Tóm tắt

- Nhìn chung, trong 3 thập kỷ qua, chính sách của Malaysia đối với tranh chấp ở Biển Đông chỉ có những điều chỉnh nhỏ.

- Chính sách này được thiết kế nhằm bảo vệ chủ quyền và các quyền chủ quyền của Malaysia, duy trì luật pháp quốc tế, thúc đẩy hòa bình và ổn định trên Biển Đông .

- Để đạt được các mục tiêu chính sách, các chính phủ kế tiếp nhau đã theo đuổi 3 chiến lược chính: bảo vệ các tuyên bố chủ quyền của mình; bớt chú trọng vào tranh chấp nhằm duy trì mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc; và thúc đẩy tiến trình xử lý xung đột do Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lãnh đạo.

- Chính quyền Liên minh Hy vọng (PH) do Thủ tướng Mahathir Mohamad lãnh đạo đã theo đuổi chính sách và các chiến lược tương tự, nhưng với thái độ chỉ trích hành xử của Trung Quốc hơn một chút so với chính phủ tiền nhiệm của Najib Razak.

- Có khả năng các chính quyền hậu PH giữ vững chính sách Biển Đông hiện nay của Malaysia.

Giới thiệu

Sau một tuần chính trường trở nên hỗn loạn khi chứng kiến sự sụp đổ của Chính quyền PH và Thủ tướng Mahathir Mohamad từ chức, ngày 1/3/2020, ông Muhyiddin Yassin đã được bổ nhiệm làm Thủ tướng Malaysia thứ 8. Ít nhất là trong ngắn hạn, Thủ tướng Muhyiddin không thể tuyên bố bất kỳ sự thay đổi lớn nào trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của nước này vì hai lý do. Thứ nhất, ông sẽ bận rộn với việc củng cố quyền lực chính trị và đảm bảo liên minh mong manh của mình có thể tồn tại. Thứ hai, kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, đặc trưng chính sách đối ngoại của Malaysia là sự liên tục.

Có thể thấy sự liên tục về chính sách trong cách tiếp cận của Malaysia đối với tranh chấp ở Biển Đông. Trong 3 thập kỷ qua, các đời thủ tướng – người nắm toàn quyền quyết định chính sách đối ngoại của Malaysia – đã tìm cách bảo vệ chủ quyền và các quyền chủ quyền của nước này trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ, ngăn không để tranh chấp này làm tổn hại đến mối quan hệ với Trung Quốc (đối tác kinh tế lớn nhất của Malaysia), duy trì luật pháp quốc tế và xử lý tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Bài viết này xem xét các tuyên bố về lãnh thổ và quyền tài phán của Malaysia cùng với chính sách và các chiến lược của họ ở Biển Đông, tập trung vào thời gian Chính quyền PH cầm quyền từ tháng 5/2018 cho đến tháng 2/2020.

Các tuyên bố của Malaysia ở Biển Đông

Malaysia tuyên bố chủ quyền đối với 10 đảo san hô vòng ở quần đảo Trường Sa. Chính phủ Malaysia dường như đã từ bỏ chủ quyền đối với cấu trúc địa hình thứ 11, đá Louisa, trong một thỏa thuận song phương nhằm phân định ranh giới trên biển với Brunei vào năm 2009. Dựa trên nguyên tắc phân định thềm lục địa, Kuala Lumpur cũng tuyên bố quyền tài phán đối với bãi ngầm James (cách Sarawak 45 hải lý) và một nhóm các cấu trúc địa hình ngầm và nửa ngầm được biết đến với tên gọi cụm bãi cạn Luconia (cách Sarawak 54 hải lý).

Malaysia chiếm giữ 5 đảo san hô vòng ở quần đảo Trường Sa: đá Swallow (đá Hoa Lau), chiếm giữ năm 1983; đá Mariveles (đá Kỳ Vân) và đá Ardasier (đá Kiệu Ngựa) năm 1986; bãi Investigator (bãi Thám hiểm) và đá Erica (đá Én ca) năm 1999. Họ cũng tuyên bố chủ quyền đối với hai cấu trúc địa hình chưa bị chiếm giữ là đá Dallas (đá Suối cát, gần đá Ardasier) và đá Royal Charlotte (Đá Sắc Lôt, gần đá Swallow).

