Bản PDF tại đây

Động thái của các quốc gia

+ Trung Quốc:

Chủ tịch Trung Quốc kêu gọi hòa bình với các nước láng giềng. Phát biểu khai mạc Diễn đàn Châu Á Bác Ngao 2015, ông Tập Cận Bình tuyên bố Trung Quốc sẵn sàng ký kết thêm nhiều hiệp ước hữu nghị với các nước láng giềng và đề xuất tổ chức đối thoại giữa các nền văn minh châu Á, “Điều Trung Quốc cần nhất là môi trường hài hòa, ổn định trong nước và môi trường quốc tế hòa bình...Trung Quốc trong quá khứ đã có hơn một thế kỷ hứng chịu bất ổn và chiến tranh, và nhân dân Trung Quốc sẽ không bao giờ áp đặt lên các quốc gia và nhân dân khác lịch sử đau thương mà chính nhân dân Trung Quốc đã trải qua. Tâm lý thời Chiến tranh Lạnh cần phải được loại bỏ và những khái niệm an ninh mới cần được khuyến khích trong bối cảnh Châu Á đang tìm kiếm con đường để đảm bảo an ninh ở châu lục này.” Ông Tập khẳng định cần giải quyết hòa bình các tranh chấp và Trung Quốc cam kết đi theo con đường phát triển hòa bình.

Ngoại trưởng Trung Quốc nhấn mạnh ý nghĩa của Cộng đồng ASEAN. Trong khuôn khổ Diễn đàn Bác Ngao năm 2015, tại cuộc đối thoại với chủ đề “Khởi điểm mới về nhất thể hóa của Cộng đồng ASEAN,” Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị khẳng định việc xây dựng Cộng đồng ASEAN có ý nghĩa đặc biệt đối với nhất thể hoá kinh tế Châu Á. Trung Quốc ủng hộ và tin tưởng Cộng đồng ASEAN sẽ được xây dựng vào cuối năm nay trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng và hợp tác cùng có lợi. Về tranh chấp Biển Đông, ông Vương khẳng định Trung Quốc sẽ tiếp tục cách tiếp cận “kép”. Theo đó, tranh chấp sẽ được giải quyết thông qua đàm phán và tham vấn giữa các bên liên quan trực tiếp; ASEAN và Trung Quốc cùng hợp tác duy trì hòa bình, ổn định khu vực.

Trung Quốc tham gia cuộc họp ASEAN về Bộ Quy tắc Ứng xử Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh hôm 26/3 cho hay, “Cuộc họp nhóm Công tác chung lần thứ 13 về Thực thi DOC giữa Trung Quốc và ASEAN sẽ tổ chức tại Yangon, Myanmar vào ngày 30 và 31/3. Trung Quốc đánh giá cao tầm quan trọng của cuộc gặp lần này. Trung Quốc sẽ trao đổi với tất các bên liên quan về việc thực thi đầy đủ và hiệu quả DOC, tăng cường hợp tác thực chất và đẩy nhanh quá trình tham vấn về Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông.” Trước đó hôm 25/3, trả lời câu hỏi về phản ứng của Trung Quốc về các phát biểu của Tổng thống Indonesia liên quan đến tranh chấp Biển Đông, Hoa nói rằng Trung Quốc hoan nghênh các nước trong khu vực có những đóng góp tích cực vào việc duy trì hòa bình, ổn định, phát triển và thịnh vượng ở khu vực. Trung Quốc sẵn sàng cùng với các nước liên quan giải quyết thỏa đáng những tranh chấp thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị.

 

Trung Quốc phản đối Philippines tu sửa công trình ở Biển Đông. Phát biểu tại cuộc học báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 27/3, Người phát ngôn Hoa Xuân Oánh tuyên bố: “Trung Quốc hết sức quan ngại trước phát biểu của Ngoại trưởng Philippines. Một mặt Philippines đưa ra những chỉ trích vô lý về các hoạt động xây dựng bình thường của Bắc Kinh trên các thực thể thuộc chủ quyền Trung Quốc, một mặt lại tuyên bố tiếp tục tu sửa một sân bay, đường băng, và các công trình khác.” Theo Bà Hoa, “Đây không chỉ là loạt hành động xâm phạm chủ quyền Trung Quốc mà còn bộc lộ sự đạo đức giả của Philippines.”

