Bản PDF tại đây

Động thái của các quốc gia

+ Trung Quốc:

Trung Quốc phản đối Việt-Ấn hợp tác thăm dò dầu khí ở Biển Đông. Phát biểu trong cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 28/10, Người phát ngôn Hồng Lỗi tuyên bố: “Về hoạt động khai thác dầu khi ở Biển Đông, quan điểm của Trung Quốc là nhất quán và rõ ràng. Trung Quốc không phản đối các hoạt động thăm dò dầu khí hợp pháp và chính đáng ở những vùng biển không tranh chấp. Tuy nhiên, Trung Quốc sẽ kiên quyết phản đối nếu các hoạt động đó tổn hại tới chủ quyền và quyền lợi quốc gia của mình. Hiện tại tình hình Biển Đông tương đối ổn định. Trung Quốc hy vọng các bên liên quan làm nhiều điều có lợi hơn cho hòa bình và ổn định ở Biển Đông.” Về chuyến thăm Việt Nam của Ủy viên Quốc Vụ Viện Dương Khiết Trì, ông Hồng cho hay, “Trong phiên họp lần thứ 7 của Ủy ban Chỉ đạo Hợp tác Song phương Việt-Trung, hai bên nhất trí tuân thủ tinh thần các thỏa thuận liên quan và sự đồng thuận hai bên, giải quyết đúng đắn vấn đề trên biển, sử dụng đầy đủ các cơ chế liên chính phủ về vấn đề biên giới, đồng thời tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà cả hai bên cùng chấp nhận. Hai bên cần kiểm soát và xử lý tốt hơn các tranh chấp biển, kiềm chế các hành động phức tạp và mở rộng tranh chấp.”

Trung Quốc sở hữu đội tàu tuần tra khủng trên biển. Theo tạp chí quân sự Asia Military Review (Thái Lan), Trung Quốc hiện có khoảng 400 tàu tuần tra để bảo vệ các vùng biển mà nước này yêu sách tại Biển Đông và Biển Hoa Đông. Đội tàu tuần duyên lớn nhất Châu Á - Thái Bình Dương này, với trọng tải của đội tàu trong khoảng từ 1.150 tấn đến 3.400 tấn, sắp được bổ sung thêm 36 tàu. Trong khi lực lượng tuần duyên Nhật Bản hiện chỉ có 50 tàu tuần duyên, nhưng chất lượng các tàu này vượt trội hơn so với tàu Trung Quốc.

Trung Quốc dự tính sản xuất ụ nổi đưa ra Biển Đông. Tại Triển lãm Công nghệ Tàu biển Trung Quốc 2014 tại Đại Liên, một quan chức thuộc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Tàu thủy thuộc Tập đoàn Công nghiệp Đóng tàu Trung Quốc cho hay Bắc Kinh đang nghiên cứu phát triển các ụ nổi đa năng để đưa ra Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam). Các ụ nổi này sẽ được sản xuất tại Trung Quốc và vận chuyển đến khu vực các quần đảo trên để lắp ráp. Cấu trúc của ụ nổi, gồm một sàn hình chữ nhật lớn và một cầu nối sàn này với một hòn đảo hoặc một bãi đá ngầm, có thể được sử dụng làm nơi neo đậu cho các tàu thuyền trọng lượng 1.000 tấn, trạm sửa chữa, bảo trì cho các tàu cá, hứng nước mưa và làm kho chứa các trang thiết bị khác. Phiên bản thứ hai của ụ nổi là một tàu bán chìm có thể tự hành trong khoảng cách ngắn để phục vụ công tác xây dựng và bảo trì đảo nhân tạo.

Trung Quốc đưa tàu hải cảnh 4.000 tấn tới Biển Đông. Tập đoàn đóng tàu nhà nước Trung Quốc cho hay, ngày 17/10 tàu Hải Cảnh 3402 loại 4.000 tấn do công ty Văn Trùng - Hoàng Phố đóng chính thức được biên chế cho Tổng đội Nam Hải, Hải giám Trung Quốc. Tàu dài 99m, rộng 15,2m, tốc độ tối đa 18 hải lý/h, hành trình liên tục 10.000 hải lý được trang bị nhiều trang thiết bị tiến tiến. Đây là tàu chấp pháp thứ 3 được trang bị cho Tổng đội Nam Hải trong năm 2014.