Tuyên bố chủ quyền của Malaysia chồng lấn với tuyên bố của Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam và Philippines. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các cấu trúc địa hình mà Malaysia tuyên bố chủ quyền vì cho rằng chúng nằm trong phạm vi “đường 9 đoạn” bành trướng tới hơn 80% Biển Đông. Ngay cả bãi ngầm James nằm dưới mặt nước Trung Quốc cũng tuyên bố thuộc lãnh thổ nằm ở phía cực Nam của họ. Malaysia tuyên bố chủ quyền đối với đảo An Bang và đá Alison (đá Tốc Tan) do Việt Nam chiếm giữ và đá Commodore (đá Công Đo) do Philippines chiếm giữ. Tranh chấp chính của Malaysia là với Trung Quốc, dù một báo cáo gần đây chỉ ra một số bất đồng với Việt Nam.

Chính sách của Malaysia ở Biển Đông

Kể từ cuối những năm 1980, khi Biển Đông nổi lên là một vấn đề an ninh nghiêm trọng, Malaysia đã nhất quán tuân theo một chính sách và chỉ có những điều chỉnh nhỏ. Chính sách đó bao gồm 3 yếu tố.

Yếu tố thứ nhất là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và các quyền chủ quyền trong EEZ của nước này. Các cấu trúc địa hình mà Malaysia tuyên bố chủ quyền nằm gần bang Sarawak và Sabah, và vùng biển ngoài khơi hai bang này có các ngư trường và trầm tích dầu quan trọng. Trầm tích dầu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với Kuala Lumpur vì đây là một nguồn thu nhập sinh lời. Năm 2019, Malaysia là nhà sản xuất khí tự nhiên đứng thứ ba thế giới (29 triệu tấn) và là nhà sản xuất dầu thô đứng thứ 26 thế giới (661.240 thùng/ngày).

Yếu tố thứ hai là duy trì luật pháp quốc tế, bao gồm quyền tự do hàng hải và hàng không. Là một nước nhỏ, Malaysia nhiệt liệt ủng hộ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Kuala Lumpur ủng hộ phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế để giải quyết các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và quyền tài phán mâu thuẫn, tham gia 3 vụ kiện lớn với Indonesia và Singapore và tuân thủ các phán quyết của tòa. Malaysia phân định ranh giới trên biển của họ với Brunei vào năm 2009 và với Indonesia ở đảo Sulawesi vào năm 2018. Năm 2009, Malaysia và Việt Nam cùng đệ trình lên Ủy ban về ranh giới thềm lục địa (CLCS) của Liên hợp quốc các tuyên bố về thềm lục địa của hai nước này ở khu vực phía Nam Biển Đông. Khi Tòa trọng tài ra phán quyết đối với vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc vào ngày 12/7/2016, Malaysia đã đưa ra một tuyên bố lưu ý rằng nên giải quyết tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình thông qua việc “hoàn toàn tôn trọng các tiến trình pháp lý và ngoại giao” trong đó có UNCLOS. Chính phủ Malaysia hoàn toàn nhất trí với phán quyết của Tòa trọng tài rằng “đường 9 đoạn” của Trung Quốc không phù hợp với UNCLOS. Tháng 3/2017, Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia khi đó Anifah Aman đã nói với Quốc hội rằng Malaysia không công nhận “đường 9 đoạn” và do đó không có các tuyên bố chủ quyền chồng lấn giữa hai nước.

Yếu tố thứ ba là thúc đẩy hòa bình và sự ổn định trên Biển Đông. Là một nước phụ thuộc vào thương mại, sự thịnh vượng về kinh tế của Malaysia dựa vào dòng chảy thương mại tự do trên biển thông qua eo biển Malacca và Biển Đông. Điều mang tính then chốt là các tuyến liên lạc trên biển đi qua Biển Đông kết nối Malaysia bán đảo với khu vực miền Đông Malaysia.

Các chiến lược của Malaysia

Để đạt được các mục tiêu chính sách của mình ở Biển Đông, các chính phủ Malaysia kế tiếp nhau đã theo đuổi 3 chiến lược chính.