+ Philippines:

Philippines khôi phục lại hoạt động tu sửa công trình ở Biển Đông. Phát biểu trước các quan chức ngoại giao, quân đội và phóng viên nước ngoài hôm 26/3, Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario cho hay: “Quan điểm của Philippines đó là chúng tôi sẽ xúc tiến trở lại hoạt động sửa chữa và tu bổ các công trình mà trước đây tạm đình chỉ”. Theo ông Rosario, những hoạt động này, bao gồm sửa chữa một đường băng, sẽ không vi phạm DOC ở Biển Đông bởi hoạt động này không thay đổi nguyên trạng ở khu vực tranh chấp. Tháng 10 năm 2014, Philippines đã kêu gọi các bên tranh chấp chấm dứt hoạt động xây dựng trên các đảo, đá  ở Biển Đông. Ngoại trưởng Rosario cũng cáo buộc Trung Quốc đang tìm cách kiểm soát Biển Đông, “Trung Quốc đang đẩy nhanh kế hoạch bành trướng và thay đổi hiện trạng nhằm hiện thực hóa yêu sách đường 9 đoạn và kiểm soát gần như toàn bộ Biển Đông, trước khi tòa trọng tài đưa ra phán quyết cho vụ kiện.”

Philippines bác bỏ phản đối của Trung Quốc về việc tu sửa ở Biển Đông. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Philippines Charles Jose hôm 28/3 cho hay, “Việc Philippines tiến hành các hoạt động bảo trì và tu sửa cần thiết đối với các cơ sở hiệnBiển Đông... không thấm vào đâu so với hoạt động cải tạo đất quy mô lớn của Trung Quốc, vốn không chỉ vi phạm luật quốc tế mà còn tạo thêm căng thẳng không cần thiết. Phát ngôn viên của Tổng thống Philippines bà Abigail Valte hôm 28/3 cũng tái khẳng định quan điểm rằng các hoạt động tu sửa của Philippine sẽ không vi phạm DOC năm 2002.

+ Indonesia:

Indonesia: ‘Đường 9 đoạn của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý’. Trả lời phỏng vấn hãng Reuters hôm 23/3, Cố vấn chính sách đối ngoại của tổng thống Indonesia, ông Rizal Sukma khẳng định: “Năm 2009, Indonesia đã gửi lập trường chính thức của mình về vấn đề này lên Ủy ban về phân định ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc, đồng thời cho rằng đường 9 đoạn không có cơ sở trong luật pháp quốc tế. Lập trường này tới nay vẫn không thay đổi. Bên cạnh đó, ông Sukma còn nhấn mạnh rằng là một bên không có yêu sách Biển Đông, Indonesia sẵn lòng đóng vai trò “một trung gian trung thực” đối với tranh chấp lãnh ở Biển Đông.

Indonesia muốn đóng vai trò người trung gian trong tranh chấp Biển Đông. Trả lời phỏng vấn tờ South China Morning Post ngày 25/3, Tổng thống Indonesia Joko Widodo khẳng định, “Chúng ta cần hòa bình và ổn định ở Châu Á-Thái Bình Dương. Điều đó có nghĩa rằng Indonesia sẵn sàng đảm nhận vai trò của một người trung gian trung thực. Chúng tôi muốn đảm bảo rằng bộ Quy tắc ứng xử Biển Đông giữa ASEAN với Trung Quốc có thể được chấp nhận bởi các bên.” Theo ông Widodo, “Các bên cần hợp tác để đảm bảo rằng vấn đề Biển Đông sẽ không ảnh hưởng tới hợp tác ASEAN và Trung Quốc.”