+ Việt Nam:

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức Ấn Độ. Chiều 27/10, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới New Delhi, bắt đầu chuyến thăm chính thức Ấn Độ theo mời của Thủ tướng Narendra Modi. Hôm 28/10, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc hội đàm với Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi. Hai đều khẳng định chính sách nhất quán của mỗi nước luôn coi trọng việc gìn giữ và phát triển mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác Đối tác chiến lược giữa hai nước.  Theo đó, hai bên nhất trí làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược và tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực. Hai bên nhất trí cho rằng tự do hàng hải và hàng không tại Biển Đông không thể bị cản trở và kêu gọi các bên liên quan kiềm chế, không sử dụng hoặc đe đoạ sử dụng vũ lực, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với các nguyên tắc được công nhận của luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS 1982. Hai Thủ tướng hoan nghênh cam kết chung của các bên liên quan tuân thủ và thực hiện DOC năm 2002, hướng tới xây dựng COC trên cơ sở đồng thuận.

+ Philippines:

Tòa Trọng tài có thể sớm ra phán quyết về vụ kiện của Philippines. Trả lời phỏng vấn đài truyền hình ANC ngày 30/10, Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario cho hay Philippines hy vọng Tòa án trọng tài ở La-Hay có thể ra phán quyết vào quý 1/2016 và “phán quyết này sẽ làm rõ các quyền lợi biển của Philippines ở Biển Đông, qua đó mở đường hướng tới việc giải quyết các tranh chấp.” Theo ông Rosario, tiến trình pháp lý sẽ vẫn diễn ra dù có hay không có sự tham gia của Trung Quốc, “Nếu Trung Quốc không gửi phản biện lên Tòa vào ngày 16/12, thì sau đó Tòa Trọng tài sẽ gửi các câu hỏi cho phía Philippines. Chúng tôi dự kiến trả lời các câu hỏi này vào tháng 3 năm tới và sau đó đến tháng 7, sẽ diễn ra các buổi điều trần trong khoảng 2 tuần.”

+ Malaysia:

Tàu ngầm Malaysia diễn tập bắn ngư lôi tại Biển Đông. Lực lượng Hải quân Malaysia cho biết tàu ngầm KD Tun Abdul Razak của nước này đã bắn một quả ngư lôi Black Shark vào trúng mục tiêu trong đợt tập luyện hôm 31/10 vừa qua, “Việc này dấu lần đầu tiên tàu ngầm chúng tôi làm như vậy kể từ sau khi chiếc tàu ngầm lớp Scorpene đầu tiên được đưa đến cảng Klang hồi tháng 9/2003.” Black Shark là ngư lôi hạng nặng dùng để tấn công các khu trục hạm cỡ lớn và tàu sân bay. Tham gia cuộc tập trận trên biển còn có 4 tàu hải quân, 1 trực thăng Fennec, một tàu chiến CB90 và tàu chuyên dụng hỗ trợ tàu ngầm Mega Bakti.

+ Indonesia:

Indonesia khuyến cáo Trung Quốc không gây bất ổn ở Biển Đông. Trong một bài phát biểu tại Singapore hôm 29/10, Tổng tham mưu trưởng quân đội Indonesia Tướng Moeldoko cho hay, “Trung Quốc là một siêu cường kinh tế nhưng nước này cần tránh sử dụng sức mạnh quân sự có thể gây mất ổn định khu vực. Chỉ một xáo trộn nhỏ ở các vùng biển cũng tạo ra những tác động lớn, gây rối loạn khu vực”. Theo ông Moeldoko, lực lượng phòng vệ của Indonesia có đủ nguồn lực để bảo vệ vùng biển của nước này

+ Nhật Bản:

Nhật Bản thành lập Liên minh nghị sỹ về an ninh biển. Cuộc họp đầu tiên của Liên minh được tổ chức hôm 29/10 tại Quốc hội Nhật Bản thu hút sự tham gia của 34 nghị sỹ thuộc 6 chính đảng của nước này. Tại cuộc họp, nghị sỹ Takeo Hiranuma, Chủ tịch Liên minh cho rằng việc tàu Trung Quốc thường xuyên thâm nhập lãnh hải quần đảo Senkaku/Điếu Ngư là mối đe dọa lớn đối với Nhật Bản. Nhật Bản cần liên kết với các nước Châu Á khác để xây dựng trật tự luật pháp quốc tế. Liên minh trên cho hay sẽ kêu gọi nghị sỹ các nước Châu Á như Philippines, Việt Nam, Indonesia tham gia xây dựng Liên minh nghị sỹ quốc tế nhằm tạo dư luật thế giới phản đối những hành động quyết đoán trên biển của Trung Quốc.

