Động thái của các quốc gia

+ Trung Quốc:

Tàu Trung Quốc đâm chìm một tàu cá Quảng Ngãi ở Hoàng Sa. Khoảng 10h sáng 6/3, tàu cá QNg-90819 của ngư dân Nguyễn Minh Hùng (huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) bị tàu Trung Quốc số hiệu 44101 đâm chìm tại khu vực đảo Đá Lồi, quần đảo Hoàng Sa, cách phía đông Đà Nẵng khoảng 198 hải lý. Sau khi bị đâm, tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi chỉ còn nổi phần mũi, 5 ngư dân đã bám vào phần mũi tàu. Đến 12h06, 5 ngư dân đã được một tàu cá khác của Quảng Ngãi là tàu QNg-90620 tiếp cận cứu vớt an toàn.

Trung Quốc không thừa nhận đâm chìm tàu cá Việt Nam ở Hoàng Sa. Về thông tin tàu Trung Quốc số hiệu 44101 đâm chìm tàu cá Việt Nam ở Đá Lồi, tờ Thời báo Hoàn cầu hôm 8/3 dẫn phát biểu của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lục Khảng cho hay, “tàu chấp pháp của Trung Quốc nhận tín hiệu cứu nạn từ tàu cá Việt Nam. Phía Trung Quốc cử một tàu tới hiện trường và phát hiện tàu Việt Nam đã chìm. Tàu Trung Quốc thông tin ngay việc này với Trung tâm Tìm kiếm và Cứu nạn Hàng hải Trung Quốc.

Tàu Trung Quốc ngăn ngư dân Philippines tiếp cận ngư trường gần Thị Tứ. Thị trưởng Kalayaan ông Roberto del Mundo cho biết tàu Trung Quốc ngăn cản ngư dân Philippines tiếp cận các bãi cát nằm cách đảo Thị Tứ khoảng 3 km, “Sự hiện diện của tàu cá Trung Quốc đang làm ảnh hưởng đến hoạt động đánh bắt cá của ngư dân Philippines. Khi chúng tôi đến gần bãi cát số 3 mà chúng tôi xem là ngư trường, một tàu Trung Quốc lập tức áp sát, cảnh báo không được tới gần hơn nữa". Theo ông del Mundo, kể từ ngày 11/1 đến ngày 2/2, số lượng tàu Trung Quốc tại khu vực này đã tăng lên và có khoảng 50 tàu ở phía trái đảo Thị Tứ. Để tránh xảy ra sự cố, ngư dân Philippines đã chuyển sang ngư trường nằm ở phía bên kia của đảo Thị Tứ.

Đại sứ Trung Quốc khẳng định hòa bình Biển Đông là lợi ích chung của khu vực. Phát biểu trong cuộc phỏng vấn tại Malacañang ngày 6/3, Đại sứ Trung Quốc ở Philippines Triệu Giám Hoa cho hay, “Mỹ nên quan tâm hơn về việc các quốc gia khác gây bất ổn và đe dọa hòa bình trên biển thay vì tập trung động thái của Trung Quốc. Tất cả các quốc gia, bao gồm Mỹ, Trung Quốc và ASEAN có lợi ích chung trong việc duy trì hòa bình, ổn định và duy trì tự do hàng hải ở Biển Đông rộng mở”. Ông Triệu đưa ra bình luận trên sau câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Trung Quốc trước việc Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo tuyên bố Mỹ sẽ bảo vệ Philippines trong trường hợp bị tấn công ở Biển Đông. Theo ông Triệu, “Chúng ta nên lo ngại về khả năng tấn công từ bên ngoài. Chúng ta không cần lo lắng việc Trung Quốc sẽ tấn công bên nào bởi đây không phải chính sách của chúng tôi”.

Ngoại trưởng Trung Quốc nhấn mạnh khu vực cần giữ vững hòa bình ở Biển Đông. Phát biểu hôm 8/3 tại cuộc họp báo bên lề phiên họp thứ 2 Quốc hội kỳ họp thứ 13 ở Bắc Kinh Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Vương nghị cho hay, “Các diễn biến tích cực chứng tỏ cách tiếp cận kép đang đi đúng hướng trong giải quyết vấn đề Biển Đông. Việc đàm phán COC đang tiến triển nhanh hơn. Khi Trung Quốc đưa ra mục tiêu kết thúc đàm phán vào năm 2021, điều này chứng tỏ thiện chí và cam kết của Trung Quốc. Các nước khu vực cần giữ vững hòa bình và ổn định ở Biển Đông.” Ông Vương cũng khẳng định không hoan nghênh việc can dự của bên ngoài vào tiến trình này.

+ Việt Nam:

Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của Biển Đông tại ACDFM-16. Phát biểu tại Hội nghị Tư lệnh Lực lượng Quốc phòng các nước ASEAN lần thứ 16 (ACDFM-16) ở Thái Lan sáng 7/3, Thượng tướng Phan Văn Giang đánh giá cao dự thảo Tuyên bố chung của Hội nghị ACDFM lần này, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của Biển Đông và cam kết của các nước trong việc tiếp tục duy trì tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCOS 1982 và các cam kết khu vực; không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực, tránh gây căng thẳng và phức tạp thêm tình hình. Bên cạnh đó, Thượng tướng Phan Văn Giang đề nghị lực lượng thực thi pháp luật trên biển và hải quân các bên liên quan tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin để giải quyết các sự vụ trên biển, nhất là ngư dân, một cách nhanh chóng, hiệu quả trên tinh thần nhân đạo.

+ Philippines:

BTQP Philippines lo ngại bị kéo vào cuộc xung đột Mỹ-Trung ở Biển Đông. Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana hôm 5/3 cảnh báo Hiệp ước phòng thủ tương hỗ (MDT) mơ hồ và thiếu rõ ràng có nguy cơ dẫn đến sự bối rối và hỗn loạn nếu xảy ra một cuộc khủng hoảng, "Philippines hiện không xung đột và sẽ không chiến tranh với bất kỳ ai trong tương lai. Nhưng Mỹ, với các tàu hải quân gia tăng và hoạt động thường xuyên ở biển Đông, nhiều khả năng liên quan đến một cuộc chiến tranh. Trong trường hợp như vậy và trên cơ sở MDT, Philippines sẽ tự động tham gia". Cảnh báo của ông Lorenzana được đưa ra 1 ngày sau khi một máy bay ném bom B-52 của Mỹ bay gần các thực thể tranh chấp ở biển Đông. Tháng 12 năm 2018, ông Lorenzana đề nghị đánh giá Hiệp ước MDT xem nó còn hiệu lực hay liên quan đến Philippines hiện tại hay không.