+ Campuchia:

Campuchia tuyên bố lập trường về tranh chấp Biển Đông. Phát biểu tại buổi lễ tốt nghiệp ở Viện Giáo dục Quốc gia hôm 26/3, Thủ tướng Campuchia Hun Sen tuyên bố tranh chấp Biển Đông không phải là vấn đề của cả khối ASEAN, mà chỉ là vấn đề giữa các nước thành viên có yêu sách với Trung Quốc, các nước này cần phải đàm phán riêng với nhau. Ông Hun Sen nhấn mạnh tranh chấp nên được giải quyết hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế và các văn kiện mà ASEAN-Trung Quốc đã đồng thuận.

+ Mỹ:

Cựu Ngoại trưởng Mỹ: ‘Biển Đông nên theo cách thức của Đặng Tiểu Bình’. Trả lời phỏng vấn hãng tin Bloomberg hôm 29/3, cựu Ngoại trưởng Mỹ dưới thời cựu Tổng thống Richard Nixon, ông Henry Kissinger cho rằng, “Mỹ-Trung nên loại bỏ tính cấp bách của tranh luận về vấn đề Biển Đông. Ông Đặng Tiểu Bình khi xử lý một số vấn đề từng nói rằng, không phải chuyện gì cũng có thể giải quyết xong trong thế hệ này. Chúng ta có thể để lại một số vấn đề cho đời sau giải quyết mà không nên làm cho nó trở nên phức tạp.”

Quan hệ các nước

Nhật Bản-Indonesia cam kết tăng cường hợp tác. Tại cuộc hội đàm ngày 23/3 ở thủ đô Tokyo, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Tổng thống Indonesia Joko Widodo đã nhất trí tăng cường hợp tác an ninh và kinh tế. Tokyo sẽ cung cấp cho Indonesia các khoản vay lãi suất thấp trị giá 140 tỷ yên để xây dựng cơ sở hạ tầng ở thủ đô Jakarta, đồng thời hỗ trợ xây dựng năng lực cho các lực lượng Indonesia. Hai bên nhất trí tổ chức “Diễn đàn hàng hải Nhật Bản-Indonesia” nhằm thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực biển. Hai nhà lãnh đạo cũng kêu gọi Trung Quốc và ASEAN sớm tiến tới hoàn thành Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông.

Nhật-Mỹ tăng cường xây dựng liên minh. Trong buổi tiếp Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, Tướng Martin Dempsey tại Tokyo ngày 25/3, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe bày tỏ thông qua chuyến công du Mỹ sắp tới, ông mong muốn gửi tới thế giới một thông điệp rằng Tokyo và Washington sẽ đóng “vai trò đi đầu” trong việc đảm bảo hòa bình và ổn định tại Châu Á-Thái Bình Dương. Thủ tướng Abe cũng cam kết sẽ tăng cường liên minh Nhật-Mỹ. Về phần mình, Tướng Dempsey tin tưởng việc điều chỉnh các nguyên tắc hợp tác quốc phòng song phương theo kế hoạch sẽ giúp hai nước tăng cường xây dựng các mối quan hệ hợp tác.

Diễn đàn Bác Ngao 2015 hướng tới tương lai mới cho Châu Á. Với chủ đề Tương lai mới cho châu Á: Hướng tới cộng đồng chung vận mệnh sáng 28/3, Hội nghị Diễn đàn Châu Á Bác Ngao (BFA) 2015 đã chính thức khai mạc. Trong khuôn khổ BFA 2015, có 77 phiên thảo luận và đối thoại chính thức, tập trung vào sáu lĩnh vực gồm kinh tế vĩ mô, hợp tác khu vực, chuyển đổi ngành nghề sản xuất, sáng tạo kỹ thuật, an ninh chính trị và an sinh xã hội. Vấn đề thu hút sự quan tâm nhất của dư luận tại diễn đàn năm nay là sự ủng hộ của các nước đối với sáng kiến thành lập Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á và sáng kiến kết nối cơ sở hạ tầng khu vực do Trung Quốc khởi xướng. Ngày 29/3, Diễn đàn BFA 2015 đã khép lại nhưng các vấn đề được thảo luận tại đây cần phải được hiện thực hóa bằng những hành động, nhằm hướng tới kết nối châu Á trong giai đoạn mới.

