Chỉ mục bài viết |
---|
Leszek Buszynski, An ninh Biển Đông và giải pháp thực tế |
Page 2 |
Tất cả các trang |
Đề cập về các thách thức an ninh đối với khu vực Biển Đông và giải pháp thực tế cho tranh chấp tại khu vực này, giáo sư Leszek Buszynski, Viện nghiên cứu quan hệ quốc tế, Trường đại học quốc tế Nhật Bản, cập nhật bài tham luận tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông tại Hà Nội tháng 11/2009 và đăng tại tạp chí “Nam Today” (Ấn Độ) như sau.
Vùng Biển Đông, trong đó có quần đảo Spratly, Việt Nam gọi là Trường Sa, Trung Quốc gọi là Nam Sa, quần đảo Paracel, tiếng Việt Nam gọi là Hoàng Sa, tiếng Trung Quốc gọi là Tây Sa và Macclesfield Bank được biết với tên gọi quần đảo Trung Sa. Thống kê chính xác số lượng các đảo ở khu vực này rất khó vì khó xác định giữa các đảo, đảo san hô vòng và đá ngầm, trong đó nhiều đảo chỉ được nhìn thấy khi thuỷ triều xuống thấp. Có số liệu thống kê cho rằng tổng số đảo là 190, trong khi có thống kê lên tới 400 đảo đá, đá ngầm và đảo, thậm chí trong thống kê khác lên tới 650. Số đảo có người ở dao động từ khoảng 48 đến 50 đảo. Lý do chiếm giữ các đảo này có nhiều ý nghĩa bởi một số đảo có thể đồn trú lâu dài, song ở một số đảo san hô chỉ có thể đồn trú trong những thời gian nhất định trong năm; một số khác có thể có bằng chứng về sự có mặt của con người và cho đến nay vẫn được gọi là “có người ở”. Hiện tại, Việt Nam sở hữu 27 đảo và đảo san hô; Philíppin có mặt trên 8 đảo ở phần phía Đông; Trung Quốc chiếm 9 đảo, mặc dù có những thông báo con số này chỉ là 7; Malaixia chiếm 3 đảo và có mặt trên 2 đảo khác; Đài Loan chiếm 1 đảo. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền hầu như đối với toàn bộ khu vực quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, nghĩa là vùng yêu cầu chủ quyền của hai nước này chồng lấn lên các vùng yêu cầu chủ quyền của các nước Philíppin, Malaixia và Brunây. Đến lượt mình, ba nước này cũng lại có các khu vực nhận chủ quyền tiếp giáp lãnh thổ của họ chồng lấn nhau. Philíppin tuyên bố chủ quyền đối với nhóm đảo Kalayaan, là 1 đô thị hạng 5 ở tỉnh Palawan chồng lấn với vùng Malaixia cũng tuyên bố chủ quyền kéo dài từ 2 bang Sarawak/Sabah; Brunây tuyên bố chủ quyền kéo dài từ lãnh thổ nước này chồng lấn với các vùng mà cả Malaixia và Philíppin cũng đều nhận chủ quyền.
Việt
Trung Quốc nhận chủ quyền với lý lẽ họ là nước đầu tiên phát hiện ra các quần đảo trên và đã giận dữ phản đối khi Hội nghị San Francisco tháng 9/1951 gạt bỏ quyền sở hữu của Nhật Bản đối với Trường Sa, song lại từ chối trao cho Trung Quốc.
Philíppin nhận chủ quyền đối với một khu vực liền kề
Malaixia yêu cầu chủ quyền đối với các vùng đã nêu dựa trên căn cứ vào thềm lục địa và đã công bố bản đồ khu vực này năm 1979. Malaixia và Philíppin đã chiếm một số đảo ở các vùng hai nước tuyên bố chủ quyền, động thái này gây phản ứng từ các nước láng giềng. Việc Tomas Cloma đòi chủ quyền đảo Kalayaan cho Philíppin năm 1956 đã khiến Chính quyền Nam Việt Nam đưa quân ra chiếm giữ một số đảo ở khu vực này. Đài Loan phản ứng tuyên bố của Tomas Cloma và cho quân chiếm lại Itu Aba hay Đảo Thái Bình mặc dù trước đó họ đã rút khỏi đảo này năm 1950.