+ Malaysia:

Thủ tướng Malaysia nhấn mạnh cần duy trì Biển Đông mở, không bị cản trở. Trả lời phỏng vấn trang ABS-CBN hôm 7/3, Thủ tướng Malaysia Mahathir khẳng định: “Tôi cho rằng dù yêu sách của Trung Quốc là gì, điều quan trọng nhất là Biển Đông phải rộng mở cho tự do lưu thông. Không bị hạn chế, Không bị trừng phạt. Nếu như vậy, các yêu sách của Trung Quốc sẽ không ảnh hưởng nhiều đến chúng ta. Tôi nghĩ rằng Trung Quốc cũng muốn duy trì Biển Đông rộng mở bởi đây là tuyến thương mại chính của nước này.” Theo ông Mahathir, “Chúng ta phải đề nghị Trung Quốc xác định yêu sách và cái gọi là quyền sở hữu họ yêu sách, từ đó có tính toán lợi ích đối với vùng biển này”. Thủ tướng Malaysia cũng cảnh báo nên thận trọng với khoản vay từ Trung Quốc, “Nếu bạn vay một khoản tiền khổng lồ từ Trung Quốc và không thể trả thì bạn biết đấy, người cho vay tiền sẽ kiểm soát người vay. Vì vậy chúng ta phải rất thận trọng với điều đó”.

Malaysia sẽ sử dụng ngoại giao quốc phòng để tránh bị kẹt trong cạnh tranh nước lớn. Phát biểu trong một cuộc thảo luận hôm 8/3, Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia Mohamad Sabu cho hay, “Trung Quốc đã trở thành siêu cường mới về khía cạnh kinh tế và quân sự. Nước này đang phô diễn sức mạnh ở Biển Đông trong khi Mỹ đang thách thức Trung Quốc. Chúng ta bị mắc kẹt ở giữa. Vì vậy Malaysia cần triển khai ngoại giao quốc phòng với Mỹ và Trung Quốc. Nếu chiến tranh nổ ra, hai nước trên sẽ tìm các liên kết. Chúng tôi không muốn bị giật dây. Chúng tôi muốn làm bạn với họ và phát triển kinh tế và sự thịnh vượng. Chúng ta không thể tuyên bố chiến tranh với Trung Quốc. Nếu điều đó xảy ra, toàn bộ khu vực sẽ bị tổn hại”. Theo ông Sabu, mối đe dọa lớn nhất với Malaysia không phải Trung Quốc mà là tấn công khủng bố.

+ Mỹ:

Máy bay ném bom hạt nhân B-52 của Mỹ bay huấn luyện gần Biển Đông. Thông báo của lực lượng Không quân Mỹ tại Thái Bình Dương cho hay, "Hai máy bay ném bom B-52H Stratofortress cất cánh từ căn cứ không quân Andersen tại đảo Guam vào ngày 4/3 và tham gia nhiệm vụ huấn luyện định kỳ. Một chiếc thực hiện huấn luyện ở Biển Đông trước khi quay trở lại đảo Guam, trong khi chiếc còn lại tiến hành huấn luyện ở khu vực lân cận Nhật Bản". Theo Không quân Mỹ, cả hai chuyến bay thuộc nhiệm vụ "Hiện diện Liên tục Máy bay ném bom" để duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội Mỹ. Lần gần nhất máy bay có năng lực hạt nhân B-52 thực hiện nhiệm vụ ở khu vực vào tháng 11/2018.

Đô đốc Mỹ cảnh báo Trung Quốc gia tăng hoạt động quân sự ở Biển Đông. Khi được hỏi về hoạt động quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông, Đô đốc Philip Davidson, chỉ huy Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương Mỹ, hôm 7/3 cho hay, “Trung Quốc tiếp tục hoạt động xây dựng, không hề giảm. Trong năm qua, tàu chiến, chiến đấu cơ và oanh tạc cơ của họ hoạt động nhiều hơn so với những năm trước. Đó là mối nguy hiểm đối với các hoạt động giao thương ở Biển Đông". Theo Đô đốc Philip Davidson, "Dù ngân sách quốc phòng hàng năm có xu hướng giảm, tiềm lực quốc phòng của Trung Quốc không suy giảm”.

+ Úc:

Cựu Thủ tướng Úc nhấn mạnh Úc ủng hộ hoạt động FONOP ở Biển Đông. Phát biểu trong một sự kiện ở Anh hôm 5/3, cựu Thủ tướng Úc Malcolm Turnbull cho hay, “Úc không phải một bên tranh chấp ở Biển Đông nhưng chúng tôi kêu gọi cần duy trì tự do hàng hải và hàng không. Chúng tôi kêu gọi chấm dứt việc xây dựng đảo nhân tạo và quân sự hóa các thực thể này. Tranh  hấp các thực thể này tiếp tục là nguyên nhân gây căng thẳng ở khu vực. Tuy nhiên, sẽ là không thực tế khi cho rằng Trung Quốc sẽ rút khỏi các thực thể này. Đó là lý do Úc luôn ủng hộ việc duy trì tự do hàng hải ở Biển Đông, bao gồm hoạt động Anh gần đây diễn tập với hải quân Mỹ ở khu vực”.

Động thái đa phương

Tướng Nhật Bản - Philippines thảo luận về hợp tác quốc phòng và an ninh khu vực. Tham mưu trưởng Lực lượng phòng vệ trên bộ Nhật Bản (JGSD) Đại tướng Koji Yamazaki đã gặp đối tác Philippines Thiếu tướng Macairog Alberto tại trụ sở của Quân đội Philippines ở Fort Bonifacio hôm 4/3. Hai nhà lãnh đạo quân đội đã thảo luận về an ninh khu vực, trong đó có tình hình Biển Đông và các vấn đề như ứng cứu nhân đạo và thảm họa, kế hoạch huấn luyện hậu cần chung và kế hoạch về việc Philippines mua thiết bị quốc phòng từ Nhật Bản. Trong khuôn khổ chuyến thăm Philippines 4 ngày, ông Yamazaki tới thăm Fort Magsaysay, căn cứ bộ binh lớn nhất của Philippines phía Bắc nước này.