Thứ nhất là khẳng định và bảo vệ chủ quyền và các quyền chủ quyền của quốc gia. Từ cuối những năm 1980, chính sách quốc phòng của Malaysia đã trở nên hướng ngoại hơn do sự thất bại của các cuộc nổi dậy và tình hình ngày càng căng thẳng ở Biển Đông. Tranh chấp trên biển đã ảnh hưởng đến một số quyết định lớn về việc mua sắm thiết bị quốc phòng, đáng chú ý là việc mua hai tàu ngầm vào những năm 2000. Malaysia đã cho binh lính đóng quân tại 5 đảo san hô vòng mà họ chiếm giữ, và Không quân hoàng gia Malaysia (RMAF), Hải quân hoàng gia Malaysia (RMN) và Cơ quan thực thi hàng hải Malaysia (MMEA – hay cảnh sát biển) thường xuyên thực hiện các cuộc tuần tra trong EEZ của nước này để theo dõi các hoạt động của Trung Quốc. Kể từ năm 2013, Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG) đã duy trì sự hiện diện gần như liên tục ở cụm bãi cạn Luconia, và vào cuối năm 2019 và đầu năm 2020, họ đã gia tăng hoạt động, tìm cách phá hoại hoạt động khoan thăm dò của Malaysia trong khu vực bằng cách quấy nhiễu các giàn khoan, tàu khảo sát và tàu tiếp tế của Malaysia. Điều này đã dẫn đến một loạt vụ đối đầu căng thẳng giữa các tàu của Chính phủ Malaysia và Trung Quốc trong khu vực này.

Chiến lược thứ hai là bảo vệ mối quan hệ kinh tế có giá trị của Malaysia với Trung Quốc không bị ảnh hưởng bởi tranh chấp. Kể từ đầu những năm 1990, chính sách của Malaysia với Trung Quốc là xây dựng mối quan hệ kinh tế gắn bó hơn trong khi công khai loại bỏ ý niệm rằng Trung Quốc là một mối đe dọa chiến lược, kể cả ở Biển Đông. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất của Malaysia, và để thúc đẩy các lợi ích kinh tế của nước này và ngăn không cho tranh chấp biển phủ bóng lên mối quan hệ (như đã xảy ra theo thời kỳ trong cả quan hệ Trung-Việt lẫn Trung Quốc-Philippines), Kuala Lumpur đã nhất quán không nhấn mạnh vào vấn đề này và cố gắng kiềm chế tình cảm dân tộc chủ nghĩa đối với các tuyên bố chủ quyền của họ ở Biển Đông. Do đó, nhìn chung, truyền thông trong nước tránh đề cập, giảm mức độ nghiêm trọng hoặc phủ nhận các vụ việc trên biển giữa tàu của Malaysia và Trung Quốc. Điều này đặc biệt rõ ràng trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Najib Razak (2009-2018) khi Malaysia tích cực thu hút đầu tư từ Trung Quốc, bao gồm một vài dự án cơ sở hạ tầng đáng chú ý nằm trong khuôn khổ sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI). Chẳng hạn, tháng 3/2013, 4 tàu chiến của Trung Quốc đã tiến hành tập trận gần bãi ngầm James. Ban đầu, Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia bác bỏ thông tin này dù sau đó RMN đã xác nhận. Vài tháng sau, Bộ trưởng Quốc phòng khi đó Hishammuddin Hussein nói với truyền thông rằng Malaysia không quan ngại về sự hiện diện của các tàu chiến Trung Quốc trong EEZ của nước này như các nước tuyên bố chủ quyền khác, tuyên bố rằng: “Chỉ vì các anh có kẻ thù, điều đó không có nghĩa kẻ thù của các anh là kẻ thù của chúng tôi”. Tháng 1/2014, 3 tàu chiến Trung Quốc đã tiến hành tập trận gần bãi ngầm James, nhưng RMN khẳng định hoạt động này diễn ra ngoài EEZ của Malaysia. Tháng 3/2016, trước sự hiện diện của gần 100 tàu đánh cá Trung Quốc cùng các tàu hộ tống của CCG ở cụm bãi cạn Luconia, Chính phủ Malaysia đã đưa ra phản ứng yếu ớt đến mức gây chú ý.

Malaysia tránh đưa ra một phản ứng quân sự trước các cuộc xâm nhập của Trung Quốc không chỉ để bảo vệ mối quan hệ hữu nghị với nước này mà còn vì Lực lượng vũ trang Malaysia (MFA) không được cấp vốn và trang thiết bị đầy đủ và quá tải khi phải đối phó với các mối đe dọa về an ninh khác như cướp biển, di cư bất hợp pháp, khủng bố và các cuộc xâm nhập biên giới. Malaysia cũng từ chối đệ trình tranh chấp này lên Tòa trọng tài quốc tế vì Trung Quốc sẽ xem đây là một hành động thù địch (như họ đã làm khi Philippines thách thức các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc lên Tòa án quốc tế về luật biển năm 2013). Malaysia và Trung Quốc ưu tiên giải quyết tranh chấp thông qua biện pháp ngoại giao hậu trường kín đáo.