Quan hệ các nước

Hải quân Campuchia, Mỹ tham gia tập trận CARAT 2014. Ngày 27/10, hai nước bắt đầu cuộc tập trận kéo dài 5 ngày tại căn cứ hải quân Ream thuộc tỉnh Sihanoukville, Tây Nam Campuchia. Cuộc tập trận mang tên “Hợp tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu trên biển” năm 2014 có sự tham gia của 600 lính hải quân, không quân Campuchia cùng 400 binh sỹ hải quân Mỹ. Trên thực địa, binh sỹ hai nước sẽ thực hành huấn luyện kiểm soát thiệt hại, cứu thương, bảo vệ lực lượng, tìm kiếm. Trên biển, tàu chiến USS Mustin (DDG 89), liên đội tàu chiến Destroyer Squadron 7 và trực thăng MH-60R của hải quân Mỹ sẽ phối hợp với 2 tàu tuần tra lớp Stenka RCN của Campuchia diễn tập bắn đại bác, giả định tìm kiếm và cứu nạn. CARAT là cơ hội cho hải quân các nước trong khu vực cùng rèn luyện và thúc đẩy hợp tác an ninh biển.

ASEAN – Trung Quốc thảo luận về thực thi DOC ở Biển Đông. Cuộc họp lần thứ 8 Quan chức Cấp cao ASEAN – Trung Quốc về thực thi DOC dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân và Thứ trưởng Ngoại giao Thái Lan Sihasak Phuangketkeow đã diễn ra tại Thái Lan trong hai ngày 28-29/10. Quan chức hai bên đã thảo luận về nỗ lực tăng cường thực thi hiệu quả và toàn diện DOC, đồng thời sớm đi đến hoàn tất COC. Hai bên đồng ý thông qua đề xuất của Nhóm Công tác Chung về các biện pháp trước mắt, như thiết lập đường dây nóng về những vấn đề khẩn cấp trên biển giữa các cơ quan tìm kiếm cứu nạn, và các quan chức cấp cao. Cuộc họp nhấn mạnh cần phải thúc đẩy các điểm chung và tương đồng để tăng thêm giá trị thực chất cho DOC, đồng thời công nhận quá trình tham vấn giữa ASEAN và Trung Quốc cũng có tầm quan trọng như nội dung của COC.

Mỹ muốn thảo luận với Trung Quốc để tránh các va chạm trên không. Trả lời phỏng vấn qua điện thoại hôm 1/11, tân Tư lệnh Không quân Mỹ ở Thái Bình Dương, Đại tướng Lori Robinson cho hay việc bà có bài phát biểu tại triển lãm hàng không lớn nhất ở Trung Quốc vào cuối tháng này sẽ cho phép nối lại thảo luận về vấn đề trên, “Đối thoại là sự khởi đầu. Tôi nghĩ điều này rất tốt cho khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.” Những quan ngại về nguy cơ va chạm trên không gia tăng sau khi một máy bay chiến đấu Trung Quốc chỉ bay cách máy bay P-8 Poseidon của Hải quân Mỹ khoảng 9 mét ở khu vực Biển Đông hồi tháng 8.

Phân tích và đánh giá

“Vì sao Mỹ sẵn sàng chấp nhận một cuộc chiến ở Biển Đông?” của Ian Ralby. Lý do gì khiến Mỹ, đang phải can dự vào các điểm nóng ở Đông Âu và Trung Đông, lại sẵn sàng chấp nhận một cuộc chiến tại Biển Đông với một trong những đối thủ hùng mạnh nhất cả về kinh tế lẫn quân sự? Có rất nhiều lý do để Mỹ hành động như vậy, nhưng một trong những lý do quan trọng nhất, tuy nhiên lại ít được chú ý, đó là lý do về luật biển quốc tế. Cụ thể, Trung Quốc không cho rằng các nguyên tắc tự do trên biển có thể được áp dụng cho các tàu chiến hoặc máy bay quân sự nước ngoài tại các khu vực đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone - EEZ). Thời gian qua, Trung Quốc đã ngăn cản các tàu hải quân nước ngoài, trong đó có một tàu của Ấn Độ, đi qua vùng biển mà theo Trung Quốc đó là vùng EEZ của nước này. Trung Quốc còn cho rằng Mỹ đã vi phạm UNCLOS khi thực hiện diễn tập quân sự, bay giám sát, khảo sát thủy văn (để phục vụ cho việc chống tàu ngầm) cùng các hoạt động khác trong khu vực Trung Quốc tự cho là EEZ của mình. Tuy nhiên UNCLOS không thật sự làm rõ về luận điểm này. Do UNCLOS chỉ hạn chế việc tàu chiến di chuyển trong vùng lãnh hải, và theo cách diễn giải của Mỹ, điều này đồng nghĩa với việc UNCLOS không hạn chế hoạt động của các tàu hải quân hoặc máy bay quân sự bên trong vùng EEZ. Còn Trung Quốc thì cho rằng nước này có toàn quyền trong hoạt động của tàu chiến và máy bay quân sự nước ngoài tại khu vực 200 hải lý. Do vậy, nếu Trung Quốc giành được các vùng lãnh thổ tranh chấp trên Biển Đông thì Mỹ sẽ phải xin phép về việc tàu hải quân hoặc máy bay quân sự của nước này lưu thông trên Biển Đông. Nhìn từ góc độ chiến lược, Mỹ không thể để mất sự tự do qua lại ở Biển Đông, điểm trung chuyển quan trọng giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Cùng với lý do chặn đứng sự bành trướng, lòng tham của Trung Quốc đối với nguồn tài nguyên tại Biển Đông, và hạn chế ảnh hưởng bá quyền của nước này, một trong những lý do chính có thể khiến căng thẳng trên Biển Đông trở thành điểm xung đột giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới đó là sự diễn giải khác nhau về UNCLOS. Tự do hàng hải của các tàu chiến và máy bay quân sự Mỹ tại Biển Đông có tầm quan trọng chiến lược đủ để khiến Mỹ sẵn sàng chấp nhận chiến tranh. Có nhiều lý do để nói rằng, so với tình hình ở Ukraine hoặc đối phó phiến quân IS ở Trung Đông, việc diễn giải UNCLOS có lợi ích sống còn hơn cho lợi ích của Mỹ. Đó là lý do tại sao Mỹ sẽ sẵn sàng chấp nhận chiến tranh tại Biển Đông.