Sau khi thống nhất năm 1975, Việt
Trung Quốc đã sử dụng hải quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa từ Chính quyền miền Nam Việt Nam năm 1974 , song lực lượng hải quân xa bờ của họ khi đó còn yếu nên không thể tiến xa hơn xuống phía Nam, hơn nữa sự có mặt của hải quân Mỹ tại Philíppin và sau đó hải quân Liên Xô đóng ở cảng Cam Ranh có vai trò như lực lượng răn đe đối với Trung Quốc. Chỉ tới khi nhà lãnh đạo Liên Xô Gorbachev bắt đầu cải thiện quan hệ với Bắc Kinh, thì Trung Quốc mới vững tâm hành động chống Việt Nam và chiếm một số đảo tại Trường Sa. Tháng 3/1988, hải quân Trung Quốc xung đột với hải quân Việt
UNCLOS-YẾU TỐ QUAN TRỌNG DẪN TỚI TRANH CHẤP TẠI BIỂN ĐÔNG
Một yếu tố quan trọng dẫn tới sự tranh giành Trường Sa là do luật biển; việc thương lượng về văn kiện pháp lý này được bắt đầu từ năm 1973 và kết quả là sự ra đời của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển – III (UNCLOS-III) tháng 12/1983. UNCLOS III cho phép các nước ven biển có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) kéo dài 200 hải lý (320 Km) tính từ đường cơ sở hoặc còn gọi là vùng thềm lục địa và quy định việc sở hữu các đảo có thể kéo dài thêm EEZ và thềm lục địa. Theo UNCLOS –III, mối liên hệ về lịch sử hay việc đầu tiên phát hiện ra không có nhiều sức nặng pháp lý nên yêu cầu chủ quyền của Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực vượt quá ngoài EEZ của hai nước này ít sức thuyết phục. Điều đó đã kích thích hai nước này chiếm đóng các đảo để mở rộng EEZ và thềm lục địa. Các nước có yêu cầu chủ quyền khác như Malaixia và Philíppin cũng tiến hành các biện pháp phòng ngừa để bảo đảm các đảo ở khu vực họ yêu cầu chủ quyền không bị nước khác chiếm đóng, đồng thời thực hiện các động thái thể hiện việc “chiếm giữ tích cực”. Thực tế là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “chiếm giữ tích cực” các đảo hơn là mối liên hệ lịch sử hay quyền đầu tiên phát hiện ra. Điều này đã được thể hiện trong việc phân xử chủ quyền đối với đảo
Trở ngại chính khác đối với các nước có yêu cầu chủ quyền là UNCLOS-III phân biệt rõ ràng các đảo với các đảo đá hay đảo san hô, theo đó không thể dựa vào để kéo dài vùng EEZ hoặc thềm lục địa. Điều 121 (3) về đảo đá hay đảo san hô viết “các đảo đá hay đảo san hô không có các điều kiện duy trì sinh hoạt cho con người hoặc phát triển kinh tế cho họ sẽ không có khu vực đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa”. Rất nhiều các đảo “có người chiếm giữ” ở Biển Đông bị xếp vào diện này. Tuy nhiên, các nước đã hành động trước để ngăn chặn những nước khác chiếm các đảo loại này trong các khu vực họ nhận chủ quyền mà vẫn chưa có vị thế hợp pháp rõ ràng vốn đã bị ngừng sau đó một thời gian. Khi đó, họ có thể tăng cường các diễn giải về khả năng phát triển kinh tế để ủng hộ cho yêu cầu chủ quyền của mình. Nếu vùng nước xung quanh các bãi đá ngầm và đảo san hô được sử dụng thường xuyên cho các mục đích du lịch và đánh cá, nếu hoạt động bơi lặn giữa các vòng đảo san hô được tiến hành trên cơ sở có tổ chức, thì điều đó sẽ có thể đáp ứng những đòi hỏi xác nhận chủ quyền. Trong trường hợp đảo Ligital/Sipadan nêu ở trên, Tòa án quốc tế nêu ra tầm quan trọng của việc thu lượm trứng rùa khi ủng hộ yêu cầu chủ quyền của Malaixia về “chiếm giữ có hiệu quả” và các luận cứ tương tự có thể được sử dụng trong tương lai để ủng hộ những yêu cầu về khả năng phát triển kinh tế.