Cảnh sát biển Nhật Bản – Malaysia diễn tập cứu hộ ở Biển Đông. Khoảng 40 nhân sự hai bên hôm 4/3 đã tiến đã diễn tập cứu hộ ngoài khơi Malaysia. Hoạt động diễn ra trên một tàu tuần tra Nhật Bản cung cấp cho Malaysia năm 2017 với kịch bản giải cứu người khỏi một tàu bị bắt giữ. Một quan chức cấp cao của Cảnh sát Biển Nhật Bản nhấn mạnh việc củng cố quan hệ với Malaysia sẽ giúp đảm bảo an toàn cho các tàu Nhật bản trên các tuyến hải lộ khu vực.

Lãnh đạo Philippines - Malaysia nhấn mạnh tự do hàng hải ở Biển Đông. Nhận lời mời của Tổng thống Philippines Duterte, Thủ tướng Malaysia Mahathir Bin Muhammad đã có chuyến thăm chính thức Philippines từ ngày 6-7/3. Tuyên bố chung sau cuộc gặp khẳng định: "Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh, ổn định, an toàn và tự do hàng hải-hàng không ở Biển Đông. Hai bên nhất trí các tranh chấp lãnh thổ, quyền tài phán cần được giải quyết hòa bình, tránh sử dụng vũ lực, phù hợp các nguyên tắc phổ quát của luật quốc tế, bao gồm UNCLOS. Hai nhà lãnh đạo bày tỏ hy vọng về một COC hiệu quả ở Biển Đông”.

Phân tích và đánh giá

“Quan điểm trái chiều trong chính giới Philippines về Hiệp ước Phòng vệ Chung với Mỹ”. Trong khuôn khổ chuyến thăm hai ngày tới Philippines, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo cho biết bất kỳ hành động tấn công nào nhằm vào tàu hay máy bay chiến đấu của chính phủ Philippines ở Biển Đông đều sẽ kích hoạt Điều khoản 4 trong Hiệp ước Phòng vệ Chung (MDT) mà hai nước đã ký vào năm 1951. Điều khoản này quy định hai nước sẽ bảo vệ nhau một khi bên kia bị tấn công.

Mặc dù tuyên bố này được hầu hết các lãnh đạo cấp cao của Philippines hoan nghênh, song cũng có một số nhà lập pháp thể hiện phản ứng khác và đưa ra những tuyên bố riêng của mình. Một số bày tỏ muốn có được một tuyên bố rõ ràng và chính xác hơn từ phía Mỹ, và tốt hơn là bằng văn bản. Chuyến thăm này cũng đã tập trung vào vấn đề nên xem xét lại hiệp ước này hay cứ để nguyên như cũ. Ngoại trưởng Philippines Teddy Locsin tin rằng không nên động gì đến hiệp ước, ông muốn giữ nguyên nó.

Về phần mình, Bộ trưởng Quốc phòng Delfin Lorenzana, người đầu tiên đưa ra ý tưởng này cách đây vài tháng, vẫn muốn có một sự xem xét lại để làm rõ một số vấn đề như là cách diễn giải các điều khoản. Theo ông, việc hai nước phải có sự thấu hiểu chung về tất cả các từ ngữ được sử dụng trong hiệp ước là điều rất quan trọng. Ông lấy ví dụ về trường hợp Bãi cạn Scarborough: “Về mặt kỹ thuật, chúng ta chưa bị tấn công, song chúng ta đã mất một hòn đảo mà chúng ta luôn coi là một phần thuộc lãnh thổ của mình. Vậy tình trạng này nên được xếp vào hạng mục nào?”

Trong số tất cả các quan chức cấp cao của Philippines, ông Lorenzana là người nói nhiều nhất về việc xem xét lại MDT, hiệp ước đã ký từ cách đây 68 năm. Theo ông, trong thời gian qua đã có nhiều điều thay đổi khi nói về vấn đề chiến tranh. Hiện nay, các nước thường tham chiến mà không cần tuyên bố chiến tranh chống lại ai như cách đã được áp dụng trong Chiến tranh Thế giới II. Mỹ đã không ngừng chiến đấu kể từ sau khi Chiến tranh Thế giới II kết thúc. Mỹ tiến hành các cuộc chiến ở Hàn Quốc, Việt Nam, Iraq, Grenada, đến Panama để lật đổ Tổng thống Manuel Noriega và hiện vẫn tiếp tục chiến sự ở Iraq, Syria và Afghanistan, nơi chứng kiến cuộc chiến dai dẳng nhất của Mỹ. Trong tất cả các cuộc xung đột này, chiến tranh chưa bao giờ được tuyên bố. Tuy nhiên, Liên Hợp Quốc trước đây vẫn có những nghị quyết cho phép tiến hành các cuộc xung đột trong cả hai cuộc chiến Triều Tiên và Iraq.

Ngoại trưởng Locsin, người không ủng hộ sửa đổi hiệp ước, thì cảnh báo: “Mặc dù tôi nhất trí với Bộ trưởng Lorenzana rằng đã đến lúc phải xem xét lại hiệp ước, và đây là thời điểm tốt nhất đề tiến hành, song mọi người nên cẩn trọng với những gì ông Lorenzana đề xuất bởi điều đó có thể sẽ dẫn đến một cái kết tồi tệ cho thỏa thuận này”.

Hiện chưa rõ ý kiến của người quan trọng nhất Philippines là Tổng thống Duterte. Ông chưa đưa ra bất kỳ bình luận nào cũng như có ủng hộ việc sửa đổi hiệp ước hay không, dù người phát ngôn Phủ tổng thống trong một tuyên bố trước đó đã tuyên bố rằng hiệp ước này nên được giữ nguyên.

Mặc dù vậy, ngay cả khi ông Duterte giữ im lặng trong việc này, chúng ta cũng có thể suy luận cách ông nhìn nhận về các lợi ích an ninh quốc gia. Khi ông nhậm chức vào năm 2016, một trong số những điều đầu tiên ông làm là bãi bỏ cuộc tập trận quân sự thường niên Balikatan. Dù hoạt động này đã được nối lại, nhưng quy mô của nó nhỏ đi rất nhiều và ông chưa bao giờ tham dự như các tổng thống tiền nhiệm. Cùng trong giai đoạn đầu nhậm chức, ông còn có những lời lẽ khiêu khích với châu Âu và Mỹ, đơn phương thay đổi chính sách ngoại giao của đất nước và đưa Philippines xích lại gần Trung Quốc. Ông còn nói trong một bài phát biểu công khai – mà sau đó Phủ tổng thống tuyên bố tất cả chỉ là nói đùa – rằng Trung Quốc đang nỗ lực biến Philippines thành một tỉnh của họ. Quan trọng nhất, ông đã chấm dứt cái ông gọi là những sự đáp trả mang tính đối đầu với những gì mà Trung Quốc đang làm ở Biển Đông bởi “chúng ta sẽ không thể chiến thắng trong một cuộc xung đột với Trung Quốc”.