Phân tích và đánh giá

“Chính sách Biển Đông của Indonesia” của  Prashanth Parameswaran

Tuần trước, trong chuyến thăm tới Nhật, Tổng thống Indonesia Jokowi có nói rằng yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông là không có cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, ngay sau đó, ông Rizal Sukma, cố vấn về chính sách đối ngoại cho ông Jokowi cũng như ngay bản thân ông Jokowi đã đính chính lại phát biểu của mình. Tại sao câu chuyện lại phức tạp như vậy?

Một phần là bởi chính sách khéo léo của Indonesia trong vấn đề Biển Đông. Với Jakarta, họ không xem mình là một bên trong tranh chấp Biển Đông, nhưng các quan chức Indonesia cũng biết rằng đường chín đoạn của Trung Quốc nằm chồng lấn với Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) mà Jakarta được hưởng từ quần đảo Natuna. Indonesia trong quá khứ đã nhiều lần muốn làm rõ với Bắc Kinh về vấn đề này, nhưng mọi thứ vẫn chưa được giải quyết. Bên cạnh lợi ích của bản thân, Indonesia cũng là một bên có liên quan (dù cho không phải là một bên tranh chấp) trong vấn đề Biển Đông bởi bên cạnh thực tế là yêu sách của Trung Quốc không phù hợp với luật quốc tế, nước này còn có xung đột với 4 quốc gia ASEAN khác – Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam – và đe dọa tới sự ổn định tại một khu vực mà Indonesia được coi là quốc gia lãnh đạo.

Bởi vậy, kể từ những năm 1990, Indonesia đã tìm cách kết hợp khéo léo giữa các biện pháp ngoại giao, pháp lý và quân sự để xây dựng một chính sách tinh tế để vừa phản đối yêu sách gây tranh cãi của Trung Quốc mà không phải hợp pháp hóa yêu sách này, vừa giúp tạo điều kiện một cách không chính thức cho các biện pháp xây dựng lòng tin giữa các bên láng giềng trong khi vẫn duy trì vị thế của Jakarta như một bên không-tranh-chấp.

Trên bình diện ngoại giao, Indonesia không chính thức đưa Trung Quốc vào danh sách các quốc gia mà họ có tranh chấp biên giới, bởi điều này sẽ tăng thêm sức nặng cho yêu sách của Trung Quốc. Trên bình diện pháp lý, Indonesia chính thức phản đối đường chính đoạn của Trung Quốc khi Bắc Kinh đệ trình yêu sách này lên Liên Hợp Quốc tháng 5/2009, và nước này cũng đang thúc đẩy việc sớm ký kết bộ quy tắc ứng xử có ràng buộc. Trên bình diện an ninh, Indonesia khôn khéo tăng cường năng lực của mình để có thể bảo vệ hiệu quả hơn vùng lãnh thổ và các vùng nước xung quanh của họ.

Sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc tại Biển Đông đã khiến “bước nhảy tinh tế” của Indonesia thậm chí còn khó hơn một vài năm trước đây. Đường chín đoạn của Trung Quốc, cùng với việc Bắc Kinh đẩy mạnh hoạt động xâm nhập vào vùng biển của Indonesia, đã khiến một vài quan chức quân đội Indonesia có những phát ngôn theo hơi hướng diều hâu. Một vài nhân vật thậm chí còn kêu gọi Jakarta có vai trò chủ động hơn trong tranh chấp. Và những ai theo dõi Indonesia thì đều biết rõ, vấn đề Biển Đông đã xuất hiện trong các cuộc tranh luận Tổng thống giữa ông Jokowi và đối thủ Prabowo Subianto, và cả hai đều có những quan điểm khác nhau về vai trò của Indonesia cũng như nước này sẽ thực thi vai trò của mình như thế nào.

Tuy nhiên, đến giờ thì ông Jokowi vẫn chưa từ bỏ cách tiếp cận truyền thống của Indonesia trong vấn đề Biển Đông. Mặc dù vẫn còn quá sớm và mọi thứ vẫn có thể thay đổi, nhưng tất cả những phát ngôn gần đây của ông tại Nhật – bao gồm sự bất hợp pháp của đường chín đoạn và Indonesia sẵn sàng đóng vai trò “nhà trung gian trung thực” – đều là một phần trong chính sách của Indonesia, như ông Rizal và bản thân ông Jokowi thừa nhận.