“Bàn về những khía cạnh pháp lý trong việc cải tạo đất của Trung Quốc” của Robert Beckman. Nếu thông tin về quy mô hoạt động cải tạo đất gần đây của Trung Quốc tại các đảo ở Biển Đông là chính xác, chúng ta sẽ có những khía cạnh thú vị liên quan đến luật quốc tế trong vấn đề này. Thứ nhất, theo luật quốc tế, hoạt động cải tạo đất có củng cố yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa hay không? Câu trả lời là không. Việt Nam, Philippines và Đài Loan cũng yêu sách chủ quyền đối với các đảo/thực thể mà Trung Quốc chiếm đóng. Một khi có tranh chấp về chủ quyền, Quốc gia chiếm đóng hay quản lý các đảo/thực thể không thể củng cố yêu sách của mình thông qua việc cải tạo đất hay xây dựng thêm cơ sở hạ tầng. Thứ hai, liệu Trung Quốc có sử dụng việc cải tạo đất để thay đổi các đá chìm trở thành các đảo mà con người có thể sinh sống hay có đời sống kinh tế riêng, từ đó được hưởng các vùng biển hay không? Một lần nữa, câu trả lời lại là không. Đó là bởi “đảo” theo định nghĩa là vùng đất “được hình thành một cách tự nhiên” được bao bọc bởi biển hay nổi khi thủy triều lên. Nếu việc cải tạo đất giúp một thực thể nổi khi thủy triều lên thì thực thể này chắc chắn là một “đảo nhân tạo”. UNCLOS quy định, đảo nhân tạo không được hưởng bất kỳ vùng biển nào, thậm chí là vùng lãnh hải 12 hải lý. Do đó, việc cải tạo đất tại những thực thể nằm dưới mặt biển khi thủy triều lên sẽ không thay đổi tình trạng pháp lý của những thực thể này. Thứ ba, Trung Quốc có thể sử dụng việc cải tạo đất để biến đổi một “đá mà con người không thể sinh sống hay không có đời sống kinh tế riêng” trở thành một đảo được hưởng vùng EEZ hay vùng thềm lục địa hay không? Không có câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi này. Tuy nhiên, bởi một đảo được định nghĩa là “một thực thể đất liền được hình thành một cách tự nhiên” được bao bọc bởi biển hay nổi khi thủy triều lên, chúng ta có thể kết luận rằng các bên không được phép sử dụng các biện pháp nhân tạo để thay đổi một đá trở thành một đảo được hưởng vùng EEZ và thềm lục địa. Ngoài ra, một vấn đề thú vị khác đó là liệu UNCLOS và luật quốc tế có bất kỳ hạn chế nào đối với việc Trung Quốc cải tạo các thực thể mà họ đang chiếm đóng và quản lý hay không. Liệu việc cải tạo đất quy mô lớn của Trung Quốc có phù hợp với trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển theo quy định của UNCLOS hay không? Nếu một Quốc gia muốn làm điều gì đó trong khu vực nằm trong quyền tài phán và kiểm soát của mình, và những hành động đó có thể gây những tác động nghiêm trọng tới môi trường biển của các Quốc gia khác, thì họ phải có “nghĩa vụ hợp tác” với các Quốc gia khác. Họ phải tham vấn trước, trên tinh thần thiện chí với những Quốc gia có thể bị ảnh hưởng. Họ cũng phải thực hiện các nghiên cứu đánh giá tác động tới môi trường và chia sẻ kết quả với các Quốc gia có thể bị ảnh hưởng. Trong trường hợp này, Philippines có thể là Quốc gia sẽ bị ảnh hưởng bởi trong số 3 thực thể mà Trung Quốc tiến hành cải tạo đất, có thực thể nằm hoàn toàn trong vùng EEZ của Philippines. Việt Nam cũng là Quốc gia có thể bị ảnh hưởng bởi một số đảo họ đang chiếm đóng nằm rất gần với những thực thể mà Trung Quốc chiếm đóng. Ngoài ra, với việc những thực thể mà chúng ta đang xem xét nằm ngay giữa khu vực trung tâm của cuộc tranh chấp chủ quyền và tranh chấp biển, Trung Quốc phải có nghĩa vụ, theo như luật quốc tế quy định, thực thi kiềm chế và không tiến hành các động thái đơn phương có thể thay đổi vĩnh viễn hiện trạng các thực thể tại đây. Điều này đặc biệt quan trọng bởi các thực thể mà Trung Quốc đang tiến hành cải tạo đất đang là chủ thể của một vụ việc đang được tòa trọng tài quốc tế giải quyết.

“Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc tới Việt Nam mở đường cho việc cải thiện quan hệ?” Tuần trước, quan chức ngoại giao hàng đầu của Trung Quốc đã tới Hà Nội lần thứ 2 chỉ trong 4 tháng, trong bối cảnh Trung Quốc và Việt Nam đang tìm cách làm nồng ấm lại mối quan hệ sau sự kiện giàn khoan. Chuyến thăm 1 ngày của Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì được coi là một bước đi nhằm chuẩn bị cho diễn đàn APEC vào tuần này tại Bắc Kinh, theo dự kiến Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang sẽ tham dự hội nghị này. Ông Dương tới Hà Nội để tham dự cuộc họp lần thứ 7 của Ủy ban chỉ đạo Hợp tác Song phương Việt-Trung, một cuộc họp thường niên của hai nước nhằm thảo luận về việc hợp tác. Theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, trong cuộc gặp, ông Dương nói với Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Bình Minh rằng quan hệ hai nước đang “từng bước” nồng ấm trở lại. “Hai bên nên…xử lý thỏa đáng và kiểm soát tốt bất đồng trên biển, tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác song phương.” Còn Bộ Ngoại giao Trung Quốc thì nói rằng hai quốc gia láng giềng nhất trí giải quyết tranh chấp lãnh thổ “một cách đúng đắn” và thúc đẩy các cơ chế đàm phán. Sau đó hai bên đã ký thỏa thuận đẩy nhanh hoạt động khảo sát chung bên ngoài Vịnh Bắc Bộ và “nhanh chóng thành lập” nhóm công tác về cơ sở hạ tầng và nhóm công tác về tiền tệ. Theo ông Carl Thayer, chuyên gia Biển Đông của Học viện Quốc phòng Úc, chuyến thăm của ông Dương có lẽ là một phần trong những động thái tích cực của Trung Quốc hướng tới hội nghị APEC, “Chuyến [thăm] cho thấy hai bên sẽ khởi động lại quan hệ. Thay vì tập trung vào [tranh chấp] Biển Đông, họ sẽ tập trung vào hợp tác và thương mại.” Còn ông Zhang Mingliang, chuyên gia về Đông Nam Á tại Đại học Tế Nam, Quảng Châu, nhận định chuyến thăm của ông Dương có thể mở đường cho cuộc gặp giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang bên lề hội nghị APEC. “Bởi sự thiếu tin tưởng lẫn nhau và vì vấn đề tranh chấp lãnh thổ, mối quan hệ của hai nước không thể nào tốt đẹp như những gì mà họ nói. Tuy nhiên, chúng ta có thể quay trở lại mốc trước sự kiện giàn khoan, khi… hai bên thường xuyên có các cuộc trao đổi cấp cao.”