Chiến lược thứ ba là ủng hộ tiến trình xử lý tranh chấp giữa ASEAN và Trung Quốc, đặc biệt là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 và các cuộc đàm phán đang diễn ra về Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Như một biện pháp giải quyết vấn đề này, về mặt nguyên tắc, các đời chính phủ Malaysia liên tiếp đã ủng hộ cùng khai thác các nguồn tài nguyên trong khu vực tranh chấp. Khi thảo luận về tranh chấp ở Biển Đông, các thủ tướng của Malaysia luôn lấy Thỏa thuận phát triển chung Malaysia-Thái Lan ở Vịnh Thái Lan năm 1979 làm mẫu. Tuy nhiên, trên thực tế, Kuala Lumpur không nghiêm túc theo đuổi lựa chọn này vì theo UNCLOS, họ có các quyền chủ quyền đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên trong EEZ của mình và không công nhận tuyên bố “đường 9 đoạn” của Trung Quốc.

PH và tranh chấp ở Biển Đông

Cách tiếp cận của Chính phủ PH đối với Biển Đông nhất quán với các đời chính phủ trước và chỉ có một số điều chỉnh nhỏ. Sự nhất quán này không gây bất ngờ do Mahathir chính là người đã xây dựng chính sách của Malaysia đối với Trung Quốc (bao gồm cả đối với Biển Đông) trong nhiệm kỳ thủ tướng đầu tiên của ông từ năm 1981 đến năm 2003. Khi ông trở lại cầm quyền vào tháng 5/2018, mối quan ngại chính về chính sách đối ngoại của ông là đàm phán các dự án BRI – mà trước đây ông từng chỉ trích là có cái giá quá cao, lãng phí và có tiềm năng là bẫy nợ - mà không gây tổn hại đến mối quan hệ với Trung Quốc. Ông đã đạt được điều này.

Những sự điều chỉnh này là kết quả của bối cảnh địa chính trị của tranh chấp thay đổi, đặc biệt là sức mạnh quân sự ngày càng tăng và chính sách ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông, cùng với tình trạng đối địch Mỹ-Trung căng thẳng. Bối cảnh thay đổi này được phản ánh trong Sách Trắng quốc phòng năm 2019 của Malaysia. Sách Trắng lưu ý rằng môi trường bên ngoài biến đổi và cuộc cạnh tranh sức mạnh ngày càng quyết liệt đã tạo ra những thách thức an ninh chưa từng có cho Malaysia. Cụ thể trong tranh chấp ở Biển Đông, Sách Trắng tuyên bố rằng các hoạt động do Trung Quốc lẫn Mỹ thực hiện đã biến vấn đề về các tuyên bố chủ quyền chồng lấn trở thành một trò chơi giữa các nước lớn.

Chính quyền PH trung thành với 3 chiến lược chính từ thời các chính quyền trước đó. Chiến lược thứ nhất là bảo vệ và khẳng định các tuyên bố chủ quyền trên biển của nước này. Vài tháng sau khi nhậm chức, Mahathir nói Malaysia sẽ tiếp tục chiếm giữ 5 đảo san hô vòng ở quần đảo Trường Sa. Sách Trắng nhấn mạnh tầm quan trọng về kinh tế của môi trường biển của nước này khi tuyên bố đây là một trong những nguồn tạo nên sự thịnh vượng của Malaysia. Các vùng biển, đáy biển, tầng đất dưới, kênh rạch, không phận và thềm lục địa có vai trò then chốt đối với hoạt động thương mại, nghề cá và các nguồn lợi thủy sản, phương tiện vận tải, kết nối giữa nhân dân và các mô hình tạo ra của cải khác cho đất nước. Tài nguyên sinh vật và phi sinh vật, đặc biệt là dầu khí, là một trong những nguồn thu nhập chính của Malaysia.

RMN và MMEA tiếp tục giám sát sự hiện diện của Hải quân, CCG và lực lượng dân quân trên biển của Trung Quốc trong EEZ của Malaysia. Các tàu chiến của RMN âm thầm hộ tống các giàn khoan và tàu tiếp tế của Malaysia ở gần cụm bãi cạn Luconia. Tháng 10/2019, Bộ trưởng Ngoại giao Saifuddin Abdullah yêu cầu nâng cấp phạm vi hoạt động của RMN để đơn vị này gia tăng các hoạt động giám sát trong EEZ. Sách Trắng chỉ ra rằng RMN cần các tàu tiếp tế đa nhiệm, tàu tuần tra nhanh và các trạm radar trên bờ biển để hoàn thành nhiệm vụ này nhưng không đưa ra kế hoạch mua sắm chi tiết.