Dĩ nhiên, người ta có thể cho rằng đã có sự thay đổi mang tính hình thức. Việc ông Jokowi tập trung vào vấn đề Biển Đông xảy ra trong chuyến thăm mà ông đang tìm cách tăng cường quan hệ với Nhật, và chính phủ của ông đang tương đối cứng rắn về vấn đề lãnh thổ như một phần trong hoạt thuyết biển – được gọi là trục biển toàn cầu – và chính sách “đánh chìm tàu” của mình. Tuy nhiên, ngay cả như vậy, Tổng thống Jokowi và các cố vấn của ông vẫn có lý do để ưu tiên tăng cường quan hệ với Trung Quốc, và họ sẽ biết cách cân bằng giữa việc bảo vệ lợi ích của Jakarta trên Biển Đông trong khi vẫn tăng cường mối quan hệ với Bắc Kinh. 

“Việt Nam tăng chi tiêu quốc phòng, nhưng vẫn còn đó những thách thức” của Murray Hiebert & Phuong Nguyen

Trong giai đoạn 2004-2013, chi tiêu dành cho quân sự của Việt Nam đã tăng 113%, mức tăng cao nhất trong số các quốc gia Đông Nam Á.  Kể từ năm 2004, chi tiêu quốc phòng chiếm khoảng 2% GDP. Con số tuyệt đối là 3,3 t USD trong năm 2012 và 3,4 t USD trong năm 2013, và theo tạp chí IHS Jane, các hợp đồng mua sắm quân sự trong năm 2014 có giá trị vào khoảng 1,4 t USD.

Hải quân và Không quân Việt Nam, những đơn vị mà thời điểm đầu những năm 2000 có năng lực bảo vệ các lợi ích trên biển chỉ dừng lại ở mức độ hết sức hạn chế, đã trải qua quá trình hiện đại hóa nhanh chóng trong thập kỷ qua. Những trang thiết bị được mua từ năm 2011 đã được sử dụng nhằm mục đích nâng cao năng lực trên biển cho Việt Nam.

Đáng chú ý là hợp đồng mua bán tàu ngầm lớp Kilo, kí năm 2009 với Nga, có giá trị rơi vào khoảng 3,2 tỷ USD, trong đó bao gồm tàu ngầm và việc xây dựng cơ sở tàu ngầm tại cảng nước sông, Vịnh Cam Ranh. Hải quân Việt Nam dự kiến sẽ đưa vào khai thác toàn bộ 6 chiếc tàu ngầm thuộc lớp Kilo này vào năm 2017. Hai chiếc đầu tiên đã được chạy thử vào năm ngoái và có thể sẻ được sớm triển khai ra khu vực xa bờ.

Cảnh sát biển cũng được cho là có khoảng 38 tàu có trọng tải từ 120 cho tới 2.500 tấn. Đa phần trong số các tàu này được đóng trong nước. Tàu tuần tra ngoài khơi lớn nhất, được Hà Lan chế tạo, sẽ được trang bị máy bay trực thăng hải quân để thực hiện hoạt động giám sát trên biển hiệu quả hơn. Cảnh sát biển đã bổ sung thêm 2 máy bay CASA C-212 400 kể từ thời điểm năm 2011. Chính phủ Việt Nam vào năm 2014 cũng đặt hàng đóng mới 32 tàu tuần tra và 4 tàu kiểm ngư, và trong tháng 2 đã bắt đầu trang bị vũ khí quân sự cho các tàu kiểm ngư của mình.