“Trung Quốc cải thiện năng lực tàu ngầm - thay đổi thế cân bằng chiến lược?” của Rob Taylor. Tháng 12/2013, một tàu ngầm tấn công hạt nhân của Trung Quốc, loại có trang bị đầy đủ tên lửa và được mệnh danh là “thợ săn - sát thủ”, nổi lên mặt nước, xuyên qua eo biển Malacca rồi biến mất. Sau đó nó xuất hiện tận vịnh Ba Tư. Đây được xem như hành trình đầu tiên của một tàu ngầm Trung Quốc tới Ấn Độ Dương. Trước đó, vào một ngày tháng 12, Bộ Quốc phòng Trung Quốc triệu tập tùy viên quân sự từ các đại sứ quán tới trụ sở Bắc Kinh. Trước sự ngạc nhiên của những người nước ngoài, phía Trung Quốc cho biết, một trong những tàu ngầm hạt nhân của họ sẽ sớm vượt eo biển Malacca, vùng nước nằm giữa Malaysia và Indonesia. Bộ Quốc phòng Trung Quốc hồi tháng 9 một lần nữa triệu tập các tùy viên, thông báo việc triển khai tàu ngầm khác tới Ấn Độ Dương. Lần này, tàu sử dụng động cơ diesel và dừng chân ở Sri Lanka. Thông điệp gửi đi quá rõ ràng: Trung Quốc đã hoàn thành nhiệm vụ trong 4 thập kỷ của mình, tham gia câu lạc bộ tinh hoa gồm các quốc gia sở hữu tàu ngầm hạt nhân có thể chinh phục mọi vùng biển. Tiềm năng và hoạt động ngày càng gia tăng của lực lượng tàu ngầm Trung Quốc tạo ra thách thức quân sự lớn trong khu vực. Việc mở rộng các đơn vị dưới đáy biển không chỉ làm đầy kho vũ khí hạt nhân của nước này mà còn góp phần tăng cường năng lực của Bắc Kinh nhằm hiện thực hóa tham vọng chủ quyền đối với các vùng biển trong khu vực, đồng thời ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ. Văn phòng Tình báo Hải quân Mỹ nhận định, Trung Quốc sẽ vượt một mốc rất quan trọng trong năm nay khi họ triển khai thế hệ tàu ngầm boomer, lần đầu tiên được trang bị đầy đủ các loại tên lửa hạt nhân hiện đại nhất. Boomer là một từ lóng sử dụng rộng rãi để chỉ thế hệ tàu ngầm tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân có phạm vi hoạt động lớn. Về phía Trung Quốc, “đây là quân át chủ bài khiến đất nước tự hào” và “kẻ thù phải khiếp sợ”, đô đốc Wu Shengli, Tư lệnh Hải quân Trung Quốc, viết về đội tàu ngầm tên lửa trên tạp chí của Đảng Cộng sản số ra tháng 12, “Đó là lực lượng chiến lược tượng trưng cho sức mạnh to lớn , bảo vệ an ninh quốc gia.” Đối với chỉ huy hải quân các nước khác, những chuyến đi tới Ấn Độ Dương của tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc đặc biệt đáng chú ý. Nó chứng minh rằng Bắc Kinh hoàn toàn có khả năng vươn tới trụ sở chính của Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đặt ở Hawaii. Phó đô đốc Robert Thomas, chỉ huy Hạm đội 7 của hải quân Mỹ, nhận định, “Họ đưa những thông điệp rất rõ ràng để tuyên bố rằng: 'Chúng tôi là đơn vị hải quân chuyên nghiệp, chúng tôi là một đội tàu ngầm chuyên nghiệp, và chúng tôi xuất hiện trên toàn cầu. Chúng tôi không còn chỉ là một hạm đội ven biển nữa.'” Washington cho rằng tàu ngầm hạt nhân chiến đấu chính là một phần trong chiến lược mới của Bắc Kinh nhằm cản trở Mỹ can thiệp vào vấn đề Đài Loan, hay hợp tác với Nhật Bản và Philippines, hai đồng minh của Mỹ đang kẹt trong cuộc tranh giành chủ quyền trên biển với Trung Quốc. Đội tuần tra tàu ngầm boomer là nấc thang đưa Trung Quốc sánh ngang cùng Mỹ và Nga, trở thành quốc gia đủ khả năng triển khai vũ khí hạt nhân cả trên biển, trên không và trên đất liền.