Kể từ đó, Philippines đã ngừng công khai phản đối Trung Quốc, và thay vào đó là âm thầm thực hiện các biện pháp ngoại giao. Hiện nay, Trung Quốc đã xây dựng rất nhiều đảo nhân tạo và các cơ sở quân sự trên các đảo đó. Nếu có một sự sửa đổi nào đó, thì đội ngũ của ông Duterte sẽ phải có một lập trường chung. Để làm được điều này, có một cách là triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia để tất cả các lãnh đạo cấp cao của đất nước có thể đóng góp các ý tưởng của họ nhằm hình thành một quan điểm chung duy nhất.

Trong bối cảnh hiện nay, Mỹ có khả năng không ủng hộ việc sửa đổi MDT bởi nếu bản thân Philippines còn không nỗ lực để bảo vệ các lợi ích riêng thì việc xem xét lại hiệp ước không có nhiều ý nghĩa. Ngoại trưởng Lorenzana cần tập trung vào việc xây dựng một lập trường duy nhất cho Philippines và nỗ lực chứng tỏ điều này để tạo sự tín nhiệm. Quan trọng nhất, ông ấy nên tích cực thuyết phục tổng thống ủng hộ lập trường này và tin rằng đó là cách tốt nhất để bảo vệ các lợi ích an ninh quốc gia.

Trong số bốn cựu tổng thống còn sống, khả năng là có hai người sẽ ủng hộ bất cứ quyết định nào mà ông Duterter đưa ra, đó là Gloria Arroyo và Joseph Estrada. Trong khi đó, các lập trường của cựu tổng thống Aquino và Ramos thì rõ ràng hơn. Hiện chưa rõ quan điểm của Chủ tịch Thượng viện là gì, song hy vọng là các lãnh đạo sẽ đủ khôn ngoan để có được một sự đoàn kết mạnh mẽ vì lợi ích đất nước.

“Nhân tố thúc đẩy Mỹ cho ra đời thế hệ tàu chiến mới” của Salvatore Babones. Việc xây dựng năng lực hải quân cần tới quá trình lên kế hoạch từ trước hàng thập kỷ, và các nhà hoạch định chiến lược luôn đối mặt với thách thức về thời gian. Từ cuối Chiến tranh Thế giới II, kế hoạch của hải quân Mỹ thường xoay quanh trọng tâm là lực lượng tàu sân bay, song chiến tranh thế giới không phải là thứ thường xuyên diễn ra trong khi người ta cần để tâm tới hàng loạt nhiệm vụ khác. Để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc, Mỹ đã lựa chọn một nhiệm vụ thường xuyên hơn là các cuộc tuần tra bảo vệ tự do hàng hải (FONOP), các chiến dịch không liên quan đến việc tham chiến.

Cho đến nay, Trung Quốc vẫn đủ tỉnh táo và khéo léo tránh thách thức những hoạt động này của Mỹ, song thực tế cho thấy trong trường hợp va chạm, sự “mong manh” của các tàu khu trục Mỹ là điều rất dễ dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng. Tháng 6/2017, tàu USS Fitzgerald đã hư hỏng nặng sau va chạm với một tàu container, khiến 7 thuyền viên của tàu khu trục thiệt mạng. Tháng 8/2017, USS John S. McCain suýt bị một tàu chở dầu “đánh chìm”. 10 thuyền viên đã thiệt mạng trong khi tàu chở dầu trong va chạm không hề hấn gì. Tạm gạt sang một bên kỹ năng yếu của thủy thủ đoàn, hai vụ va chạm này nhấn mạnh tới lỗ hổng nghiêm trọng trong lực lượng tàu hải quân hiện nay là khả năng “sống sót” yếu.

Hải quân Mỹ cần hỏa lực từ hạm đội tàu sân bay tấn công cũng như hạm đội khu trục có tên lửa dẫn đường. Tuy nhiên, họ cũng cần những con tàu có thể đứng vững sau các va chạm và tiếp tục di chuyển sau tấn công. Đây càng trở thành một tiêu chuẩn quan trọng hơn khi Trung Quốc đang gấp rút phát triển năng lực tấn công của mình. Sẽ sớm đến lúc người ta nhận ra rằng việc đưa các tàu chiến thiếu trang bị và thiết giáp tới Biển Đông là điều cực kỳ nguy hiểm.

Các phương tiện do thám là cách tránh xung đột, và Mỹ vẫn là nước dẫn đầu trong việc phát triển các tàu khu trục do thám. Tuy nhiên, hoạt động âm thầm này lại không làm nổi bật ý nghĩa và mục đích của các chiến dịch FONOP. Một tàu chiến phù hợp với thời đại là loại tàu vừa có lớp vỏ thiết giáp tân tiến vừa có hệ thống kiểm soát thiệt hại tự động để biến con tàu đó thành vật thể gần như không thể chìm. Các vũ khí tấn công có thể được trang bị cụ thể tùy theo nhiệm vụ song mục tiêu chính là để đảm bảo sự sống còn. Đó phải là một con tàu có thể tham gia một cuộc chiến và vẫn có thể đủ sức trở về.

“Tàu chiến của tương lai” có thể giải quyết thách thức đặt ra bởi chiến lược chống tiếp cận/chống xâm nhập (A2/AD) ngày một rõ nét của Trung Quốc, chiến lược nhằm đánh bật Mỹ khỏi Biển Đông. Trung Quốc đang nhanh chóng mở rộng và cải thiện mạng lưới giám sát trên bờ, ngoài khơi, dưới biển và cả trong không gian với mục tiêu bao quát toàn bộ hoạt động diễn ra trong khu vực từ đại lục tới chuỗi đảo thứ nhất (gồm Nhật Bản, Okinawa, Đài Loan và Philippines). Những cải thiện trong lĩnh vực phát triển vũ khí tân tiến đồng nghĩa với việc Trung Quốc có thể tấn công mọi mục tiêu mà họ nắm được.