Tháng 12/2019, Malaysia nộp một đệ trình khác lên CLCS, lần này liên quan đến các tuyên bố chủ quyền đối với thềm lục địa của nước này ở phía Bắc Biển Đông. Đệ trình này hoàn toàn công nhận phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016 rằng không cấu trúc địa hình nào ở quần đảo Trường Sa là các hòn đảo có khả năng tạo ra các EEZ hay thềm lục địa. Trung Quốc phản đối đệ trình của Malaysia, cho rằng nó xâm phạm chủ quyền của họ và đề nghị CLCS không xem xét đệ trình này. Đáp lại, Saifuddin gọi các tuyên bố “đường 9 đoạn” của Trung Quốc là “lố bịch”. Trước đó, vào tháng 10/2019, bộ phim hoạt hình “Abominable” (Everest: Người tuyết bé nhỏ) do Trung Quốc và Mỹ phối hợp sản xuất đã bị cấm công chiếu tại các rạp phim của Malaysia vì nhà sản xuất không làm theo yêu cầu của hội đồng kiểm duyệt phim Malaysia về việc cắt một cảnh quay có xuất hiện bản đồ “đường 9 đoạn”.

Chiến lược thứ hai là duy trì quan hệ thân thiết với Trung Quốc. Nhìn chung, Chính quyền PH tiếp tục bớt chú trọng vào tranh chấp trên biển của nước này với Trung Quốc. Trong một số bài phỏng vấn trên truyền thông, Mahathir tuyên bố rõ ràng rằng để bảo vệ quan hệ thương mại và đầu tư quý giá với đối tác kinh tế lớn nhất của Malaysia, chính quyền của ông sẽ tránh chỉ trích những hành động của Bắc Kinh ở Biển Đông (và Tân Cương). Chẳng hạn, vào tháng 6/2018, ông lập luận rằng: “Chúng ta cần các thị trường do đó chúng ta không thể tranh cãi với một thị trường lớn như vậy” và vào tháng 9/2019, ông nói thêm rằng “đừng thử làm điều gì mà dù thế nào đi nữa cũng sẽ thất bại, tốt hơn là nên tìm cách nào ít mang tính bạo lực hơn để không gây thù địch quá mức với Trung Quốc, vì Trung Quốc có lợi cho chúng ta. Dĩ nhiên, họ là một đối tác thương mại lớn và chúng ta không muốn làm điều gì mà rồi sẽ thất bại và trong quá trình đó chúng ta sẽ chịu tổn hại”. Mahathir cũng thường xuyên nêu bật những sự bất cân xứng về sức mạnh quân sự giữa hai nước và việc MAF không có khả năng đối đầu với Trung Quốc: “Nếu Trung Quốc hành động, chúng ta ở vào vị trí không thể kháng cự hay chống lại họ... Chúng ta phải chấp nhận thực tế rằng Trung Quốc là một nước lớn”. Chính phủ PH cũng bác bỏ việc đệ trình các tuyên bố chủ quyền chồng lấn của mình với Trung Quốc lên Tòa trọng tài.

Tuy nhiên, Chính phủ PH chỉ trích hành động của Trung Quốc ở Biển Đông nhiều hơn một chút so với chính phủ tiền nhiệm. Không giống Najib và các bộ trưởng thời đó, các nhà lãnh đạo PH lớn tiếng hơn khi bày tỏ quan ngại về sự hiện diện của các tàu Trung Quốc trong EEZ của Malaysia. Quả thật, Sách Trắng nhận định rằng những hành động xâm nhập như vậy gây ra thách thức rõ ràng đối với các quyền chủ quyền của Malaysia. Sách Trắng cũng đề cập đến hành động quân sự hóa và các chính sách được cho là hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Như đã được lưu ý phía trên, Saifuddin gọi các tuyên bố “đường 9 đoạn” của Trung Quốc là “lố bịch”. Mặc dù vẫn ở mức nhẹ nhàng, nhưng đối với Malaysia, những lời phát biểu như vậy cho thấy giọng điệu của họ đã trở nên cứng rắn hơn một cách đáng chú ý.