“Ấn Độ và Việt Nam xích lại gần nhau – thách thức đối với Trung Quốc” của Rajiv Bhatia. Hãy nhìn vào thực tế này để hiểu được tầm quan trọng của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ: 4 chuyến thăm cấp cao giữa lãnh đạo Việt Nam và Ấn Độ đã diễn ra trong năm qua. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Ấn Độ, Ngoại trưởng và Tổng thống Ấn Độ thăm Việt Nam, gần đây nhất là chuyến công du New Delhi của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Thủ tướng Narendra Modi cũng dự kiến sẽ sang thăm Việt Nam năm tới khi Việt Nam trở thành điều phối viên cho quan hệ hợp tác Ấn Độ - ASEAN. Điều này rõ ràng cho thấy quan hệ hợp tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ là một câu chuyện lớn hơn nhiều so với những gì mà các hãng truyền thông đề cập. Trung Quốc đúng là một trong những nguyên nhân khiến hai nước xích lại gần nhau, nhưng không phải yếu tố quan trọng duy nhất đằng sau việc Việt Nam - Ấn Độ đẩy mạnh hợp tác. Tuyên bố chung giữa 2 nước trong chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh hai chính phủ cam kết phát triển quan hệ đối tác chiến lược, nghĩa là bao gồm tất cả các lĩnh vực quan trọng của các hoạt động song phương trong việc theo đuổi lợi ích quốc gia của mỗi nước. Trong số các hoạt động hợp tác chiến lược Việt - Ấn hiện nay, có 5 trụ cột đáng chú ý. Thứ nhất là hợp tác chính trị Việt - Ấn, nó phản ánh sự chia sẻ thế giới quan, đặc biệt là ở Đông Á và được củng cố mạnh mẽ thông qua các chuyến thăm gần đây. Chính sách Hướng Đông của Ấn Độ cũng phù hợp với khuynh hướng tự nhiên của Việt Nam đó là nhìn về phía Tây, phương Đông cũng như các nơi khác để đảm bảo mục tiêu quốc gia, cụ thể là an ninh và phát triển. Trụ cột thứ hai là hợp tác kinh tế, bao gồm các lĩnh vực khác nhau mà nói theo một quan chức cấp cao Ấn Độ, thì hợp tác kinh tế là xương sống của tất cả các hợp tác. Thương mại song phương đang phát triển nhanh chóng, đã vượt qua mục tiêu trước đó là 7 tỉ USD. Hợp tác năng lượng là trụ cột thứ ba. Sáng kiến của tập đoàn dầu khí Ấn Độ OVL với Việt Nam đã thu hút sự chú ý rộng rãi. Mối quan hệ hợp tác cùng có lợi trong lĩnh vực năng lượng Việt Nam và Ấn Độ bắt đầu từ năm 1988, OVL đã tham gia một số dự án thăm dò, khai thác dầu khí ngoài khơi bờ biển Việt Nam và gần đây OVL quyết định tham gia 2 lô dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông, bất chấp những phản ứng của Trung Quốc. Quốc phòng và an ninh là trụ cột thứ tư đã được phát triển với tốc độ “tích cực” như một quan chức Ấn Độ mô tả. Trụ cột này liên quan đến nhiều khía cạnh - như đối thoại chiến lược, trao đổi các đoàn cấp cao, đào tạo cán bộ quốc phòng, thăm viếng hải quân, trong đó có 2 chương trình hợp tác được chú ý đặc biệt. Một là việc Ấn Độ quyết định cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng 100 triệu USD để mua sắm tầu tuần tra biển. Điều này đánh dấu một bước phát triển mới của hợp tác quốc phòng Việt - Ấn. Hai là việc Việt Nam yêu cầu Ấn Độ bán tên lửa hành trình BrahMos. Cuối cùng, sự kết hợp giữa các chương trình hợp tác thuộc các lĩnh vực khác bao gồm phát triển văn hóa, du lịch và các mối liên kết xã hội dân sự đại diện cho trụ cột thứ năm. Trụ cột này khá ổn định mặc dù quy mô còn khiêm tốn. Có nhiều lý do lý giải cho sự phát triển tốt đẹp trong quan hệ Việt - Ấn. Ở một mức độ nào đó, sự hung hăng khiêu khích của Trung Quốc có thể làm tăng tốc quá trình này. Hợp tác song phương là vì lợi ích chung, hợp tác quốc phòng Việt - Ấn là một cách phòng thủ một cách tự nhiên.  Hợp tác năng lượng Việt - Ấn ở Biển Đông được dẫn đường bởi những tính toán lâu dài về thương mại và an ninh năng lượng chứ không hẳn liên quan đến vấn đề tranh chấp ở Biển Đông. Các xu hướng tích cực trong quan hệ song phương xuất phát mong muốn của cả Ấn Độ và Việt Nam về một môi trường Đông Á hòa bình và ổn định. Mối quan hệ của hai nước đang đi đúng hướng, và cả hai bên cần duy trì đà phát triển này.