Mỹ cần phải thay đổi một loạt kế hoạch tác chiến với những khái niệm như chiến tranh hàng hải/hàng không (AirSea Battle), “can dự vùng quốc tế toàn cầu và liên hợp cơ động” (JAM-GC) cũng như chiến lược “bù đắp thứ ba” (Third Offset) – chiến lược nhằm duy trì lợi thế tối ưu về quân sự bằng các loại vũ khí mới được tạo ra bằng các công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại nhất. Điểm chung của cả 3 kế hoạch này là coi “tấn công hiệu quả là cách phòng thủ tối ưu nhất”. Thay vì phòng thủ và chống đỡ với các cuộc tấn công A2/AD, các chuyên gia cho rằng Mỹ nên tấn công phủ đầu để chiếm quyền kiểm soát các mạng lưới chỉ huy có liên quan trực tiếp tới hệ thống giám sát và điều phối vũ khí của Trung Quốc.

Vấn đề nằm ở chỗ điều này chắc chắn sẽ nhanh chóng kích động mâu thuẫn thành một cuộc xung đột tổng lực. Vì vậy, thế hệ tàu chiến tương lai được xem là lựa chọn khả thi hơn bởi chúng giúp Mỹ có thể phòng thủ hiệu quả trong các cuộc xung đột giới hạn. Lấy ví dụ, một tàu chiến kiểu này có thể đối phó các hành vi khiêu khích của Trung Quốc bằng cách vô hiệu hóa hệ thống giám sát dưới đáy biển hoặc cắt cáp ngầm của Trung Quốc. Các tàu này cũng có thể “sống sót” khi bị tấn công, và trong trường hợp các xung đột vì A2/AD leo thang thành chiến sự, các con tàu này cũng có thể thiết lập một vùng nguy hiểm nơi khả năng tấn công của Mỹ sẽ lật ngược thế cờ.

Các chiến dịch FONOP diễn ra thường xuyên hơn càng nhấn mạnh tới sự cần thiết của các lựa chọn này. Mối đe dọa từ A2/AD (của Trung Quốc) sẽ khiến các nhiệm vụ mà Mỹ tiến hành thêm phần nguy hiểm, và chỉ có những tàu chiến được thiết kế và trang bị phù hợp mới có thể triển khai hiệu quả trong khu vực.

“Vai trò của Indonesia đối với ASEAN trong tình hình mới” của tác giả John Lee. Tại Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt ASEAN- Australia ở Sydney hồi tháng 3/2018, Thủ tướng Úc lúc đó là Malcolm Turnbull đã nhắc lại rằng nước ông tin tưởng vào vai trò trung tâm của ASEAN. Việc cựu Thủ tướng Úc nhấn mạnh lại vấn đề đó cho thấy quốc gia này tiếp tục coi trọng ASEAN trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều biến động.

Trong hai năm qua, Mỹ, Úc, Nhật Bản và Ấn Độ đã tái lập cuộc họp của nhóm bộ Tứ ở cấp chính thức cấp cao hơn mức cuộc gặp cấp bộ trưởng. Cùng với Trung Quốc, 4 quốc gia này là các cường quốc hải quân trong khu vực. Các thành viên nhóm bộ Tứ cam kết với khái niệm về "Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở (FOIP)" mặc dù có sự khác biệt về ý nghĩa của mỗi quốc gia theo thuật ngữ đó.

Khi Trung Quốc đang nỗ lực thay đổi trật tự chiến lược khu vực, các cường quốc ngoài ASEAN đã chuyển sang tư duy phản biện. Việc ASEAN tiếp tục thể hiện đóng vai trò trung tâm, theo quan điểm của các quốc gia bộ Tứ, phụ thuộc vào cách tổ chức này phản ứng với các vấn đề của khu vực. Nếu ASEAN muốn duy trì tính trung tâm ngoại giao thì phải thay đổi tư duy và Indonesia là quốc gia nắm giữ chìa khóa.

Thoạt nhìn, FOIP là một sự tái khẳng định trật tự dựa trên các quy tắc kinh tế và an ninh đã tồn tại kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, đặc biệt là tôn trọng luật pháp quốc tế, tự do của các khu vực và toàn cầu như hàng không, hàng hải, không gian mạng và cách thức các quốc gia tiến hành quan hệ kinh tế. Các quốc gia ASEAN nên thoải mái với các nguyên tắc của FOIP trong việc bảo vệ quyền lợi của tất cả các quốc gia bất kể quy mô và quyền lực. Nhưng phản ứng của các quốc gia ASEAN có vẻ chưa cho thấy rõ điều này, ngoài Indonesia và Việt Nam, nhiều quốc gia thành viên ASEAN chưa dám bộc lộ quan điểm của mình do còn e ngại Trung Quốc.

Có những lo ngại rằng sự thay đổi và mở rộng trọng tâm địa chiến lược từ châu Á-Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương sẽ làm giảm tính trung tâm ngoại giao và sự phù hợp của ASEAN, mặc dù các cuộc họp do ASEAN dẫn đầu như Hội nghị thượng đỉnh Đông Á đã bao gồm Ấn Độ và Thái Bình Dương. Việc mối quan tâm mới được tìm thấy ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là một sáng kiến của 3 thành viên ngoài ASEAN làm tăng sự lo ngại trong ASEAN rằng các sự kiện và thảo luận ngoại giao có thể vượt qua cả vai trò trung tâm của ASEAN.

Hơn nữa, các quốc gia ASEAN tìm cách quản lý các mối quan hệ với các cường quốc bằng cách áp dụng các nguyên tắc của tính bao gồm và tính trung lập (tối đa hóa đòn bẩy ngoại giao thông qua bảo vệ đặc quyền của mình để xác định các thuật ngữ này có nghĩa gì). Nếu ASEAN được xem là hỗ trợ cho FOIP, phần lớn nhằm vào Trung Quốc thì sự cam kết của tổ chức này đối với các nguyên tắc của FOIP sẽ làm thay đổi rất nhiều cách thức giải quyết các vấn đề quốc tế hiện nay và nó cũng sẽ làm chia rẽ ASEAN.

Thách thức đối với ASEAN là những gì hoạt động tốt trong quá khứ sẽ kém hiệu quả trong môi trường mới hiện nay. Trung Quốc đang ngày càng thách thức vai trò của Mỹ ở khu vực và các khía cạnh của trật tự dựa trên các quy tắc khi hiện nay họ đang có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện việc này. Chiến lược lớn của Trung Quốc là làm suy yếu vai trò chiến lược của Mỹ và làm giảm uy tín của Washington, với tư cách là nhà cung cấp bảo mật và dần dần phá hủy hệ thống liên minh.