Đồng thời, Chính quyền PH đã cân bằng việc chỉ trích Trung Quốc bằng cách cũng chất vấn các hoạt động của Mỹ. Khi cầm quyền, Mahathir đã nhiều lần nói rằng các tàu chiến nước ngoài – có lẽ là của cả Mỹ lẫn Trung Quốc - ở Biển Đông đang gây bất ổn và làm gia tăng nguy cơ xảy ra một cuộc đối đầu quân sự. Các bộ trưởng thời ông đã nhắc lại quan điểm này. Bộ trưởng Quốc phòng Mohamad Sabu gọi sự hiện diện của các tàu chiến của Mỹ và Trung Quốc là rất đáng lo ngại, trong khi Saifuddin chỉ trích cả hai nước này vì hoạt động quá tích cực trong khu vực. Sách Trắng cho rằng các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) của Mỹ ở Biển Đông đã góp phần vào cuộc cạnh tranh nước lớn ở Đông Nam Á. Để giảm bớt căng thẳng, Mahathir kêu gọi các nước không quân sự hóa Biển Đông và để khu vực này trở thành khu vực hòa bình, hữu nghị và có lợi cho thương mại, phù hợp với mục tiêu chính sách đối ngoại được ấp ủ từ lâu của Malaysia là biến Đông Nam Á trở thành “Khu vực hòa bình, hữu nghị và trung lập” (ZOPFAN). Ban đầu, Mahathir đề xuất thiết lập đội tuần tra ASEAN ở Biển Đông, dù sau đó ý tưởng này đã bị bác bỏ.

Chiến lược thứ ba của Chính quyền PH là xử lý tranh chấp thông qua biện pháp ngoại giao. ASEAN được đặt vào vị trí tiền tuyến trong việc thực hiện nỗ lực này vì theo quan điểm của Chính phủ Malaysia, ASEAN có thể hành động với vai trò một bên môi giới chân thành trong việc xử lý các thế lực và sự bất trắc trong khu vực, nhờ sức mạnh đàm phán tập thể và khả năng giúp Trung Quốc hòa nhập để trở thành một nước lớn có trách nhiệm và tử tế, và không khiến các nước láng giềng nhỏ lo ngại. Một trong những ưu tiên hàng đầu của PH là sớm ký kết COC. Mặc dù tháng 9/2019, Malaysia và Trung Quốc đã nhất trí thiết lập Cơ chế tham vấn song phương (BCM) để thảo luận về các vấn đề trên biển, nhưng không rõ BCM sẽ giải quyết tranh chấp Biển Đông đến mức độ nào, xét rằng Kuala Lumpur ưu tiên các cuộc đàm phán do ASEAN lãnh đạo hơn.

Kết luận

Cách tiếp cận của Malaysia với tranh chấp ở Biển Đông có sự khác biệt đáng kể so với Philippines và Việt Nam. Trong khi Manila thỏa hiệp với Trung Quốc (dưới thời Tổng thống Gloria Arroyo và Rodrigo Duterte) rồi lại đối đầu với nước này (dưới thời Tổng thống Benigno Aquino), thì chính sách của Kuala Lumpur - và các chiến lược để đạt được chính sách đó - nhìn chung vẫn nhất quán, với một số điều chỉnh nhỏ khi xem xét đến những thay đổi về môi trường địa chính trị. Mặc dù Việt Nam nhất quán hơn Philippines, nhưng không giống nước này, Malaysia không công khai các vụ việc xảy ra trên biển, hay lên tiếng phản đối hành động quyết đoán của Trung Quốc và ủng hộ sự hiện diện của quân đội Mỹ. Thay vào đó, Malaysia ưu tiên ngoại giao kín đáo phía sau hậu trường, để ASEAN nắm vai trò lãnh đạo trong khi đồng thời khẳng định cơ sở pháp lý của các tuyên bố chủ quyền của họ và duy trì thái độ cảnh giác ở Biển Đông. Trong những năm 2020, nếu không có việc Trung Quốc công khai hành động hung hăng ở Biển Đông hay Malaysia bổ nhiệm một thủ tướng thân Trung Quốc quá mức, thì nước này sẽ không chệch hướng đáng kể khỏi chính sách đã qua thử nghiệm này.

Ian Storey là nghiên cứu viên cao cấp và biên tập viên của Đông Nam Á đương đại tại ISEAS - Viện Yusof Ishak. Bài viết được đăng trên ISEAS.

Minh Anh (gt)