KHẢ NĂNG XUNG ĐỘT TIỀM TÀNG Ở KHU VỰC
Việc tranh chấp các đảo, sự cứng rắn trong các yêu cầu chủ quyền trái ngược nhau và việc không có bất kỳ tiến triển nào hướng tới một giải pháp cho thấy xung đột luôn có khả năng xảy ra. Cho đến nay, Trung Quốc là bên yêu cầu chủ quyền duy nhất đã sử dụng vũ lực, điều đó phản ảnh vị thế là bên đến sau cùng của họ. Trong khi các nước có yêu cầu chủ quyền khác đã chiếm giữ các đảo trong các vùng họ nhận chủ quyền, Trung Quốc bị loại khỏi việc xác nhận chủ quyền theo cách tương tự do hải quân của họ thiếu năng lực và sự có mặt của hải quân các siêu cường. Vì là bên đến sau cùng nên Trung Quốc có động cơ sử dụng vũ lực để đòi chủ quyền đối với khu vực này và để can dự vào các cuộc thương lượng tương lai liên quan đến Biển Đông. Trong các năm 1974 và 1988, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chống Việt Nam, nước có yêu cầu chủ quyền chiếm số lượng đảo lớn nhất ở khu vực Trường Sa; điều đó báo động các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế và làm tăng sự nghi ngờ về động cơ lâu dài của Bắc Kinh. Tháng 5/1992, Bắc Kinh tuyên bố đàm phán với công ty Crestone của Mỹ về thăm dò dầu mỏ làm tăng thêm nỗi lo ngại. Tuy vậy, Trung Quốc cùng với ASEAN đã ký một tuyên bố về Biển Đông năm 1992. Trong tuyên bố này, Trung Quốc và ASEAN cam kết giải quyết vấn đề chủ quyền ở Biển Đông “bằng các biện pháp hoà bình, không sử dụng vũ lực”. Nhưng sau đó, Trung Quốc đã vi phạm cam kết này và chiếm đảo Vành khăn (Mischief Reef) nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philíppin. Sau đó, Trung Quốc xây dựng trên đảo này rồi mở rộng và củng cố công trình xây dựng trong năm 1999, để dành cho “các mục đích đánh cá”.
Rất nhiều cụm từ được sử dụng để đặt cho động thái của Trung Quốc, trong đó có “sáp nhập từ từ”, “sự xâm lấn lặng lẽ”, thể hiện nỗ lực giảm thiểu khả năng xảy ra xung đột trực tiếp. Philíppin bị tấn công bởi là nước trong ASEAN ít có khả năng nhất trong việc tuần tra khu vực EEZ và đòi hỏi chủ quyền của nước này. Tuy nhiên, sự mạo hiểm đối với Trung Quốc tăng lên khi Philíppin thương lượng với Hải quân Mỹ về Hiệp định Lực lượng Thăm viếng (VFA) năm 1998, và văn kiện này đã được Thượng viện Philíppin phê chuẩn năm 1999. Mỹ có lợi ích trong việc giành được quyền thăm Philíppin cho hải quân nước này vì điều đó tạo điều kiện cho họ phản ứng nhanh chóng hơn nhiều trong trường hợp xảy ra một cuộc khủng hoảng nữa ở Đài Loan. Vì vấn đề Đài Loan, Hải quân Mỹ bắt đầu can dự sâu ở Biển Đông. Tình hình bế tắc càng thể hiện rõ khi các tuyên bố nhận chủ quyền trái ngược nhau không được giải quyết. Tháng 11/2002, ASEAN và Trung Quốc đã ký “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), được nội bộ khối ASEAN đánh giá là một diễn biến tích cực, và là dấu hiệu cho thấy ý định của Trung Quốc đã thay đổi theo hướng tích cực hơn. Tuy nhiên, DOC chỉ là một phương cách giữ nguyên trạng và có lợi cho Trung Quốc trong bối cảnh Bắc Kinh lo ngại Mỹ can thiệp. DOC là động thái phòng thủ của Trung Quốc hơn là tín hiệu về ý muốn của Bắc Kinh muốn giải quyết vấn đề, do vậy văn kiện này cũng thể hiện dấu hiệu về khả năng bế tắc sẽ kéo dài.