Các nguyên tắc trung lập của ASEAN rất phù hợp với môi trường không có bất đồng lớn giữa các cường quốc. Các nguyên tắc như vậy bị thách thức khi xảy ra cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và các đồng minh và đặc biệt là căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc đang ngày càng gia tăng.

Hơn nữa, việc ASEAN có thiên hướng tránh xung đột đã khiến tổ chức này và nhiều quốc gia thành viên có đường lối mềm mỏng hơn đối với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Điều này đang xảy ra ngay cả khi Trung Quốc đang có các hành động cải tạo quy mô lớn và quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông nhằm làm thay đổi cán cân chiến lược theo hướng có lợi cho họ. Có 5 trong số 10 quốc gia ASEAN hiện có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông. Mỹ, Nhật Bản và Úc đang trở nên ít đồng cảm hơn với viễn cảnh bất đồng về Biển Đông chủ yếu là vấn đề giữa Trung Quốc-ASEAN và sẽ không ngồi yên nếu Bắc Kinh tiếp tục đạt được những tiến bộ chiến lược trong vùng biển quốc tế đó.

Do đó, vai trò trung tâm của ASEAN chỉ có ý nghĩa nếu tính trung tâm của nó được các cường quốc bên ngoài chấp nhận. Sự thiếu kiên nhẫn với ASEAN sẽ tăng lên nếu tổ chức này không biết cách vượt qua các thách thức khu vực, làm ảnh hưởng đến lợi ích, an ninh của các cường quốc bên ngoài. Mỹ và các đồng minh hoàn toàn có thể bỏ qua ASEAN khi đề cập đến các cuộc đối thoại về các vấn đề chiến lược thực sự quan trọng.

Đây là nơi Indonesia tìm đến và thể hiện vai trò của mình. Jakarta thoải mái với khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, một phần nhờ vào vị trí địa lý của họ như là một cửa ngõ giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Indonesia sẵn sàng nói chuyện cởi mở và thẳng thắn về những vi phạm của Trung Quốc, kể cả ở Biển Đông.

Trong một bài phát biểu tháng trước, Ngoại trưởng Retno Marsudi đã bày tỏ sự gia tăng mối quan tâm của Indonesia trong việc lãnh đạo các quốc gia Đông Nam Á khác xây dựng khuôn khổ khu vực tự do và rộng mở cho Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Mục đích rõ ràng là đảm bảo ASEAN áp dụng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để bảo vệ lợi ích của các thành viên.

Đây không phải là điều đơn giản và không tính đến các ưu tiên của Mỹ và đồng minh. Nó báo hiệu một cách tiếp cận chủ động để thúc đẩy các lợi ích của Đông Nam Á trong một môi trường ngày càng bất ổn và nguy hiểm mà đòi hỏi ASEAN phải góp phần tìm ra cách giải quyết để duy trì ổn định khu vực. Đó là một cách xây dựng để tham gia với Mỹ và các đồng minh và thậm chí tìm cách định hình các ưu tiên sau này theo cách phục vụ lợi ích của các quốc gia thành viên ASEAN. Có vẻ như Indonesia hiểu rằng tương lai ASEAN đang bị đe dọa.

“Philippines có quay lưng với đầu tư Trung Quốc vì an ninh biển?” của Giáo sư Aileen S P Baviera. Tháng 1/2019, tập đoàn Công nghiệp Nặng và Xây dựng Hanjin của Hàn Quốc đã ngừng hoạt động đóng tàu ở Philippines. Tập đoàn Hanjin có vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất ở Philippines kể từ khi họ bắt đầu hoạt động ở quốc gia này năm 2006. Lượng tàu xuất khẩu của tập đoàn này đã giúp đưa Philippines vào danh sách quốc gia đóng tàu lớn thứ 5 thế giới. Chỉ riêng xưởng đóng tàu của Hanjin có diện tích 300 ha trên vịnh Subic, nơi từng là căn cứ hải quân lớn nhất của Mỹ ở phía Tây Thái Bình Dương, trước khi nơi đây trở thành khu vực hải cảng tự do vào năm 1992. Ở thời điểm đỉnh cao, Hanjin có tới 33.000 nhân công lao động.

Việc đóng cửa xưởng đóng tàu của Hàn Quốc đặt ra khó khăn cho chính quyền Tổng thống Duterte về việc giải quyết công ăn việc làm cho 3.000 công nhân thất nghiệp. Tập đoàn này hiện có khoản nợ 1,3 tỷ USD (trong đó vay nợ 400 triệu USD từ 5 ngân hàng Philippines). Con số 400 triệu USD chưa đủ lớn để gây ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng của Philippines, chưa kể tới toàn bộ nền kinh tế, nhưng ảnh hưởng của nó tới ngành công nghiệp đóng tàu và người dân địa phương là rất nghiêm trọng. Công cuộc tìm kiếm các nhà đầu tư mới - hay còn gọi là các “vị cứu tinh” - vẫn đang diễn ra, điều nhận được sự quan tâm từ 3 tập đoàn của Trung Quốc và có thể cả các công ty của Philippines, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ và châu Âu.

Khả năng lớn nhất hiện nay là một nhà đầu tư Trung Quốc sẽ tiếp quản xưởng đóng tàu đó. Cả Trung Quốc và Philippines đều đang quan tâm đến việc củng cố hợp tác đầu tư, trong khi Trung Quốc có năng lực và kinh nghiệm là nước đóng tàu hàng đầu thế giới. Các quan chức và các chủ nợ có thể sẽ mong muốn giải pháp đơn giản và nhanh chóng như vậy.

Một mặt, một nhà đầu tư mới có thể cứu giúp ngành công nghiệp này, mang lại công ăn việc làm cho các công nhân bị sa thải, giúp chi trả cho các chủ nợ và tiếp tục chuyển giao các công nghệ và kỹ năng liên quan tới ngành công nghiệp hàng hải được coi là vô cùng cần thiết cho Philippines. Mặt khác, Philippines không có xu hướng coi Trung Quốc là nhà đầu tư bình thường, do các tranh chấp lãnh thổ hiện nay và nghi ngờ về các ý định chiến lược của Bắc Kinh.