“Những nỗi sợ chiến lược của Trung Quốc” của Michael Pillsbury. Hiểu được những nỗi sợ và quan ngại của quân đội Trung Quốc có thể giúp chúng ta có cái nhìn thấu đáo về kế hoạch quân sự của Bắc Kinh, từ đó giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra được những lựa chọn chiến lược hiệu quả nhất. i) Sợ bị phong tỏa từ hướng biển. Nhiều người trong giới quân sự Trung Quốc sợ rằng nước này có thể bị các cường quốc khác phong tỏa dễ dàng, bởi vì về mặt địa lý, chuỗi đảo trải dài từ Nhật Bản tới Philippines rõ ràng là một trong những điểm yếu của Trung Quốc. Chuỗi đảo này, chia cắt Trung Quốc với vùng biển quốc tế, có thể bị các nước xung quanh khai thác một cách dễ dàng. Cụ thể, một cựu Tham mưu trưởng Hải quân Nhật Bản đã tuyên bố rằng các tàu ngầm của Trung Quốc khó có thể tiến vào vùng nước sâu ở Thái Bình Dương thông qua chuỗi đảo Ryukyu, tới phía Bắc hoặc phía Nam Đài Loan, hay thông qua eo biển Bashi (Luzon) mà không bị phát hiện bởi các lực lượng tàu ngầm của Mỹ và Nhật Bản. Kết quả là, các học giả quân sự của Trung Quốc thường xuyên thảo luận về sự cần thiết của công tác huấn luyện, diễn tập và một kế hoạch hành động quân sự nhằm phá vỡ thế phong tỏa này. ii) Sợ bị mất nguồn tài nguyên biển. Một nỗi sợ trên biển khác mà các học giả Trung Quốc quan ngại là những nguồn tài nguyên có giá trị ở xung quanh các vùng biển của nước này sẽ bị các cường quốc bên ngoài khai thác bởi sự yếu kém của lực lượng hải quân Trung Quốc, điều này sẽ đe dọa đến sự phát triển trong tương lai của họ. Zhang Wenmu, một cựu chuyên gia phân tích thuộc một nhóm cố vấn của Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc cho biết: “Hải quân liên quan đến sức mạnh trên biển của Trung Quốc và sức mạnh trên biển liên quan đến sự phát triển trong tương lai của Trung Quốc. Theo tôi, nếu một quốc gia thiếu sức mạnh trên biển, họ sẽ không có cơ hội phát triển”. iii) Sợ bị chặn các tuyến đường lưu thông trên biển. Nhiều học giả Trung Quốc đã đề cập đến việc dễ bị tổn thương của các tuyến đường lưu thông trên biển của nước này, đặc biệt là tuyến đường giao thông dầu mỏ “huyết mạch” ở eo biển Malacca. Vì thế họ ủng hộ phát triển một lực lượng hải quân biển xa để bảo đảm an ninh năng lượng của Trung Quốc. Theo một nhà quan sát về Trung Quốc, các hạm đội của Mỹ, Nhật và Ấn Độ cùng nhau “tạo ra một áp lực áp đảo nhằm vào nguồn cung dầu mỏ của Trung Quốc”, nhưng một nghiên cứu khác kết luận rằng chỉ Mỹ mới có đủ sức mạnh và “dũng khí” để phong tỏa các tuyến đường vận chuyển dầu của Bắc Kinh. Tương tự, trong cuốn sách “Campaign Theory Study Guide” (tạm dịch: Cẩm nang Nghiên cứu Phương pháp Chiến dịch) được các học giả tại Đại học Quốc phòng Trung Quốc (NDU) biên soạn năm 2001, các tác giả đã đưa ra một vài kịch bản có thể liên quan đến sự ngăn chặn và bảo vệ các tuyến đường lưu thông trên biển. Một vài học giả còn kêu gọi: “Để đối phó với việc bị…cấm vận trên biển hay các tuyến đường chở dầu bị gián đoạn…Trung Quốc phải…‘chuẩn bị ngôi nhà của mình trước khi trời đổ mưa’”. Có lẽ những học giả này đang hối thúc chính phủ chuyển hướng ưu tiên từ việc xây dựng lực lượng Hải quân với các tàu ngầm làm trung tâm sang việc xây dựng một lực lượng hải quân với các tàu sân bay làm trọng tâm. Ngoài những vấn đề trên, Bắc Kinh còn các nỗi sợ khác như: Can thiệp và chia cắt lãnh thổ; bất ổn nội bộ, bạo động, nội chiến và chủ nghĩa khủng bố; sợ các đường ống dẫn bị tấn công hoặc các cuộc tấn công từ tàu sân bay; sợ bị không kích; sợ Đài Loan độc lập; sợ bị tấn công mạng… và “sợ” cả các nước láng giềng Ấn Độ, Nhật Bản và Nga./.