Tình trạng bế tắc có thể kéo dài một thời gian trong nền chính trị thế giới mà không bùng nổ xung đột trong bối cảnh không có nhu cầu thúc ép phải giải quyết. Nếu như các hoạt động làm ăn có thể được tiến hành bất chấp các yêu cầu chủ quyền xung đột nhau thì tình thế nguyên trạng có thể chấp nhận được đối với tất cả các bên như một giải pháp thay thế cho xung đột. Tuy nhiên, sự nguyên trạng ở Biển Đông là không chắc chắn bởi lượng dự trữ dầu mỏ và khí đốt khổng lồ ở đây đòi hỏi phải có giải pháp cho các tuyên bố chủ quyền trái ngược nhau trước khi việc khai thác ở quy mô lớn được bắt đầu. Nhu cầu năng lượng toàn cầu sẽ tăng mạnh trong tương lai vì Trung Quốc và Ấn Độ, và các nước sản xuất khác tìm kiếm các nguồn năng lượng để bảo đảm sự phát triển các nền kinh tế của họ. Nhu cầu năng lượng của Trung Quốc tăng rất nhanh chóng và nhập khẩu sẽ chiếm tới 50% toàn bộ mức tiêu thụ năng lượng của nước này trong năm 2010. Trung Quốc đã cố gắng đa dạng hoá các nguồn cung năng lượng để giảm bớt nguy cơ nguồn cung bị ngưng trệ bằng cách tìm kiếm các hợp đồng dài hạn với Venêxuêla, Nigiêria, Xuđăng và dường như họ đang quan tâm nhiều hơn tới các nguồn tài nguyên ở Biển Đông. Trung Quốc ước tính trữ lượng dầu mỏ ở Biển Đông đã kích động Bộ Năng lượng Mỹ phản ứng với tuyên bố rằng “ít có bằng chứng ngoài tuyên bố của Trung Quốc ủng hộ ý kiến cho rằng khu vực này có trữ lượng dầu đáng kể”. Khí đốt tự nhiên có thể quan trọng hơn dầu mỏ ở Biển Đông vì báo cáo Điều tra địa chất của Mỹ cho rằng “60-70% dự trữ hyđrôcácbon ở khu vực này là khí đốt”. Đánh giá của Trung Quốc về dự trữ dầu khí ở đây cũng cao hơn đáng kể so với các nước khác. Tháng 4/2006, công ty Mỹ Husky Energy tiến hành thăm dò cùng với Tập đoàn quốc gia khai thác dầu mỏ ngoài khơi Trung Quốc (CNOOC) tuyên bố nguồn dự trữ khí đốt được khẳng định ở khu vực gần Trường Sa lên tới gần 4-6 nghìn tỷ foot khối ( 113, 2-169,8 tỷ m³).