Trong khi đó, Hải quân Philippines đang tích cực vận động để tiếp quản ít nhất một phần các cơ sở này, với việc cả Bộ trưởng Quốc phòng Delfin Lorenzana và Tổng thống đều bày tỏ dấu hiệu rằng họ sẵn sàng xem xét lựa chọn này. Các lập luận được Hải quân và những người ủng hộ đưa ra dựa trên 3 điểm sau đây.

Thứ nhất, Philippines, với tư cách quốc gia quần đảo, cần phát triển hơn nữa năng lực sửa chữa và đóng tàu. Điều này phù hợp với các nỗ lực hiện nay của Philippines nhằm tăng cường hàng phòng thủ bên ngoài, thúc đẩy an ninh hàng hải và bảo vệ các nguồn tài nguyên biển phong phú của họ. Hải quân Philippines đã bắt đầu triển khai thêm tàu hải giám mới và có kế hoạch đóng hơn 30 tàu trong vòng 5-10 năm tới.

Các lực lượng khác có thể hưởng lợi từ cơ sở hạ tầng hiện đại phục vụ cho nhu cầu của ngành hàng hải bao gồm Lực lượng bảo vệ bờ biển (có nhiệm vụ bảo vệ 36.000 km bờ biển), cục đánh bắt thủy sản và các cơ quan hàng hải khác thực thi luật pháp ở vùng biển bao quanh 7.500 hòn đảo của Philippines.

Lý do thứ 2 để ủng hộ việc Hải quân tiếp quản xưởng đóng tàu đó là việc thiếu vắng một cảng biển nước sâu được bảo vệ nghiêm ngặt để có thể xây dựng nhà kho mới cho các tàu hải giám lớn. Các căn cứ hải quân hiện nay không có diện tích biển đủ lớn hay đủ sâu để tàu cập bến. Vịnh Subic ở phía Tây Bắc Philippines sẽ mang lại lợi thế phản ứng nhanh cho Hải quân trong trường hợp xảy ra đụng độ an ninh gần Bãi cạn Scarborough, biển Tây Philippines hay thậm chí vùng bờ biển phía Đông Bắc gần Benham Rise.

Theo các nhà quan sát an ninh khu vực, lập luận thuyết phục hơn cả đó là Vịnh Subic nên được bảo vệ trước sự kiểm soát của các lực lượng gây bất ổn. Sự kiểm soát trên thực tế của Trung Quốc tại Bãi cạn Scarborough gần đó kể từ năm 2012 và sự hiện diện quân sự của Bắc Kinh trên Đá Xu Bi, Đá Chữ Thập, Đá Vành Khăn từ năm 2014 đã làm mất đi thế cân bằng quân sự ở Biển Đông theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Điều này gây ra quan ngại cho Philippines, các nước ven biển khác và các cường quốc hàng hải như Mỹ và Nhật Bản.

Trong trường hợp xảy ra chiến tranh, các rạn san hô bị cô lập đó có thể được coi là không thể được bảo vệ. Tuy nhiên, sự hiện diện của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và lực lượng dân sự của họ ở khu vực xung quanh giờ đây định hình và hạn chế các lựa chọn chiến lược của các quốc gia khác. Các tranh chấp lãnh thổ hiện chưa được giải quyết, kết quả cuộc cạnh tranh địa chính trị Mỹ-Trung vẫn chưa ngã ngũ trong khu căng thẳng xung quanh eo biển Đài Loan đang leo thang.

Trong hoàn cảnh như vậy, các địa điểm chiến lược như Vịnh Subic - nơi quân đội Mỹ và Philippines vẫn đang tổ chức các cuộc tập trận - trở nên quan trọng hơn, không chỉ với Philippines mà còn với các lợi ích an ninh của Trung Quốc và khu vực. Chính quyền Duterte không muốn bị kẹt giữa hai cường quốc trong lúc quan hệ kinh tế với Trung Quốc đang tăng mạnh. Tuy nhiên, sức mạnh hải quân đang lên và những hành động quyết đoán gần đây của Bắc Kinh đe dọa triệt tiêu các lợi ích kinh tế và ngoại giao có được từ mối quan hệ được thúc đẩy từ năm 2016. Vụ việc Hanjin là một điển hình của thế tiến thoái lưỡng nan mà Manila đang đối mặt trong chính sách Trung Quốc của họ.

“Tốc độ tăng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đang chậm lại”. Hiện đang là thời điểm ngân sách quốc phòng của các cường quốc lớn trên thế giới được quyết định. Trong tuần này, Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ đệ trình yêu cầu của ông về chi tiêu quốc phòng trong tài khóa 2020, đó là 750 tỷ USD - con số chưa từng có trong lịch sử, trong đó bao gồm khoản tiền cực kỳ lớn là 174 tỷ USD cho ngân sách được biết đến với tên gọi quỹ "hoạt động dự phòng ở nước ngoài".

Hiện Trung Quốc đã công bố ngân sách chi tiêu cho các hoạt động quân sự trong năm 2019, và cũng như Mỹ, ngân sách này của Trung Quốc cũng ở mức cao nhất trong lịch sử của nước này là 1,19 nghìn tỷ nhân dân tệ (tương đương 177,6 tỷ USD). Ngân sách quốc phòng năm 2019 tăng 7,5% so với mức 1,107 nghìn tỷ nhân dân tệ trong năm 2018. Tuy nhiên, vấn đề không phải nằm ở chỗ chi tiêu quân sự của Trung Quốc đang tăng lên, mà là tăng lên bao nhiêu. Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đã tăng hàng năm kể từ giữa những năm 90 của thế kỷ trước, nhưng gần đây mức tăng hàng năm đã chậm lại.

Bắt đầu từ khoảng năm 1997, gần như năm nào tỷ lệ tăng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc cũng ở mức hai con số (đó là có tính tới cả lạm phát). Thậm chí theo số liệu thống kê chính thức của Trung Quốc (vốn bị nhiều chuyên gia cho rằng đã giảm đi rất nhiều so với mức chi tiêu thực tế), ngân sách quốc phòng của Trung Quốc từ năm 1999 đến năm 2008 đã tăng trung bình 16,2%/năm.

Xu hướng này về cơ bản vẫn không đổi trong suốt nửa đầu thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI. Ví dụ, từ năm 2009 đến năm 2015, chi tiêu quân sự của Trung Quốc đã tăng từ 481 tỷ nhân dân tệ (70,3 tỷ USD) lên khoảng 886,9 tỷ nhân dân tệ. Nhìn chung, giai đoạn 1997-2015, chi tiêu quân sự của Trung Quốc tăng ít nhất 600%, sau lạm phát.

