.

Quy mô và phạm vi của ADIZ của Trung Quốc ở Biển Đông

Trung Quốc có thể kiểm soát các rủi ro và lợi ích của việc thiết lập ADIZ ở Biển Đông bằng cách lựa chọn những quy mô và phạm vi bao phủ khác nhau. Nhìn chung, một ADIZ có quy mô rộng lớn hơn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều nước láng giềng hơn và do đó kích động nhiều sự phản đối hơn. Tuy nhiên, lợi ích của một ADIZ không phải lúc nào cũng tỷ lệ thuận với quy mô của nó. Một ADIZ sẽ đem lại nhiều lợi ích nhất cho Trung Quốc khi nó ôm trọn “đường 9 đoạn” – yêu sách thiếu căn cứ của Trung Quốc ở Biển Đông. Một ADIZ có phạm vi lớn hơn sẽ vấp phải nhiều sự phản đối hơn mà hầu như không mang lại thêm lợi ích gì. Có 4 nhóm đảo nằm trong phạm vị “đường 9 đoạn” và tất cả đều đang bị tranh chấp. Những nhóm đảo này đã đem lại cho Trung Quốc 5 lựa chọn chính về phạm vi của một ADIZ ở Biển Đông. Tỷ lệ chi phí-lợi ích của một ADIZ thay đổi theo phạm vi của nó, phụ thuộc vào số lượng và mức độ phản đối của các quốc gia có yêu sách chủ quyền đối với vùng lãnh thổ trong phạm vi của ADIZ.

Giải pháp thứ nhất là ADIZ sẽ bao trùm quần đảo Hoàng Sa, nằm giữa đảo Hải Nam của Trung Quốc và bờ biển miền Trung của Việt Nam, và hiện đang là mục tiêu tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Quần đảo này đã bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép từ năm 1974. Giải pháp thứ hai là ADIZ sẽ bao trùm quần đảo Đông Sa (Pratas), nằm cách Hong Kong khoảng 180 hải lý về phía Đông Nam, và hiện đang thuộc quyền quản lý của Đài Loan. Giải pháp thứ ba là gộp hai giải pháp 1 và 2, bao trùm cả quần đảo Hoàng Sa lẫn quần đảo Đông Sa. Giải pháp thứ tư sẽ là mở rộng ADIZ từ bờ biển phía Nam Trung Quốc đến khu vực bao gồm cả quần đảo Đông Sa, quần đảo Hoàng Sa và bãi cạn Scarborough. Bãi cạn này hiện đang nằm trong EEZ của Philippines, cách bờ biển nước này khoảng 100 hải lý và được Philippines quản lý ít nhất từ thế kỷ 18 cho đến khi Trung Quốc chiếm giữ nó trong vụ đụng độ năm 2012. Giải pháp thứ năm là ADIZ sẽ ôm trọn “đường 9 đoạn” và bao gồm gần như tất cả các khu vực mà Trung Quốc đưa ra yêu sách chủ quyền ở Biển Đông bao gồm quần đảo Đông Sa, quần đảo Hoàng Sa, bãi cạn Scarborough, quần đảo Trường Sa và những vùng biển ở giữa và xung quanh những cấu trúc địa hình này. Giải pháp này sẽ bị nhiều nước phản đối nhất nhưng đem lại nhiều lợi ích lớn nhất trong số các phiên bản khác nhau của một ADIZ ở Biển Đông.

Cân nhắc mọi thứ

Việc Trung Quốc quyết định thiết lập một ADIZ rất có thể là kết quả của một sự tính toán giữa chi phí và lợi ích. Nếu Trung Quốc có kế hoạch tuyên bố thiết lập một ADIZ ở Biển Đông, nước này có thể sẽ đưa ra thông báo khi các lợi ích dự kiến thu được vượt quá các chi phí ước tính. Những lợi ích chủ yếu bắt nguồn từ tính hữu dụng của ADIZ, còn các chi phí phụ thuộc nhiều vào phản ứng của các nước khác.

Đại dịch COVID-19 và giai đoạn cuối của tiến trình đàm phán COC, tình cờ diễn ra đồng thời, đã tạo cơ hội cho Trung Quốc tuyên bố về một ADIZ ở Biển Đông. Số lượng chuyến bay qua Biển Đông giảm do ảnh hưởng của các lệnh cấm đi lại nhằm hạn chế sự lây lan của virus và việc các nước đang tập trung đối phó với sự bùng phát của đại dịch COVID-19 sẽ làm giảm đáng kể phản ứng của nước ngoài. Ngoại trừ Việt Nam, Malaysia và Philippines bị ràng buộc vì tiếp nhận các khoản viện trợ của Trung Quốc để đối phó với COVID-19, mà trớ trêu là đại dịch này lại bắt nguồn từ Trung Quốc. Đồng thời, thời hạn đàm phán COC cũng buộc Trung Quốc phát huy tối đa lợi thế trong một nguyên trạng mới, mà sẽ tồn tại một thời gian sau khi COC được ký kết.

Cán cân quyền lực hiện nay cũng cho thấy các nước khác không thể làm gì khác ngoài những hành động mang tính biểu tượng để thách thức ADIZ của Trung Quốc ở Biển Đông. Chính phủ một số nước, đặc biệt là Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam, Úc, Anh và Pháp, sẽ thẳng thắn bác bỏ ADIZ của Trung Quốc. Trong khi đó, hầu hết các nước khác, bao gồm một số nước thành viên ASEAN, sẽ chấp nhận trước sức mạnh của Trung Quốc. Mỹ sẽ cho một số máy bay chiến đấu bay vào vùng ADIZ của Trung Quốc trong vài giờ đầu tiên sau khi Bắc Kinh đưa ra tuyên bố về khu vực này, nhưng Lầu Năm Góc sẽ suy tính cẩn thận khi triển khai một nhóm tàu sân bay tấn công tới những vùng biển thuộc ADIZ của Trung Quốc. Việt Nam và Malaysia có thể công bố ADIZ của riêng mình hoặc có thể không làm vậy. Tuy nhiên, một ADIZ của Trung Quốc sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng thù địch giữa Trung Quốc và hầu hết các nước láng giềng ven biển của mình. Nó cũng sẽ làm gia tăng sự cạnh tranh chiến lược trên phạm vi toàn cầu giữa Trung Quốc và Mỹ, cũng như trong khu vực giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là Nhật Bản và Ấn Độ. Ngoài ra, ADIZ sẽ khiến cho mối quan hệ Việt-Trung không ngừng xấu đi. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, nhà ngoại giao quốc phòng hàng đầu của Việt Nam, đã lưu ý trong một cuộc trả lời phỏng vấn vào tháng 1/2014 rằng, một ADIZ của Trung Quốc thậm chí còn nguy hiểm hơn cả “đường 9 đoạn”. Nếu Trung Quốc tuyên bố thiết lập một ADIZ ở Biển Đông trong năm nay hoặc năm tới, thì nước này có thể được nhiều hơn mất trong ngắn hạn. Tuy nhiên, trong dài hạn, hành động đó của Trung Quốc sẽ chỉ mang lại cho họ một chiến thắng cay đắng.

Giáo sư Vũ Hồng Lâm (Alexander Vuving) thuộc Trung tâm nghiên cứu an ninh châu Á-Thái Bình Dương (APCSS). Bài viết được đăng trên The National Interest.

Hồng Quyên (gt)