Mỹ và Nhật cũng nổi lên là các đối tác an ninh gần gũi nhất với Việt Nam trong một vài năm qua, trong bối cảnh mà các bên cùng chia sẻ lo ngại về sự quyết đoán ngày càng gia tăng của Trung Quốc và lợi ích trong việc duy trì tự do hàng hải tại Biển Đông. Washington vào năm 2013 đã công bố gói hỗ trợ an ninh biển cho Hà Nội trị giá 18 tỷ USD và mỗi năm sẽ chuyển giao 5 tàu tuần duyên cho Việt Nam trong khoảng thời gian 5 năm tới. Mỹ cũng tham gia đào tạo nhân lực cho lực lượng cảnh sát biển Việt Nam. Việt Nam sẽ bắt đầu nhận các tàu cảnh sát biển của Nhật vào năm 2015.

Mặc dù quá trình hiện đại hóa quân sự của Việt Nam đã diễn ra với tốc độ nhanh chóng trong 5 năm qua, nhưng nhiệm vụ phía trước vẫn còn rất khó khăn. Cụ thể, liệu Hải quân và Không quân có vận hành thành thạo những kiến thức mới, trang thiết bị mới trong thời gian ngắn hay không, liệu cảnh sát biển có thể xoay xở được với việc Trung Quốc đẩy mạnh quyết đoán trên biển hay không, và liệu Hà Nội có thể duy trì mức chi tiêu như hiện tại trong tương lai hay không. Nhiều quan chức quốc phòng của Washington đang chờ đợi Việt Nam mở rộng hợp tác giữa các lực lượng cảnh sát biển, xây dựng mối quan hệ hải quân gần gũi hơn, và thiết lập mối quan hệ mua sắm quốc phòng với Mỹ.

Mỹ cần làm gì để khôi phục niềm tin tại khu vực?

Gần đây, các Thượng Nghị sĩ Mỹ gồm John McCain, Jack Reed, Bob Corker và Bob Menendez đã gửi bức thư yêu cầu Bộ trưởng Quốc phòng Ash Carter và Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry phải có hành động đối với hoạt động cải tạo đảo của Trung Quốc tại Biển Đông. Tuy nhiên, việc Mỹ cắt giảm ngân sách quốc phòng và cái cách mà Mỹ cho khu vực thấy như thể là họ đang rời bỏ khu vực khó có thể khiến các quốc gia tại đây đặt niềm tin vào Mỹ. Các quốc gia tại Châu Á biết rằng họ phải sống bên cạnh Trung Quốc, do đó họ không muốn phải chống lại tham vọng của Trung Quốc trừ phi họ cảm thấy Mỹ là một đối tác đáng tin cậy.

Nếu Mỹ áp đặt được cái giả phải trả cho sự hung hăng của Trung Quốc, thì họ có thể giúp đảm bảo an ninh tại Châu Á. Điều này đòi hỏi Mỹ phải chấp nhận rủi ro lớn hơn trong quan hệ Mỹ - Trung, nhưng nếu không làm như vậy thì đồng nghĩa với việc Trung Quốc sẽ tiếp tục những gì mà họ dự định làm để tiến dần tới vị thế bá chủ tại Tây Thái Bình Dương.

Washington có thể bắt đầu bằng việc mở rộng chương trình đào tạo nhằm xử lý các mối đe dọa tại Biển Đông, nơi mà Trung Quốc sử dụng các tàu quân sự, cảnh sát biển, và dân sự để thách thức các quốc gia khác (ví dụ như các thủy thủ Philippines tại Bãi Cỏ Mây tại quần đảo Trường Sa) và mở rộng về quy mô của hoạt động quân sự và kinh tế (ví dụ như hạ đặt giàn khoan trong vùng biển của Việt Nam hồi năm ngoái).

Mỹ cũng có thể mời Đài Loan tham gia vào cuộc tập trận hải quân Vành đai Thái Bình Dương năm 2016. Trung Quốc được mời tham dự lần đầu vào năm 2014, bất chấp lịch sử đối đầu của họ với Mỹ, trong khi đó Đài Loan vẫn bị gạt ra ngoài. Wsahington cũng có thể bán cho Đài Loan các máy bay được nâng cấp F-16 và giúp họ xây dựng lực lượng tàu ngầm tối tân – điều mà Mỹ đã hứa hẹn vào năm 2001.