Năm 1997, chi tiêu quân sự của Trung Quốc chỉ chiếm 10 tỷ USD, ở mức tương đương với Đài Loan và thấp hơn rất nhiều so với ngân sách quốc phòng của Nhật Bản hay Hàn Quốc. Ngày nay, chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc đã vượt qua tất cả quân đội của các quốc gia châu Âu và châu Á khác, bao gồm cả Nga.

Kết quả là, Trung Quốc trở thành quốc gia có ngân sách quốc phòng lớn thứ hai trên thế giới (chỉ sau Mỹ). Tuy nhiên, sự hào phóng của Bắc Kinh đối với Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) là điều hoàn toàn dễ hiểu: mặc dù ngân sách này liên tục tăng trong suốt hơn 20 năm qua, song thực tế Trung Quốc vẫn chỉ tiêu khoảng 2% GDP vào quân sự.

Tốc độ tăng chi tiêu quốc phòng chậm lại

Tuy nhiên, kể từ năm 2016, tốc độ tăng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc đã chậm lại đáng kể. Năm 2016, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc chỉ tăng 7,6% so với năm 2015, sau đó mức tăng này lần lượt là 7% năm 2017 và 8,1% năm 2018. Nói cách khác, tính tới nay, tỉ lệ tăng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc chỉ ở mức 1 con số trong suốt 4 năm liên tiếp. Điều này có vẻ báo hiệu xu thế mới là chi tiêu quân sự của Trung Quốc sẽ còn khiêm tốn hơn nữa trong những năm tới. Trên thực tế, nếu tính bằng đồng đôla Mỹ với tỷ giá hiện nay thì mức tăng năm 2019 thực sự chỉ là 1,7% (177,6 tỷ USD năm 2019 so với 173 tỷ USD năm 2018).

Cần lưu ý rằng đây chỉ là giảm mức tăng ngân sách chứ không phải cắt giảm chi tiêu quốc phòng. Tuy nhiên, có vẻ như Trung Quốc không còn khả năng để tăng chi tiêu quốc phòng với tỷ lệ 2 con số trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đang chậm lại. Giai đoạn 1998-2007, GDP của Trung Quốc tăng trung bình 12,5%/năm. Tuy nhiên, kể từ năm 2010, tăng trưởng GDP của Trung Quốc đã giảm xuống dưới mức 7%.

Trong một khoảng thời gian dài, chi tiêu quân sự của Trung Quốc luôn cao hơn mức tăng trưởng GDP. Nền kinh tế Trung Quốc tăng 12,5%/năm trong giai đoạn 1998-2007, nhưng ngân sách cho quốc phòng tăng gần 16%/năm.

Tuy nhiên, hiện nay có vẻ như khoản chi tiêu khổng lồ cho quân sự đang dần trở thành gánh nặng quá mức đối với nền kinh tế Trung Quốc. Sự bất cân xứng giữa tăng trưởng kinh tế và chi tiêu quốc phòng ngày càng trở nên rõ rệt, và kết quả là Trung Quốc không thể tăng chi tiêu quốc phòng quá lớn.

Tham vọng trở thành cường quốc toàn cầu

Mặc dù mức tăng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc có thể chậm lại, song tiềm năng trở thành một cường quốc toàn cầu của nước này hầu như vẫn không suy giảm. Mặc dù có vẻ như Trung Quốc sẽ không chi tiêu nhiều cho quân sự trong những năm tới, song Bắc Kinh vẫn có thể bơm rất nhiều tiền cho PLA.

Trước đây, Trung Quốc từng công bố Sách Trắng quốc phòng, trong đó tuyên bố rằng 1/3 ngân sách quốc phòng sẽ được dùng cho "trang thiết bị", có nghĩa rằng tiền sẽ được dùng để mua sắm, cũng như để nghiên cứu và phát triển trang thiết bị quân sự (trên thực tế, hoạt động nghiên cứu và phát triển trang thiết bị quân sự đã không còn là một phần trong thống kê ngân sách quốc phòng của Trung Quốc, có thể bởi vì chi tiêu cho hoạt động này quá ít ỏi).

Áp dụng theo công thức này đối với ngân sách quốc phòng năm 2019, 1/3 sẽ là 59,2 tỷ USD. Có thể mua được bao nhiêu trang thiết bị quân sự với số tiền này? Câu trả lời là rất nhiều. Con số 59,2 tỷ USD còn lớn hơn cả toàn bộ ngân sách quốc phòng của Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức hay Anh.

Chúng ta có thể mua được rất nhiều trang thiết bị với 59 tỷ USD, và thực tế Trung Quốc hiện đang tự xây dựng chiếc hàng không mẫu hạm thứ hai, và Bắc Kinh cũng đang phát triển máy bay ném bom tầm xa được trang bị công nghệ tàng hình mới và một máy bay vận tải quân sự lớn (có thể so sánh với máy bay vận tải C-17 do Mỹ sản xuất). Ngoài ra, PLA hàng năm đều có thêm hàng chục máy bay chiến đấu thế hệ thứ 4 và thứ 5 (bao gồm máy bay J-20), các tàu tấn công đổ bộ, tàu ngầm, tàu khu trục nhỏ, các phương tiện bọc sắt hiện đại và hệ thống pháo binh. Trung Quốc cũng đang hiện đại hóa các lực lượng hạt nhân của mình với các tên lửa đạn đạo liên lục địa lưu động mới và các tàu ngầm hạt nhân có khả năng mang tên lửa.

Đồng thời, Trung Quốc cũng không từ bỏ kế hoạch quân sự hóa Biển Đông, nỗ lực tiến sâu hơn vào Ấn Độ Dương (bao gồm việc thiết lập các căn cứ quân sự đầu tiên ở nước ngoài tại Djibouti ở vùng Sừng châu Phi), hay sáng kiến đầy tham vọng Vành đai và Con đường.

Cho dù coi đây là mối đe dọa hay thách thức, thì động lực của Trung Quốc để trở thành một cường quốc lớn trên toàn cầu sẽ không bao giờ suy giảm, và việc giảm tốc độ tăng chi tiêu quốc phòng hầu như không ảnh hưởng gì tới chiến dịch này của Bắc Kinh./.

Thực hiện: Đinh Anh