Nhu cầu năng lượng thúc đẩy các nỗ lực khai thác tiềm năng năng lượng của Biển Đông trên thực tế có thể kích hoạt xung đột. Năm 1992, khi Trung Quốc mời Crestone thăm dò dầu khí ở khu vực này đã gây ra sự phản đối từ phía Việt
ra sức khai thác các mỏ mới nên có khả năng xảy ra xung đột mới với Trung Quốc. Tháng 10/2004, một mỏ dầu mới được phát hiện ở ngoài khơi khu vực miền Bắc Việt Nam, phía Tây đảo Hải Nam với sự tham gia của các công ty như Petro Vietnam, Petronas Carigali (Malaixia), Petroleum (Xinhgapo) và Technology Inc. Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã phản đối. Malaixia và Brunây cũng đã tranh chấp việc phát triển một mỏ khí đốt ở khu vực hai nước cùng tuyên bố chủ quyền. Cùng các lô ở khu vực này được dành cho các công ty khác nhau, Malaixia dành quyền thăm dò cho công ty Murphy Oil trong khi Brunây dành quyền tương tự cho công ty Roal Dutch Shell (Hà Lan) và Total (Pháp). Việc tranh chấp đã ngăn cản các công ty tiếp tục các hoạt động của họ cho tới tận tháng 3/2009, khi hai nước thoả thuận giải quyết tranh chấp để cho phép các công ty tiếp tục hoạt động thăm dò. Mãi tới gần đây, tháng 3/2009, Quốc hội Philíppin mới thông qua Luật về đường cơ sở nhằm xác định đường cơ sở của đất nước quần đảo này. Theo Luật này, bãi đá ngầm Kalayaan và Scarborough (đảo Hoàng Nham) không nằm trong chủ quyền lãnh hải của Philíppin, song lại đặt các thực thể này trong một dạng gọi là “chế độ các đảo dưới sự quản lý của Cộng hoà Philíppin”. Tất nhiên Trung Quốc phản đối, và Đại sứ quán nước này tại Philíppin tuyên bố động thái đó là bất hợp pháp. Cần thiết phải có giải pháp cho những yêu cầu chủ quyền trái ngược nhau nhằm tránh mọi bất trắc để tập trung các nỗ lực vào khai thác các nguồn năng lượng ở khu vực này.
CÁC NỖ LỰC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
Trung Quốc bác bỏ các đề xuất về tiến hành các cuộc đàm phán đa phương và khăng khăng đòi tiến hành đàm phán trên cơ sở song phương. Năm 1992, Tổng thống Philíppin Fidel Ramos đề nghị tíến hành một hội nghị quốc tế về Trường Sa dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc, đề nghị được xem là một biện pháp lôgích. Đề nghị này tiếp đó được Raul Manglapus, Bộ trưởng Ngoại giao Philíppin nhắc lại tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN tháng 7/1992. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nhanh chóng lên tiếng phản đối và đề nghị này không được nêu lại một lần nào nữa từ đó đến nay. Tháng 3/1994, ông Ramos cũng kêu gọi phi quân sự hoá quần đảo Trường Sa và ngừng tất cả các hoạt động gây bất ổn định ở khu vực này. Ý định của ông Ramos là kích hoạt việc khởi động các cuộc đàm phán về vấn đề có thể đưa các bên ngồi lại với nhau để thảo luận những vấn đề chính ở giai đoạn sau đó. Trong mọi trường hợp, phi quân sự hoá khó có thể khởi động được vì nó sẽ tạo lợi thế cho Trung Quốc, bên đòi chủ quyền mạnh mẽ, song có số đảo chiếm giữ tương đối ít.