“Mỹ có lợi ích quốc gia đối với tự do hàng hải, tiếp cận mở đối với các không gian biển chung ở châu Á và với việc tôn trọng luật biển quốc tế tại Biển Đông,” cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton đã từng tuyên bố như vậy vào năm 2010. 5 năm sau thời điểm đó, Trung Quốc đang áp đặt ý chí của họ một cách rõ ràng hơn bao giờ hết. Mỹ và các đối tác có thể sẽ không còn có thêm 5 năm nữa để lãng phí.

“Cơ quan nào đứng sau hoạt động cải tạo đất của Trung Quốc?” của Wilson VornDick

Trung Quốc có nhiều kinh nghiệm trong việc định hình, thay đổi môi trường tự nhiên, bất chấp những thách thức hay thiệt hại có thể có. Trong công trình của nhà nghiên cứu Trung Quốc, Maren Lau, Đại học Hamburg, ông phát hiện Trung Quốc có “xu hướng liên tục” trong việc phát triển các khu vực duyên hải thông qua hoạt động cải tạo đất.

Nghiên cứu của ông Lau chỉ ra ở Trung Quốc có 4 cơ quan chính phụ trách vấn đề cải tạo đất. Đó là Bộ Đất đai và Tài nguyên, Bộ Thủy lợi, Bộ Bảo vệ Môi trường, và Cục Hải dương Nhà nước (SOA). Và tại các khu vực biển và ven biển như Biển Đông, Cục Quản lý Hải Dương Nhà nước, đứng đầu là Cục trưởng Lưu Tứ Quý, là cơ quan chịu trách nhiệm cho hoạt động cải tạo đảo.

Vai trò nổi bật của SOA nằm ở thẩm quyền độc đáo của cơ quan này trong chính sách biển, bảo vệ và quản lý các đảo, các khu vực biển mà Trung Quốc được hưởng theo UNCLOS. Ông Lau xác nhận SOA là cơ quan chịu trách nhiệm cho việc quản lý các vùng ven biển và có vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị. Bất chấp việc bị đặt dưới sự quản lý của Bộ Đất đai và Tài nguyên và những đợt cải cách hành chính khiến SOA có vị trí thấp hơn trong hệ thống chính trị, tầm ảnh hưởng của SOA vẫn ngày càng lớn. Kừ năm 1989, số nhiệm vụ mà họ nhận từ cấp trên ngày càng nhiều và vai trò của họ trong chính phủ đã tăng một cách đáng kể. Sức mạnh tiềm ẩn của SOA có vẻ như là xu hướng tăng dần đi đôi với tầm quan trọng của các vùng biển đối với Bắc Kinh.

Một ví dụ gần đây cho thấy tầm ảnh hưởng của SOA đó là vai trò lãnh đạo của họ trong quá trình tái cơ cấu hầu hết các lực lượng dân sự và bán quân sự trong năm 2013. Việc Thường vụ Bộ Chính trị thành lập một nhóm cố vấn các vấn đề liên quan tới an ninh biển vào năm 2012 cũng báo trước việc SOA sẽ có tầm quan trọng ngày càng lớn hơn. Lãnh đạo đầu tiên của nhóm bí mật này là ông Tập Cận Bình, Chủ tịch Trung Quốc hiện tại. Cũng năm đó, cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào cam kết sẽ “kiên quyết bảo vệ các quyền và lợi ích trên biển của Trung Quốc, và xây dựng Trung Quốc thành cường quốc biển.” Đây là minh chứng cho thấy SOA đã có sự can dự sâu vào nhóm này. Nhìn xa hơn, SOA có thể chính là thủ phạm đứng sau hoạt động cải tạo đảo của Trung Quốc tại Biển Đông.

“Duy trì luật lệ: Đối phó lại các biện pháp cưỡng ép trên biển ở Châu Á” của Patrick Cronin & Alexander Sullivan

Ngày 13/3, Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS) ra báo cáo “Duy trì luật lệ: Đối phó lại các biện pháp cưỡng ép trên biển ở Châu Á”, trong đó có một số nội dung:

Trong 7 năm qua, các luật lệ trên biển ở Châu Á, đặc biệt là ở Biển Đông và Biển Hoa Đông đã đối mặt với nhiều thách thức. Mỹ và các đồng minh, đối tác ở khu vực nhận ra việc phải duy trì, thích nghi và xây dựng một hệ thống dựa trên luật lệ có tính bao hàm. Báo cáo đưa ra một số khuyến nghị với Mỹ:

Một là, Mỹ cần tìm cách thể chế hóa hơn nữa hợp tác quân sự và dân sự cấp cao với Trung Quốc. Mục tiêu là đạt được sự hợp tác có hiệu quả chứ không chỉ là liên lạc thông thường. Mỹ cần nhấn đến việc thiết lập quy trình hoạt động an toàn giữa các lực lượng hải quân trên biển cũng như hai bên cần hoàn thành bản ghi nhớ về tránh đụng độ trên không vào cuối năm 2015. Các cuộc đàm phán cũng như thỏa thuận phải bao gồm các lực lượng quân sự cũng như bán quân sự trên biển Đông và Biển Hoa Đông.

Hai là, Mỹ cần sẵn sàng huy động sức ép quốc tế và khu vực bất cứ khi nào xảy ra hành động cưỡng ép một cách rõ ràng. Việc thể hiện sức mạnh cũng như những tuyên bố lên án sẽ giúp chỉ ra những hành động nguy hiểm, khó có thể chấp nhận. Về lâu dài, nếu ngoại giao và việc thể hiện sức mạnh là chưa đủ, Mỹ cần hợp tác với đồng minh và đối tác để tái lập lại cân bằng quyền lực bằng việc tăng cường sự hiện diện và tăng cường năng lực cho đối tác và đồng minh.

Ba là, Mỹ cần huy động sự ủng hộ đối với những hành động tích cực giúp thúc đẩy luật lệ. Ví dụ như việc hỗ trợ cho Phlippines trong vụ kiện ra Tòa trọng tài là hành động giúp thúc đẩy việc sử dụng luật pháp quốc tế. Mỹ cũng cần khuyến khích các bên yêu sách khác và ASEAN ủng hộ Philippines.

Bốn là, Mỹ cần tập trung vào việc tăng cường năng lực giám sát trên biển. Với đồng minh, Mỹ cần xây dựng năng lực kết nối để có thể phối hợp tác chiến khi xảy ra khủng hoảng. Với các đối tác, Mỹ có thể giúp nâng cao khả năng giám sát.

Năm là, Mỹ cần tăng thêm cái giả phải trả về mặt phi quân sự đối với những hành động cưỡng ép qua việc xem xét đến một bộ quy tắc thực hành (code of practice) giữa các đồng minh và các nước có cùng mục tiêu. Bộ quy tắc này không thay thế cho bộ quy tắc ứng xử (code of conduct) của ASEAN mà là chất xúc tác thúc đẩy cho các hành xử có tiêu chuẩn cao.

Sáu là, Mỹ cần giúp đồng minh và đối tác đối trọng lại với chương trình hiện đại hóa quân sự quy mô lớn cũng như những hành động cưỡng ép có tính toán của Trung Quốc bằng việc giúp các nước tăng cường năng lực quốc gia. Mục tiêu là tập trung vào những công nghệ có tính chất phòng thủ và có giá thành thấp.

Bảy là, Mỹ cần tập trung vào xây dựng năng lực trong các hoạt động hỗ trợ an ninh, trong chương trình Giáo dục và Huấn luyện Quân sự Quốc tế (IMET), qua các hoạt động trao đổi lãnh đạo, diễn tập. Hoạt động này giúp xây dựng quan hệ an ninh lâu dài với Mỹ cũng như tăng cường mạng lưới an ninh giữa các quốc gia Châu Á.

Cuối cùng, Mỹ cần tập trung vào tăng cường sức mạnh tổng hợp, trước tiên là hoàn tất Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), điều kiện cần thiết cho sự can dự thành công lâu dài với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và cũng là để đảm bảo Trung Quốc không sử dụng kinh tế để chia rẽ Mỹ với các nước khác./.