Nguyên nhân chính cho việc thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) năm 1993 là do nhu cầu phải can dự với Trung Quốc về một loạt các vấn đề, trong đó có Biển Đông. Philíppin phát hiện ra rằng sau khi Trung Quốc chiếm đảo Vành Khăn thì vấn đề này không thể được nêu lên tại ARF bởi các quan chức cấp cao phản đối không đưa vấn đề này vào chương trình nghị sự. Cả ASEAN lẫn ARF đều không có khả năng giải quyết vấn đề này khiến người ta phải đặt câu hỏi về vai trò và mục tiêu của các tổ chức này. ASEAN không thống nhất về vấn đề này do Malaixia ủng hộ Trung Quốc về đàm phán song phương. Việc Thủ tướng Malaixia Mahathir về hùa với Trung Quốc trong vấn đề này phản ánh việc ông nhằm tới một chính sách đối ngoại rộng hơn và sự bất đồng của ông với Mỹ. Một cách từ từ, quan điểm thúc đẩy các cuộc đối thoại đa phương về vấn đề này đã được đưa ra. Nếu các bên yêu cầu chủ quyền đồng ý về các vấn đề song phương, điều đó có thể giảm bớt tranh chấp xuống mức có thể quản lý được và để lại phần khó khăn hơn đòi hỏi phải có các cuộc đàm phán đa phương ở giai đoạn muộn hơn. Ý tưởng này có thể hấp dẫn, do các vùng tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc và Việt Nam chồng lấn với các vùng yêu cầu chủ quyền của đại đa số các nước khác. Trung Quốc ít nhất đã chấp nhận DOC hồi năm 2002, một động thái mà các nước ASEAN cho là còn sớm để coi đó là bằng chứng về việc Bắc Kinh chấp nhận đàm phán đa phương và hy vọng vào tương lai. Tuy vậy, DOC đáp ứng yêu cầu của Bắc Kinh trong việc ngăn chặn các nước ASEAN lôi kéo Mỹ can dự chặt chẽ hơn vào tranh chấp hoặc các hoạt động chống lại lợi ích của Trung Quốc. Thoả thuận này có tính chất chuẩn bị cho Bộ quy tắc ứng xử (COC) thực sự cần phải được đàm phán sau này, nhưng đã không có các động thái tiếp theo và tiến trình bị đình trệ.
Giải pháp hợp pháp cho sự tranh chấp ở Biển Đông đòi hỏi phải chấp nhận các nguyên tắc của UNCLOS nhằm hoà giải các tuyên bố chủ quyền trái ngược nhau. Một trong những điều không thể lường trước của cuộc tranh chấp là việc Trung Quốc không xác định rõ yêu cầu chủ quyền của họ, nước này đã công bố các bản đồ về vùng tuyên bố chủ quyền bao gồm 80 % diện tích Biển Đông, song điều này là mập mờ và không có giá trị pháp lý. Trong mọi trường hợp, theo các điều từ 74 đến 83 của UNCLOS-III, trong trường hợp có sự chồng lấn các khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, việc phân định ranh giới sẽ có hiệu lực theo hiệp định dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế hoặc Tòa án tư pháp quốc tế nhằm “đạt được một giải pháp hợp tình hợp lý”. Cả hai điều khoản đều nêu rõ rằng trong trường hợp không đạt được thoả thuận nào trong “giai đoạn hợp lý”, thì các bên sẽ dựa vào trình tự giải quyết tranh chấp trong phần XV của UNCLOS. Phần này có viết “các bên có trách nhiệm giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình” (điều 279). Việc dùng tới trung gian có thẩm quyền là tự nguyện và UNCLOS-III nêu rõ: “các nước được tự do lựa chọn” một trong các biện pháp để giải quyết tranh chấp. UNCLOS-III không được sử dụng trong tình huống khi các bên yêu cầu chủ quyền không có ý định nhờ cậy tới trung gian bắt buộc.
Sử dụng đề xuất của Trung Quốc về cùng phát triển, coi đó là cơ sở cho việc giải quyết các tranh chấp chủ quyền là một cách thúc đẩy giải pháp hợp pháp. Ý tưởng này được Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đưa ra lần đầu tiên tại Xinhgapo ngày 13/8/1990, khi ông kêu gọi các nước yêu cầu chủ quyền gạt vấn đề chủ quyền sang một bên để tạo điều kiện thực hiện tiến trình cùng khai thác. Đề xuất này được nhắc lại khi Bộ trưởng Quốc phòng Malaixia khi đó, ông Najib Tun Nazak thăm Trung Quốc tháng 6/1992 và khi ông Lý Bằng thăm Hà Nội sau đó vào tháng 12/1992. Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham phát biểu nói tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN tháng 7/1992 rằng khi các điều kiện chín muồi có thể bắt đầu các cuộc thương lượng về Biển Đông, và về nguyên tắc, Trung Quốc muốn gác lại tuyên bố chủ quyền của nước này. Ý tưởng về cùng phát triển thường được phía Trung Quốc nêu ra trong những trường hợp khác, song không được làm cho rõ thêm. Việc khích lệ ý tưởng cùng phát triển được nêu trong một đề xuất giải quyết bằng pháp lý đối với các yêu cầu chủ quyền trái ngược nhau có thể thúc đẩy Trung Quốc làm sáng tỏ lập trường của họ. Điều đó có thể mở đường cho việc giải quyết vấn đề đáp ứng lợi ích của họ. Ít nhất đã có 4 cơ hội cùng phát triển có thể được tạo ra ở Biển Đông. Cơ hội thứ nhất là hiệp định Nhật Bản-Hàn Quốc tháng 1/1974 về cùng phát triển khu vực chồng lấn ở vùng eo biển
Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều khó khăn trong việc áp dụng nguyên tắc trên vào việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Các ví dụ trên là những trường hợp đạt được hiệp định song phương, nhưng việc chuyển ý tưởng này vào trường hợp đa phương phức tạp là đầy khó khăn. Hai bên yêu cầu chủ quyền chấp nhận một công thức chia thu nhập từ khu vực cùng phát triển là việc có thể, song việc đạt được thoả thuận sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều nếu có các bên khác can dự, như trường hợp Biển Đông, nơi có 7 bên liên quan tranh chấp. Điều đó gây khó khăn hơn cho các bên yêu cầu chủ quyền trong việc chia sẻ nguồn tài nguyên mà họ coi là sở hữu hợp pháp của mình với các bên khác. Cả Việt
Cách tiếp cận luật pháp-chính trị là ý tưởng về một chế độ biển có thể sẽ chi phối khu vực Biển Đông. Cho đến nay, đề xuất đặc biệt về việc thành lập Cơ quan phát triển các nguồn năng lượng tại khu vực Trường Sa (SRDA) có thể huy động các nguồn tài chính của các nước có yêu cầu chủ quyền đối với khu vực này vào một quỹ chung và có thể thúc đẩy các nỗ lực chung để phát triển khai thác các nguồn tài nguyên của khu vực. Một chế độ biển dựa trên sự hiểu biết các nhu cầu chung là động cơ để giải quyết tranh chấp về đường lãnh hải giữa các nước yêu cầu chủ quyền. Điều 123 trong UNCLOS-III nêu rõ rằng các nước “tiếp giáp với biển kín hoặc bán kín phải hợp tác với nhau trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của Công ước này”. Điều khoản này bổ sung thêm rằng họ cần phải hành động như vậy “trực tiếp hoặc thông qua một tổ chức khu vực thích hợp”. Mark Valenccia đã đi tiên phong trong việc thúc đẩy quan điểm này lập luận rằng hợp tác biển ở khu vực có thể tiến triển từ chính sách tham vấn sang chính sách hài hoà, hợp tác và điều chỉnh chính sách quốc gia. Trong khi điều 123 quy định về vấn đề hợp tác, thì điều 56 dành cho các nước ven biển các quyền đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong đó có ít lý do để hợp tác với các bên khác trong việc xây dựng quy chế biển. Không nghi ngờ gì rằng một quy chế biển thích hợp đối với Biển Đông sẽ là điều đáng ao ước, song nó đòi hỏi phải có các cuộc đàm phán đa phương giữa các nước yêu cầu chủ quyền, điều mà Trung Quốc vẫn luôn phản đối. Việc xây dựng quy chế biển đòi hỏi phải có các quyết định chính trị, vấn đề các nước yêu cầu chủ quyền ở khu vực chưa sẵn sàng thực hiện.